Đồng bào dân tộc thiểu số làm giàu từ nông sản sạch
Khi người miền núi làm nông sản sạch
Từ những triền đồi sương giăng của Tây Bắc đến các thung lũng trù phú giữa đại ngàn Tây Nguyên, những vùng đất vốn gắn liền với hình ảnh “nghèo bền vững” đang dần đổi thay bằng một “công thức” mới: “Xây dựng vùng sản xuất nông sản sạch”. Câu chuyện không chỉ dừng lại ở chất lượng cây trái mà còn là hành trình kiến tạo sinh kế, nâng tầm giá trị nông sản bản địa và khẳng định bản sắc vùng miền trên bản đồ nông nghiệp xanh của Việt Nam.
Tại huyện Bắc Hà (Lào Cai), người dân Mông, Tày, Nùng đã không còn chỉ trồng ngô, lúa một vụ trên nương mà đã bắt tay vào phát triển vùng chè hữu cơ rộng hơn 500ha. Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà được thành lập từ năm 2006, đến nay đã cung cấp ra thị trường trong nước và xuất khẩu trên 150 tấn chè/năm, đạt tiêu chuẩn OCOP 4 - 5 sao. Sản phẩm chè Shan Tuyết cổ thụ không chỉ được ưa chuộng tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh mà còn đã “xuất ngoại” sang Đài Loan (Trung Quốc) và Đức với giá trị cao hơn 30% so với chè thường.
Sản phẩm chè Shan Tuyết của Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà. Ảnh Lưu Hòa |
Còn ở Kon Plông (Kon Tum), vùng đất của người Xê Đăng đang nổi lên như một điển hình với mô hình trồng rau củ hữu cơ trong nhà lưới. Nhờ khí hậu ôn đới và quy trình sản xuất bài bản, hiện nay Kon Plông có hơn 45ha rau sạch theo tiêu chuẩn VietGAP, sản lượng ước đạt 3.000 tấn/năm. Toàn bộ sản phẩm được tiêu thụ qua chuỗi siêu thị Coopmart, Bách Hóa Xanh tại miền Trung - Tây Nguyên và TP. Hồ Chí Minh.
Không thể không nhắc đến mô hình trồng bơ và sầu riêng hữu cơ tại Krông Bông (Đắk Lắk) của người Ê Đê, M’nông. Nơi đây, Hợp tác xã Nông nghiệp xanh Tây Nguyên đã triển khai mô hình liên kết với doanh nghiệp, hỗ trợ người dân chuyển đổi hơn 200ha cây ăn trái sang canh tác sạch. Sản phẩm đạt chuẩn GlobalGAP, được các doanh nghiệp như VinEco, Dalat Hasfarm bao tiêu. Trong 3 năm gần đây, thu nhập của các hộ tham gia mô hình tăng trung bình 40 - 50%.
“Lột xác” nhờ hợp tác và kỹ thuật
Một điểm sáng nổi bật trong tiến trình này chính là sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã. Các hợp tác xã không chỉ là đầu mối kết nối kỹ thuật, giống cây trồng, mà còn đóng vai trò cầu nối thị trường.
Người Xê Đăng ở Kon Plông (Kon Tum) thoát nghèo với mô hình trồng rau củ hữu cơ trong nhà lưới. Ảnh: Tuấn Anh |
Tính đến cuối năm 2024, khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số có hơn 1.500 HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả, trong đó gần 40% đã áp dụng quy trình sản xuất nông sản sạch, nông nghiệp hữu cơ. Nhiều hợp tác xã như Hợp tác xã Nông sản bản địa Lũng Vài (Hà Giang), Hợp tác xã Dược liệu Pù Mát (Nghệ An), Hợp tác xã Nông nghiệp Bản Giang (Cao Bằng)... đã trở thành “bệ phóng” cho sản phẩm nông sản sạch mang đặc trưng địa phương vươn ra thị trường lớn.
Theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, chỉ trong 2 năm 2022 - 2024, doanh thu trung bình của các hợp tác xã sản xuất sạch tại khu vực này đã tăng gấp 2,5 lần. Nhiều sản phẩm đã đạt chứng nhận OCOP 3 - 4 sao, tạo tiền đề xây dựng thương hiệu và tham gia chuỗi giá trị nông sản quốc gia.
Chỉ tiêu | Năm 2020 | Năm 2024 |
---|---|---|
Số hợp tác xã nông nghiệp vùng dân tộc thiểu số | 780 | 1.500 |
Diện tích sản xuất sạch (ha) | 12.000 | 28.000 |
Sản lượng tiêu thụ (tấn) | 25.000 | 67.000 |
Thu nhập bình quân hộ dân tham gia (triệu đồng/năm) | 28 | 52 |
Chị Lầu Thị Vảng ở xã Sín Chải (Điện Biên) từng trồng ngô chỉ đủ ăn, giờ là thành viên của tổ nhóm sản xuất rau hữu cơ. Mỗi tuần, hợp tác xã thu gom cho chị gần 200kg cải mèo, su hào, bắp cải đưa về Hà Nội bán theo đơn hàng đã ký sẵn. “Làm cái này mệt hơn nhưng bán được tiền. Cả nhà không còn lo đói nữa rồi”, chị cười rạng rỡ.
Tương tự, ông A Dư ở Đăk Glei (Kon Tum) chia sẻ: “Ngày xưa chỉ biết trồng theo tập quán. Nay có kỹ sư về hướng dẫn, biết làm đất, chọn giống, dùng phân hữu cơ. Bà con học theo, giờ ai cũng muốn vào hợp tác xã”.
Sản phẩm sầu riêng đạt tiêu chuẩn VietGAP của bà con tỉnh Đắk Lắk được bày bán tại các hội chợ thương mại. Ảnh: Ngọc Linh |
Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng để vùng sản xuất nông sản sạch ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số thật sự phát triển bền vững, theo các chuyên gia kinh tế cần tăng cường đào tạo và chuyển giao kỹ thuật. Bởi hiện nay, trình độ canh tác của nhiều hộ dân còn thấp. Cần nhân rộng mô hình cử kỹ sư nông nghiệp “cắm bản” hỗ trợ dài hạn.
Bên cạnh đó, khâu kết nối thị trường và xây dựng thương hiệu cũng phải được chú trọng. “Cần có cơ chế hỗ trợ các hợp tác xã tiếp cận hệ thống phân phối, xúc tiến thương mại điện tử và phát triển thương hiệu địa phương gắn với truy xuất nguồn gốc”, ông Vũ Vinh Phú, Chuyên gia kinh tế khuyến nghị.
Ngoài ra, bà con vùng dân tộc thiểu số miền núi hiện rất khó khăn khi tiếp cận vốn vay. Do đó, cần có chính sách ưu đãi riêng cho vùng nông sản sạch, kết hợp bảo hiểm rủi ro mùa vụ.
Hơn hết là ứng dụng công nghệ số, hỗ trợ bà con tiếp cận ứng dụng quản lý sản xuất, nhật ký điện tử, mô hình dự báo thời tiết, sâu bệnh phù hợp với điều kiện từng vùng.
Việc các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số tập trung phát triển vùng sản xuất nông sản sạch là bước chuyển mình quan trọng, không chỉ giúp tăng thu nhập, ổn định sinh kế mà còn mở ra hướng đi mới cho một nền nông nghiệp xanh, thông minh, bền vững. Những đồi chè, vườn rau, rẫy bơ sạch đang không chỉ “nuôi sống” người dân mà còn góp phần làm “sạch” tư duy sản xuất, “sạch” cả tương lai vùng cao.
“Nơi nào có sự chung tay, nơi đó có chuyển biến”. Hành trình làm nông nghiệp sạch của người miền núi còn dài, nhưng tương lai chắc chắn sẽ sáng như những giọt sương trên đọt chè non mỗi sớm. |