Khai thác nguồn lợi từ chỉ dẫn địa lý
Chè Tân Cương Thái Nguyên đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý |
Gia tăng giá trị cho hàng hóa
Nước ta có nhiều đặc sản có giá trị kinh tế, gắn liền với các địa danh như: Nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà, chè Thái Nguyên, bưởi Năm Roi, vú sữa Lò Rèn... Tính đến tháng 3/2018, Việt Nam đã bảo hộ 66 chỉ dẫn địa lý với khoảng 1.000 sản vật, trong đó có 60 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam và 6 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài.
Theo thống kê từ Cục Sở hữu trí tuệ về cơ cấu sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, có khoảng 50% sản phẩm là trái cây, 20% là các sản phẩm từ cây công nghiệp và lâm nghiệp như: quế, hoa hồi, chè... Còn lại là các sản phẩm thủy sản, gạo và một số thực phẩm khác. Bên cạnh việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý, Việt Nam còn sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể để đăng ký cho các đặc sản địa phương, đặc biệt là các sản phẩm chưa đủ điều kiện để xây dựng chỉ dẫn địa lý.
Một trong những kết quả tích cực nhất là giá bán của các sản phẩm sau khi chỉ dẫn địa lý được bảo hộ có xu hướng tăng. Điều này thể hiện ở chỗ, mỗi một chỉ dẫn địa lý sau khi được nhà nước bảo hộ, về cơ bản, các địa phương sẽ tổ chức quản lý trên cơ sở các chính sách và quy định theo từng sản phẩm, đặc biệt là việc kiểm soát chất lượng và các quy định liên quan đến bao bì, nhãn mác, sử dụng.
Tại Hội thảo “Vai trò của chỉ dẫn địa lý trong phát triển kinh tế địa phương” do Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao tổ chức, bà Delphine Maria Vivian đến từ Trung tâm Hợp tác quốc tế nghiên cứu nông nghiệp vì sự phát triển - CIRAD (Pháp) cho biết, có 4 lợi ích từ chỉ dẫn địa lý: Thứ nhất, mang lại giá trị gia tăng cho nhà sản xuất. Thứ hai, giúp doanh nghiệp và địa phương chống hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng. Thứ ba, quảng bá sản phẩm địa phương, thu hút khách du lịch. Thứ tư, giúp bảo vệ, gìn giữ những nét văn hóa truyền thống ở địa phương.
Địa phương phải chú trọng đăng ký chỉ dẫn địa lý
Tuy nhiên, tại Việt Nam, chỉ dẫn địa lý chưa được sử dụng nhiều và khai thác hiệu quả trong thương mại. Hiện vẫn chưa có sự hợp tác, kết nối giữa các cơ quan quản lý, nhà sản xuất và người tiêu dùng. “Có đến 50% chỉ dẫn địa lý của nông sản Việt Nam không có người quản lý, khai thác. Chẳng hạn như chỉ dẫn địa lý quế Hưng Yên hay trà Mộc Châu được giao cho các hiệp hội quản lý nhưng không hiệu quả” - bà Delphine Maria Vivian nêu thực tế. Điều này dẫn đến tình trạng, nhiều nhà sản xuất tại địa phương được bảo hộ nhưng không sử dụng logo chỉ dẫn địa lý vì không biết mình có quyền. Cùng với nhận định này, PGS-TS. Phạm Xuân Đà - Cục trưởng Cục Công tác phía Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, sản phẩm có chỉ dẫn địa lý giúp doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh trên thị trường, rộng cửa ra thị trường thế giới. Thế nhưng các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam chưa có đánh giá đầy đủ về hiệu quả. Nếu các tỉnh đăng ký chỉ dẫn địa lý xong, giao cho địa phương và để đó, không đầu tư, khai thác thì chỉ dẫn địa lý gần như không có giá trị.
Chính vì vậy, để khai thác tối đa hiệu quả của chỉ dẫn địa lý, cần phải nâng cao nhận thức cho người dân, người trồng trọt, sản xuất, kinh doanh về lợi ích, tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lý bên cạnh việc quản lý vùng trồng, sản xuất sản phẩm hợp lý. Các địa phương nên chú trọng việc đăng ký chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đã qua chế biến cũng như việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm khi đưa ra thị trường.