Ngày 28/7, Bộ Công Thương phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức Hội nghị Ngành Công Thương 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc năm 2023.
Dự hội nghị có bà Phan Thị Thắng - Thứ trưởng Bộ Công Thương, ông Cao Tường Huy - Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, ông Nguyễn Thành Công - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, bà Nguyễn Bích Ngọc - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng, ông Ngô Quang Trung - Cục trưởng Cục Công Thương địa phương (Bộ Công Thương), bà Nguyễn Thị Hiền - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Quảng Ninh, cùng các đại diện đến từ các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Công Thương, Sở Công Thương các tỉnh và các đại biểu đến từ 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc.
Toàn cảnh Hội nghị ngành Công Thương 28 tỉnh, thành khu vực phía Bắc năm 2023 |
Phát biểu khai mạc hội nghị, bà Phan Thị Thắng - Thứ trưởng Bộ Công Thương - cho hay: Khu vực phía Bắc có vị trí địa lý hết sức quan trọng, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cả nước.
Khu vực này có tài nguyên thiên nhiên vô cùng đa dạng và phong phú, đặc biệt là nguồn sinh vật biển tập trung ở ngư trường trọng điểm Hải Phòng - Quảng Ninh, góp phần phát triển ngành thủy sản.
Đây cũng là khu vực có các trữ lượng khoáng sản đáng kể như than đá ở Quảng Ninh, đá vôi ở Ninh Bình, đồng, apatit ở Lào Cai, sắt ở Thái Nguyên và nhiều loại khoáng sản khác. Những tài nguyên này cung cấp nguyên liệu quan trọng cho việc phát triển công nghiệp trong khu vực và cả nước.
Đồng thời, hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy của Khu vực phát triển khá đồng bộ và liên tục được nâng cấp, đầu tư mới phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Có các tuyến đường giao thông huyết mạch chạy qua: quốc lộ 5A, 5B và quốc lộ 18 là hai tuyến giao thông huyết mạch gắn kết cả Bắc Bộ nói chung với cụm cảng Hải Phòng – Cái Lân, sân bay quốc tế Nội Bài.
Bên cạnh đó, khu vực có tốc độ tăng trưởng GRDP cao so với cả nước, tiêu biểu có: GRDP trên địa bàn TP Hà Nội năm 2022 đạt 1.196 nghìn tỷ đồng, tăng 8,89% so với năm 2021; GRDP tỉnh Quảng Ninh năm 2022 đạt đạt 269 nghìn tỷ đồng, tăng 10,28% so với năm 2021.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng |
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng, với những đặc điểm, lợi thế cơ bản nêu trên, Hội nghị ngành Công Thương 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc lần thứ IX được tổ chức nhằm mục đích đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển ngành Công Thương của các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc năm 2022 và 6 tháng đầu năm 2023, qua đó đề ra nhiệm vụ, giải pháp thực hiện 6 tháng cuối năm 2023.
Hội nghị cũng thảo luận kinh nghiệm nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc có liên quan trong công tác quản lý nhà nước của các Sở, ngành ở địa phương, qua đó đề ra giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo liên kết, hỗ trợ, hợp tác trong phát triển ngành Công Thương mỗi tỉnh, thành phố và toàn khu vực.
Qua đó cung cấp những cơ hội cho các doanh nghiệp trong khu vực gặp gỡ, tìm kiếm cơ hội hợp tác, xúc tiến đầu tư và thương mại nhằm tăng cường các hoạt động liên kết đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh giao thương giữa các địa phương trong khu vực.
Đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ, công chức ngành Công Thương các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc tiếp xúc trao đổi, học tập kinh nghiệm quản lý nhà nước về công nghiệp, thương mại; tìm hiểu tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương để định hướng liên kết vùng trong lĩnh vực phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
"Thành công của hội nghị sẽ là tiền đề cho sự gắn kết và phát triển ngành Công Thương các địa phương trong khu vực, góp phần vào sự phát triển kinh tế của các địa phương và sự nghiệp phát triển ngành công thương của cả nước", Thứ trưởng Phan Thị Thắng khẳng định.
Lãnh đạo Bộ Công Thương, UBND tỉnh Quảng Ninh... điều hành hội nghị |
Theo ông Cao Tường Huy - Quyền Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh - những năm vừa qua, ngành Công Thương đã và đang tiếp tục có những đóng góp quan trọng, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại của toàn khu vực vẫn còn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế. Khoảng cách phát triển giữa các tỉnh, thành phố trong khu vực vẫn còn có sự chênh lệch. Đây là những thách thức đặt ra với các tỉnh trong thời gian tới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương.
Ông Huy cho rằng, để phát huy tiềm năng, thế mạnh của mỗi tỉnh, phục vụ cho giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi trước hết là sự liên kết, hợp tác giữa 28 tỉnh, thành phố trong khu vực.
"Hội nghị này được Bộ Công Thương tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh nhằm tăng cường và thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa các địa phương, tạo cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động công tác của ngành Công Thương các tỉnh, thành phố trong khu vực; liên kết hoạt động và hỗ trợ để cùng phát triển, góp phần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và cạnh tranh hết sức khốc liệt", ông Huy nhấn mạnh.
Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Cao Tường Huy |
Lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Ninh cho biết thêm, nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, tỉnh Quảng Ninh được ví như “một Việt Nam thu nhỏ”, có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại (địa phương duy nhất trong cả nước có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc).
Quảng Ninh cũng là trung tâm năng lượng của cả nước với trữ lượng than 3,6 tỷ tấn (mỗi năm cho khai thác trên 45 triệu tấn), 7 nhà máy nhiệt điện với tổng công suất 5640 MW chiếm 16% tổng sản lượng điện cả nước; là nơi hình thành ngành công nghiệp đầu tiên và cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam với truyền thống cách mạng “kỷ luật và ồng tâm”; là nơi hội tụ, giao thoa, thống nhất trong đa dạng của nền văn minh sông Hồng; nơi hội tụ bản sắc văn hoá con người Quảng Ninh với ý chí tự lực, tự cường được chuyển hoá thành ý chí, quyết tâm, khát vọng mãnh liệt về phát triển.
Ông Cao Tường Huy phát biểu tại hội nghị |
Phát huy hiệu quả các tiềm năng lợi thế, tỉnh Quảng Ninh trong 7 năm liên tiếp (2016 - 2022) duy trì tốc độ tăng trưởng 2 con số (trong đó có 3 năm 2020, 2021 2022 bị ảnh hướng nghiêm trọng bởi dịch bệnh COVID-19) lập nên kỳ tích trong công cuộc đổi mới. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng bền vững dự kiến năm 2023: Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 49,1%; khu vực dịch vụ và thuế sản phẩm chiếm 44,3%; khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm 6,6% trong cơ cấu kinh tế...
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, hết năm 2022 đạt 270.000 tỷ đồng (chỉ đứng sau Hà Nội, Hải Phòng ở khu vực phía Bắc). Môi trường đầu tư kinh doanh không ngừng được nâng, Quảng Ninh vịnh dự đón nhận những thành tựu nổi bật khi lần thứ 2 (2020 và 2022) chinh phục vị trí dẫn đầu cả nước cả 4 chỉ số cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh (PCI, PAPI, PAR Index và SIPAS)....
"Trong kết quả ấn tượng đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Công Thương Quảng Ninh", Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh khẳng định.
Nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá
Ông Dương Quốc Trịnh - Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương (Bộ Công Thương) - cho biết, năm 2023, Chính phủ đã giao các chỉ tiêu chính của ngành Công Thương gồm: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng khoảng 8-9%; Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 6%, duy trì xuất siêu; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khoảng 8-9%; Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu tăng khoảng 8-9,7%.
Ông Dương Quốc Trịnh - Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương |
Để hoàn thành và vượt mức các chỉ tiêu chính được Chính phủ giao cho ngành Công Thương, trong các tháng còn lại năm 2023, ngành Công Thương 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc cần tập trung vào một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 06/01/2023 của Chính phủ và Chương trình phục hồi kinh tế của Chính phủ, Chương trình hành động của ngành Công Thương và kế hoạch hành động của UBND các tỉnh/thành phố thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2023.
Triển khai các chương trình, đề án, nhiệm vụ cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, thành phố, trong đó tập trung thực hiện các giải pháp nhằm phát triển công nghiệp, thương mại của địa phương. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy hoạch ngành, lĩnh vực; các đề án, kế hoạch, chương trình công tác năm 2023 tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp và thương mại trên địa bàn.
Thứ hai, các địa phương khẩn trương tiếp tục rà soát, bổ sung các chiến lược, đề án và kế hoạch phát triển các ngành kinh tế, nhất là lĩnh vực Công Thương để tích hợp vào quy hoạch tỉnh. Đồng thời chủ động nghiên cứu quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia cũng như tham khảo quy hoạch của các địa phương khác để kịp thời điều chỉnh quy hoạch tỉnh ngay sau khi được công bố (nếu thấy những điểm bất hợp lý), để làm cơ sở cho việc triển khai các dự án đầu tư nói chung. Đặc biệt là đón các dự án đầu tư từ chương trình đầu tư quốc gia. Bố trí nguồn lực phù hợp để thúc đẩy phát triển công nghiệp và thương mại của địa phương.
Thứ ba, tập trung đẩy nhanh các dự án sử dụng vốn đầu tư công, dự án sản xuất công nghiệp, hoạt động thương mại; theo dõi bám sát tình hình sản xuất kinh doanh đề xuất các biện pháp giải quyết kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo các điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp khai thác tối đa năng lực sản xuất, năng lực kinh doanh phân phối. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách khuyến khích hỗ trợ của Trung ương và của địa phương để thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - làng nghề theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Quan tâm hỗ trợ các làng nghề có sản phẩm tiêu thụ lớn trên thị trường, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đối với khu vực nông thôn.
Thứ tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, lắp ráp, công nghiệp quốc phòng, an ninh; chú trọng các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất vật liệu mới; sản xuất nguyên liệu cung cấp đầu vào cho các cơ sở sản xuất công nghiệp trong nước. Kêu gọi đầu tư phát triển công nghiệp theo chiều sâu, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng và tỷ trọng giá trị nội địa cao, sử dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường, tạo ra những sản phẩm có thương hiệu, có sức cạnh tranh.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại mở rộng thị trường xuất khẩu; củng cố, phát triển thị trường truyền thống và khai thác thị trường xuất khẩu mới; Chuyển mạnh cơ cấu xuất khẩu cả về mặt hàng và thị trường, chú trọng phát triển theo chiều sâu; Khai thác có hiệu quả các thị trường đã ký kết FTA. Khuyến khích đầu tư kho bãi hàng hóa, khai thác hiệu quả khu thương mại - công nghiệp và hình thành khu hợp tác qua biên giới. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất nhập khẩu, buôn bán biên giới, duy trì và quản lý tốt hoạt động tại cửa khẩu phụ, lối mở biên giới.
Thứ sáu, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng thương mại và hệ thống phân phối, khuyến khích thu hút đầu tư các dự án trọng điểm phát triển hạ tầng thương mại. Thu hút đa dạng các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế, trong đó chú trọng xã hội hóa đầu tư phát triển hạ tầng thương mại chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng kinh doanh thực phẩm an toàn, kho hàng, tuyến phố chuyên doanh theo hướng văn minh, hiện đại. Tiếp tục hướng dẫn triển khai công tác chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý kinh doanh khai thác chợ trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
Thứ bẩy, tăng cường công tác quản lý nhà nước về an toàn môi trường tại các CCN; rà soát, đánh giá lại quy hoạch, tiến độ hiệu quả đầu tư hạ tầng, tỷ lệ lấp đầy của các CCN để đề xuất, tham mưu quy hoạch mới các CCN, phù hợp với thực tế của địa phương để tập trung nguồn lực, thu hút đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư hạ tầng tại các CCN. Khuyến khích thu hút các nguồn lực đầu tư đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hạ tầng các CCN.
Thứ tám, triển khai lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư phát triển lưới điện nông thôn, quản lý vận hành đảm bảo an toàn cung cấp điện, giảm tổn thất điện năng, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa...Tuyên truyền, hướng dẫn việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Thường xuyên tổ chức kiểm tra tiến độ, chất lượng thi công của các dự án thủy điện, nhiệt điện,.. kịp thời thực hiện, tham mưu tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ công tác thẩm định, phê duyệt, bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hồi đất đến thi công.
Bà Nguyễn Thị Hiền - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Quảng Ninh |
Thứ chín, bám sát triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Chủ động tham mưu, đề xuất với UBND các tỉnh, thành phố giải quyết, giúp các địa phương hoàn thành tiêu chí, chỉ tiêu nông thôn mới theo kế hoạch đăng ký, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ điện, mở rộng thị trường nội địa, tạo điều kiện để người dân nông thôn phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thứ mười, đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng giữa ngành Công Thương các tỉnh, thành phố, trong đó tập trung liên kết cung ứng hàng hóa, góp phần cân đối cung - cầu trong khu vực. Xây dựng các chương trình kết nối giữa nhà sản xuất, kinh doanh với nhà phân phối, đại lý và người tiêu dùng trong khu vực; có những cơ chế hỗ trợ để mở rộng thị trường về vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Duy trì thường xuyên việc trao đổi thông tin; xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch giữa Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trong vùng, khu vực và trong cả nước tạo cơ chế phối hợp trong công tác quản lý phát triển ngành công thương, chú trọng hợp tác về đầu tư, liên kết sản xuất, vùng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp trong khu vực. Phối hợp tốt trong công tác kiểm tra kiểm soát thị trường; tăng cường công tác phát triển thị trường tiêu thụ hàng hóa, hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics.
Bên cạnh đó, nâng cao công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội, thách thức của các Hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã, sẽ ký kết giúp doanh nghiệp chuẩn bị điều kiện cần thiết để chủ động phòng vệ thương mại, vượt qua các rào cản thương mại để phát triển; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát triển thương mại điện tử, quảng bá thương hiệu.
Đặc biệt, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng tối đa nhu cầu về nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trong ngành Công Thương. Chú trọng chính sách khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng, giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu suất lao động toàn Ngành. Triển khai nghiêm túc công tác tiếp công dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; nâng cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn ngành Công Thương.
Bức tranh công nghiệp thương mại khả quan
Theo báo cáo của Ban Tổ chức, năm 2022 và 6 tháng đầu năm 2023, sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại trên địa bàn các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhất là hệ lụy của dịch COVID-19 vẫn còn hiện hữu. Trong nước, dưới tác động của bối cảnh thế giới, của biến đổi khí hậu đã phần nào gây thiệt hại, khó khăn tạo thách thức lớn hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp điều này dẫn đến lao động việc làm tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Trên cơ sở quan điểm, định hướng chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thực hiện quy chế làm việc, quy chế phối hợp công tác, Bộ Công Thương đã quán triệt, cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch hành động, đặc biệt là bám sát diễn biến tình hình biến động của kinh tế trong nước và thế giới để linh hoạt trong điều hành, tập trung rà soát, tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đề ra; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển.
Với sự quyết tâm cao, ngành Công Thương các tỉnh thành trên cả nước nói chung và ngành Công khu vực phía Bắc nói riêng đã nỗ lực phấn đấu, phát huy kết quả đạt được của những năm trước, khắc phục khó khăn; chủ động trong công tác quản lý nhà nước, đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh; cùng với đó là sự cố gắng, ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp, người dân.
Nhờ đó "bức tranh" tổng thể về công nghiệp, thương mại của vùng trong năm 2022 và 6 tháng đầu năm 2023 vẫn thể hiện được những kết quả và tín hiệu khả quan, đóng góp chung trong tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước năm 2022 tăng 8,02% so với năm 2021 đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022 và 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,72 % so với cùng kỳ.
Cụ thể, sản xuất công nghiệp khu vực phía Bắc phục hồi tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng hơn so với cùng kỳ năm trước, góp phần quan trọng vào tăng trưởng của toàn nền kinh tế khu vực cũng như của cả nước.
Hoạt động sản xuất công nghiệp năm 2022 có mức tăng trưởng khá, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) hầu hết các tỉnh trong vùng đều tăng trưởng, 23/28 tỉnh thành cao hơn mức tăng trưởng của cả nước (tăng 7,4%), 18/28 tỉnh thành tăng trưởng trên 10%, có 6 địa phương xếp trong nhóm 10 tỉnh, thành phố (IIP) đứng đầu cả nước gồm: Nam Định, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Hà Giang.
Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng trưởng so với khá cùng kỳ: Xi măng đạt 80,3 triệu tấn tăng 43,3%; bia đóng chai đạt 353,8 triệu lít, tăng 16,3%; quần áo may sẵn đạt 1,5 tỷ cái tăng 35,9%; giày dép đạt 368 triệu đôi tăng 2,8 lần; gạch xây đạt 316,1 tỷ viên tăng 11,41%; điện sản xuất đạt 112,9 tỷ kWh tăng 1,2% so với cùng kỳ....
6 tháng đầu năm 2023 mặc dù chịu tác động tiêu cực của tình hình thế giới và tình hình biến đổi khí hậu song hoạt động sản xuất công nghiệp của một số tỉnh thành khu vực phía Bắc vẫn có những đóng góp tích cực, duy trì đà tăng trưởng chung. 16/28 tỉnh thành cao hơn mức tăng trưởng cả nước (bằng 98,8% cùng kỳ). Một số trung tâm công nghiệp khu vực phía Bắc đã khôi phục đà tăng trưởng công nghiệp như: Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng.
Các sản phẩm chủ yếu trong 6 tháng đầu năm 2023 có xu hướng tăng nhẹ, một số sản phẩm giảm theo xu thế chung của toàn ngành công nghiệp: Xi măng đạt 41,6 triệu tấn tăng 0,8%; bia đóng chai đạt 160,8 triệu lít, giảm 4,5%; quần áo may sẵn đạt 94,9 triệu cái giảm 6,4%; giày dép đạt 171,8 triệu đôi giảm 2,8%; gạch xây đạt 139,6 tỷ viên giảm 13,1%; điện sản xuất đạt 50,36 tỷ kWh giảm 39,4% so với cùng kỳ...
Về hoạt động thương mại, năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ toàn khu vực đạt 1.954 nghìn tỷ đồng, tăng 19,4% so cùng kỳ, thấp hơn mức tăng của cả nước (cả nước tăng 21,67%). Trong đó, một số địa phương có mức tăng trưởng cao hơn so với mức tăng trưởng chung của toàn khu vực, như: Hà Nội đạt 618,1 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31,63%; Hải Phòng đạt 174,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,91%; Thanh Hóa đạt 141,27 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,23%; Quảng Ninh đạt 140,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,18%, Nghệ An đạt 92,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,74%; Vĩnh Phúc đạt 68,6 nghìn tỷ, chiếm 3,51%.
6 tháng 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của khu vực ước đạt 1.300 nghìn tỷ đồng, tăng 28,8% so với cùng kỳ. 28/28 tỉnh thành có tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng so với cùng kỳ. Một số địa phương chiếm tỷ trọng cao trong toàn khu vực như: Hà Nội ước đạt 369 nghìn tỷ đồng, chiếm 28.3%; Hải Phòng ước đạt 95,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,3%; Thanh Hóa 82,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,3%; Quảng Ninh 73,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,6%...