Tiếp sức xây dựng thương hiệu sản phẩm khu vực dân tộc miền núi
Trong những năm gần đây, chính sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã chuyển mình mạnh mẽ, không còn là những gói hỗ trợ “giải quyết khó khăn” ngắn hạn, mà ngày càng hướng đến việc tạo sinh kế bền vững, trao “cần câu” hơn là cho “con cá”.
Nhiều nghị quyết, quyết định mang tính chiến lược đã được Quốc hội, Chính phủ ban hành nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong hành trình đó, doanh nghiệp và hợp tác xã đang trở thành “nhạc trưởng” dẫn dắt bản giao hưởng thương hiệu bản địa - một bước chuyển mình đầy kỳ vọng giữa đại ngàn.
Chính sách đi trước mở đường
Đầu tiên phải kể đến Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 (theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ). Đây là chương trình mang tính tổng thể, bao trùm 10 dự án thành phần, từ hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt đến phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, phát triển giáo dục, chăm sóc sức khỏe, giữ gìn bản sắc văn hóa và bảo vệ môi trường.
Cà phê Arabica Sơn La đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường. Ảnh minh hoạ |
Trong đó, Dự án số 3 về “Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị” đóng vai trò hạt nhân để thúc đẩy phát triển kinh tế bản địa.
Ngoài ra, Nghị quyết 88/2019/QH14 phê duyệt Đề án Tổng thể phát tiển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và Nghị quyết 120/2020/QH1 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030… của Quốc hội cũng đã thể chế hóa nhiều định hướng, đưa chính sách hỗ trợ đi vào chiều sâu, mang tính dài hạn.
Theo đó, các doanh nghiệp, hợp tác xã tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được: Hỗ trợ 100% kinh phí lập dự án sản xuất; hỗ trợ 70% chi phí xây dựng mô hình chuỗi giá trị; Ưu đãi tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội; Hưởng lợi từ chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” - một cú huých lớn cho việc xây dựng thương hiệu sản phẩm bản địa.
Doanh nghiệp đi sau thực hiện và đã thành công
Từ những chính sách hỗ trợ rõ ràng đó, các doanh nghiệp, hợp tác xã và bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi đã nỗ lực vận dụng, biến sản phẩm thế mạnh của địa phương thành đặc sản và lan toả đi khắp mọi miền đất nước, ra thị trường nước ngoài.
Câu chuyện của cà phê Arabica Sơn La là một điển hình. Cùng với những hộ gia đình người Mông, Dao ở Bắc Yên, Công ty TNHH MTV Cà phê Minh Tiến xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn UTZ, phát triển thương hiệu “Cà phê Arabica Sơn La” với chuỗi giá trị khép kín từ thu hái, chế biến đến xuất khẩu. Minh Tiến còn đầu tư nhà máy tại bản Phiêng Ban, tạo việc làm cho hàng trăm lao động địa phương và từng bước đưa sản phẩm vào hệ thống bán lẻ tại Nhật Bản, Mỹ.
Hay mật ong bạc hà Hà Giang, Hợp tác xã Tuấn Dũng đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ số để đưa sản phẩm mật ong bạc hà Mèo Vạc lên các sàn thương mại điện tử như Shopee, Lazada, Tiki… Đồng thời, hợp tác xã cũng nhận được hỗ trợ từ chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) để thiết kế bao bì, xây dựng nhận diện thương hiệu và truy xuất nguồn gốc. Nhờ đó, doanh thu tăng gấp 3 lần chỉ sau 2 năm.
Mắc ca được ví như "cây tỷ đô" ở khu vực Tây Nguyên giúp bà con tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững. Ảnh minh hoạ |
Mắc ca Tây Nguyên cũng là câu chuyện đáng kể. Mắc ca được ví như “cây tỷ đô” và Tây Nguyên đang từng bước khai phá tiềm năng này. Công ty CP Him Lam Mắc Ca đã triển khai chuỗi liên kết với hơn 2.000 hộ nông dân ở Đắk Lắk, Lâm Đồng, hỗ trợ giống, kỹ thuật canh tác và bao tiêu sản phẩm. Họ không vội vàng mở rộng diện tích mà chú trọng đến xây dựng thương hiệu “sạch” từ vùng nguyên liệu đến chế biến, đóng gói đạt chuẩn xuất khẩu.
Để thương hiệu sản phẩm vùng cao “lớn mạnh”
Sau nhiều năm kiên trì thực thi những chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nói chung, phát triển thương hiệu sản phẩm của đồng bào dân tộc và miền núi nói riêng đã có những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, có không ít địa phương vẫn loay hoay khi triển khai và không phải sản phẩm nào cũng dễ dàng ra thị trường. Nguyên do có thể nhận diện: Hệ thống logistics vùng sâu còn hạn chế; Trình độ quản lý của các hợp tác xã chưa cao, thiếu nhân lực chất lượng; Thương hiệu mới manh nha, chưa có sức lan tỏa; Việc tiêu chuẩn hóa và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vẫn chậm.
Để khắc phục những hạn chế trên, đồng thời đưa thương hiệu sản phẩm của bà con vùng dân tộc thiểu số và miền núi thực sự vươn lên mạnh mẽ còn cần thêm những “cú huých”.
Trong đó, các đơn vị chức năng, nhất là địa phương đẩy mạnh kết nối cung - cầu sản phẩm vùng cao, thông qua các sàn thương mại điện tử, hội chợ chuyên đề mang tính khu vực. Ưu tiên phát triển trung tâm logistics, kho lạnh vùng cao để giảm chi phí vận chuyển, tăng khả năng bảo quản sản phẩm.
Cùng đó, phát triển lực lượng doanh nghiệp, doanh nhân bản địa. Rà soát và bổ sung chính sách bảo hộ nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý cho các đặc sản vùng cao – một yếu tố sống còn để giữ bản sắc và giá trị lâu dài.
Xây dựng thương hiệu đã khó, duy trì phát triển thương hiệu còn khó hơn nhiều, do đó bên cạnh tiếp tục đồng hành hỗ trợ người dân vùng cao xây dựng thương hiệu sản phẩm còn cần cơ quan chức năng đồng hành bảo vệ, duy trì và phát triển thương. Để thương hiệu sản phẩm của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ngày một phổ biến trên thị trường, là cầu nối phát triển kinh tế, giúp thoát nghèo bền vững cho các vùng đất khó.
Xúc tiến tiêu thụ, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của bà con vùng dân tộc thiểu số và miền núi được các cấp, các ngành quan tâm từ đó xây dựng chuỗi sản xuất và tiêu thụ hàng hoá ở khu vực này. Đồng thời giúp bà con phát huy thế mạnh sản phẩm tăng thu nhập và giảm nghèo bền vững. |