Thứ hai 23/12/2024 12:24

Hiệp định RCEP: Thêm cơ hội ưu tiên xuất, nhập khẩu với các đối tác

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) có hiệu lực mang lại cơ hội mới cho doanh nghiệp (DN) Việt Nam khi có thêm một con đường xuất khẩu và nhập khẩu ưu tiên với các đối tác thành viên. DN có thêm lựa chọn hưởng ưu đãi thuế quan và điều kiện phi thuế quan được chuẩn hóa trong khuôn khổ RCEP và các môi trường có liên quan giữa Việt Nam với các nước RCEP.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - đã chia sẻ với báo chí về những cơ hội của DN Việt Nam từ RCEP.

Thưa bà, Hiệp định RCEP mang lại những cơ hội nào cho doanh nghiệp?

Việt Nam đã có hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước ASEAN cùng với một số nước đối tác như Trung Quốc, Australia, Nhật Bản, New Zealand - đều là những đối tác xuất nhập khẩu rất lớn của Việt Nam, đặc biệt trong một số ngành hàng. Vì vậy, Hiệp định RCEP có hiệu lực mang lại cơ hội mới cho DN khi có thêm một con đường xuất khẩu và nhập khẩu ưu tiên với các đối tác này. DN có thêm lựa chọn hưởng ưu đãi thuế quan và điều kiện phi thuế quan được chuẩn hóa trong khuôn khổ RCEP và các môi trường có liên quan giữa Việt Nam với các nước RCEP.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

Điều mà DN chú ý ở đây là RCEP mang lại điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan, hay gọi là quy tắc xuất xứ nội khối hài hòa, bao trùm, cho nên dễ tận dụng hơn. Các DN có thể có nhiều lựa chọn khác nhau tùy thuộc mức độ, hiện trạng, nguồn cung, cách thức sản xuất của mình để hưởng ưu đãi thuế quan theo hướng có lợi nhất.

Ngoài ra, các nước trong RCEP hiện nay đang ở trình độ phát triển khác nhau, có cơ chế quản lý khác nhau đối với xuất nhập khẩu, cũng như giao dịch thương mại quốc tế. Vì vậy, chúng ta có thể yên tâm phần nào, do DN có thể hưởng lợi ở góc độ RCEP nhờ đạt những cam kết chuẩn tối thiểu về một số biện pháp phi thuế quan. Điều này ảnh hưởng quan trọng đến dòng lưu chuyển hàng hóa, hoạt động xuất nhập khẩu của DN. Vì thế, DN cần quan tâm đến cam kết trên. Nếu trong quá trình thực hiện các giao dịch với các đối tác RCEP và liên quan đến thủ tục đã có cam kết, chúng ta biết được quyền và tận dụng tối đa, bảo vệ lợi ích của mình.

Có ý kiến cho rằng, Việt Nam nhập khẩu lớn từ các thị trường như Trung Quốc hay thị trường ASEAN… đây cũng là các nước thành viên của RCEP, điều này sẽ xảy ra cú sốc nhập siêu. Quan điểm của bà về vấn đề này?

Với RCEP, Việt Nam có cam kết mở cửa thị trường cho các đối tác thông qua loại bỏ hàng rào thuế quan, cắt giảm theo lộ trình nhất định và điều này tạo cho cơ hội hàng hóa của RCEP thêm con đường vào Việt Nam. Về lý thuyết, chúng ta phải sẵn sàng cho tình huống nhập khẩu từ các nước RCEP tăng lên. Đối với Việt Nam, điều này có thể tạo ra ảnh hưởng tương đối lớn trong bối cảnh các nước RCEP đang chiếm khoảng 70% tổng nhập khẩu của Việt Nam từ toàn thế giới.

Tuy nhiên, từ góc độ cam kết của RCEP, sau khi hiệp định này có hiệu lực, nhập khẩu từ các nước RCEP có thể tăng lên, nhưng quan ngại về việc tạo ra 1 cú sốc lớn và làm thay đổi thị thường, khiến cho thị trường “lũ lụt” bởi hàng hóa nhập khẩu từ các nước RCEP, thì không hẳn là hiện thực. Bởi trong RCEP, các nhà đàm phán của Việt Nam đã đạt được kết quả tương đối phù hợp, hợp lý với Việt Nam và những cam kết của RCEP về ưu đãi thuế quan cũng tương tự với các hiệp định mà chúng ta đã có từ trước.

Bên cạnh đó, lộ trình cam kết cũng tương đối dài, không phải là 1-2 năm mà có thể 10-20 năm, nhằm tạo sự thay đổi dần dần cho các DN để có thể thích ứng được.

Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, việc nhập khẩu từ các nước RCEP là cơ hội Việt Nam gia tăng sản xuất, xuất khẩu. Không phải trong mọi tình huống, nhập khẩu gia tăng mang lại tác động xấu cho nền kinh tế.

Vì vậy, vấn đề nhập siêu, gia tăng nhập khẩu, gia tăng cạnh tranh ở thị trường trong nước dưới tác động của RCEP, chúng ta cần có một cái nhìn thực tế, bám sát vấn đề cụ thể về cam kết, lĩnh vực hoạt động, triển vọng kinh doanh của từng ngành và đặt trong bối cảnh năng lực cạnh tranh và năng lực sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam.

Trong một số trường hợp nhất định, việc nhập khẩu từ các nước RCEP là cơ hội Việt Nam gia tăng sản xuất, xuất khẩu

Trước RCEP, Việt Nam cũng đã có những FTA với các đối tác. Bà có lời khuyên gì cho doanh nghiệp khi họ đang đứng trước nhiều lựa chọn để hưởng ưu tiên từ các hiệp định?

Việt Nam đã có 15 FTA, và tất cả các hiệp định này đều có hiệu lực song song với nhau. Chẳng hạn, Việt Nam có 3 FTA với Hàn Quốc (FTA ASEAN - Hàn Quốc, FTA Việt Nam – Hàn Quốc, RCEP) và có thể trong thời gian tới có cả Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Mỗi FTA có cam kết riêng, Hàn Quốc có cam kết với Việt Nam ưu đãi thuế quan khác nhau và quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi đó. Tùy thuộc vào quy trình sản xuất, chuỗi cung của sản phẩm và các điều kiện khác, doanh nghiệp đáp ứng được quy tắc của hiệp định nào thì hưởng ưu đãi của hiệp định đó. Nếu đáp ứng cùng lúc hai hoặc ba hiệp định, tất nhiên họ có thể lựa chọn hiệp định có ưu đãi thuế quan tốt nhất.

Đây cũng là thông tin hữu ích khi DN tiếp cận khách hàng, nhất là khi thuyết phục họ mua hàng của mình. Nếu khách hàng mua hàng của nước nào đó, giá có thể thấp hơn nhưng họ không được hưởng ưu đãi thuế quan. Đối với Việt Nam, giá có thể chưa cạnh tranh bằng nhưng lại được hưởng lợi ưu đãi thuế quan từ FTA. Đây sẽ là điểm doanh nghiệp có thể đưa vào chiến lược kinh doanh của mình.

Bà nhìn nhận thế nào về việc các kế hoạch tuyên truyền và hành động liên quan đến RCEP sau khi hiệp định có hiệu lực?

Từ kinh nghiệm thực thi các FTA trước đó, cơ quan nhà nước, hiệp hội, DN đã có sự chuẩn bị đầy đủ, chính xác, cũng như có hành động hợp lý để tận dụng cơ hội. Đây là điều kiện tiên quyết hiện thực hóa các cơ hội từ FTA. Với RCEP, ngay khi hiệp định có hiệu lực, chúng ta có kế hoạch hành động thực thi hiệp định. Kế hoạch này là sự kết hợp, tiếp nối các FTA đã thực thi như CPTPP, FTA Việt Nam - EU (EVFTA), và FTA Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Trong đó, các kế hoạch này không chỉ bao gồm việc thực thi, cam kết hiệp định, như xây dựng văn bản pháp luật, biểu thuế, quy tắc xuất xứ, phòng vệ thương mại, phổ biến tuyên truyền trực tiếp các FTA mà còn có phần quan trọng là nâng cao năng lực cạnh tranh của DN, nền kinh tế để tạo đà, chuẩn bị sức lực cho hiện thực hóa các cơ hội.

Các cơ hội vẫn ở đó, nhưng để biến lợi nhuận thực tế lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố nội lực của chính các DN. Tôi cho rằng, nếu thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ, thực chất thì sẽ rất có lợi, vì không chỉ bao gồm cải thiện cơ sở hạ tầng, chuỗi cung, mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của DN, chuyển đổi số… Tin rằng, những bước tiếp cận chuẩn xác, không chỉ tập trung vào cam kết mà còn tạo ra được nền tảng, môi trường tốt cho các DN phát triển và tận dụng cam kết.

Có ý kiến cho rằng, mặc dù RCEP đã có hiệu lực nhưng chậm ban hành biểu thuế ưu đãi. Chẳng hạn như CPTPP phải mất 6-8 tháng mới có hiệu lực thực tế, và RCEP cũng như vậy. Ý kiến của bà về vấn đề này như nào, bà có góp ý gì với cơ quan quản lý, để có thể tận dụng ngay ưu đãi đặc biệt với RCEP?

Thứ nhất, việc chuyển từ cam kết sang biểu thuế không phải đơn giản. Chúng ta bắt đầu cam kết trong RCEP là 8 năm, khi đó sử dụng hệ thống mã HS, biểu thuế quan khác, bây giờ lại là biểu thuế khác, việc chuyển biểu thuế quan sang biểu mới là không phải làm ngay được.

Thứ hai, liên quan đến quy trình soạn thảo văn bản, quy phạm pháp luật. Tất cả các biểu thuế phải được ban hành ở cấp nghị định, trong khi đó để ban hành cấp nghị định cần thời gian dài, hay việc lấy ý kiến cũng mất 6 tháng. Tất nhiên đã có nhiều văn bản đã được Chính phủ, Quốc hội ban hành quy trình rút gọn, nhưng rút gọn cũng cần phải có khoảng thời gian nhất định.

Mặt khác, cũng do một phần chưa có sự chuẩn bị tốt. Quan sát của chúng tôi, từ CTPPP, EVFTA, UKVFTA đã có sự rút kinh nghiệm rồi. Như CPTPP chậm 7 tháng, EVFTA chậm 2-3 tháng, UKVFTA thời gian còn ngắn hơn, với RCEP tương đối phức tạp vì trong RCEP có tầng cam kết thuế quan nhiều và số lượng đối tác cũng nhiều hơn. Dự thảo Nghị định biểu thuế để thực thi RCEP đã được công khai và lấy ý kiến doanh nghiệp từ trước khi hiệp định có hiệu lực.

Trong bối cảnh chưa có văn bản ban hành biểu thuế ưu đãi thực thi Hiệp định RCEP, các DN cần chú ý, các văn bản này bao giờ cũng có hiệu lực hồi tố. Vì vậy, các DN cần có sự chuẩn bị trước, trong trường hợp có hiệu lực hồi tố, những lô hàng đã nhập khẩu từ trước đó có thể tận dụng được, chứ không phải là hoàn toàn mất cơ hội.

Xin cám ơn bà!

Thu Phương (ghi)
Bài viết cùng chủ đề: Xuất nhập khẩu

Tin cùng chuyên mục

PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Dự báo, xuất nhập khẩu năm 2025 sẽ vượt con số 1.000 tỷ USD

Ngành phân bón tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất

Luật sư Nguyễn Thanh Hà: Luật Điện lực (sửa đổi) sẽ khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo

Xuất khẩu hàng hóa sang EU, doanh nghiệp đừng quên thực hiện trách nhiệm xã hội

Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam: Khẳng định sự vươn mình của hàng Việt

Tái khởi động điện hạt nhân Ninh Thuận: Công nghệ nào cho Việt Nam?

Bước tiến mới trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Công Thương

TS. Hà Đăng Sơn: Luật Điện lực (sửa đổi) khơi thông các điểm nghẽn để phát triển bền vững

Nâng cao năng lực chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu của thời đại 4.0

Bộ Công Thương phát triển nhân lực số để chuyển đổi số hiệu quả

Để văn hóa không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn là nguồn lực kinh tế vô tận

Từ vận động đến tự hào sản xuất, tiêu dùng hàng Việt Nam

Cổng FTAP: Cung cấp thông tin FTA hữu ích tới cộng đồng doanh nghiệp

Tái khởi động điện hạt nhân: Quyết sách chiến lược vì tương lai năng lượng Việt Nam

Vượt qua rào cản để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tài chính xanh: Việt Nam trên hành trình phát triển bền vững

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để 'khơi dòng' tài chính xanh

'Bệ phóng' tài chính xanh: Đưa Việt Nam đến tăng trưởng bền vững

Hà Nội: Đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng, tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa

Di sản văn hoá: Định hình bản sắc, thúc đẩy phát triển của Việt Nam trong kỷ nguyên mới