Nhân rộng mô hình nông nghiệp bảo đảm dinh dưỡng
Chính sách mới tập trung phát triển nông sản hàng hóa để bán
Kết quả tổng điều tra dinh dưỡng 2019 - 2020 cho thấy, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở vùng miền núi là 38% vẫn còn ở mức rất cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Đáng chú ý, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em là người dân tộc thiểu số vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ em là người Kinh (31,4% so với 15%); tại 10 tỉnh có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể cấp còi cao nhất cả nước thì 60% trẻ là người dân tộc thiểu số.
Mặt khác, tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm sau thiên tai, đòi hỏi phải có những mô hình sản xuất nông nghiệp bảo đảm cung ứng lương thực, thực phẩm tại chỗ, đáp ứng đủ chất dinh dưỡng.
HTX trồng rau sạch tại Mộc Châu, Sơn La |
Chia sẻ tại Hội nghị tổng kết 5 năm triển khai Chương trình nghiên cứu về Nông nghiệp cho dinh dưỡng và sức khỏe (A4NH) diễn ra mới đây, PGS.TS Đào Thế Anh - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam- nhận định, hầu hết các chính sách của ngành nông nghiệp đang tập trung vào phát triển nông sản hàng hóa để bán, chưa có mục thúc đẩy phát triển nông nghiệp để tiêu dùng tại địa phương cho cân đối. "Đối với bà con miền núi có điểm yếu là đất thì rộng mà bà con không biết trồng rau ở vườn nhà. Bà con trước đây thường hay đi hái trên rừng, bây giờ trên rừng không còn để hái thì họ tiêu dùng rau rất ít", PGS.TS Đào Thế Anh cho biết.
Để giải quyết vấn đề đói về dinh dưỡng, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia "Không còn nạn đói" đến năm 2025, ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT))- cho biết: Năm 2019, Bộ NN&PTNT đã phối hợp với các bên liên quan thí điểm xây dựng 3 mô hình nông nghiệp đảm bảo dinh dưỡng tại các tỉnh Lào Cai, Quảng Ngãi, Trà Vinh để đánh giá, tổng kết, xây dựng chính sách, rà soát lại các quy chế phối hợp.
Trong năm 2020, Bộ NN&PTNT đã mở rộng từ 3 mô hình sang 11 mô hình ở các xã, thôn, bản khó khăn; đồng thời, phối hợp với 8 tỉnh mở rộng mô hình, lấy ngân sách địa phương thực hiện, nâng tổng số mô hình lên thành 19.
Ngày 30/3/2020, Bộ NN&PTNT đã ban hành Quyết định số 1170/QĐ-BNN-KTHT hướng dẫn các tỉnh xây dựng dự án điểm nông nghiệp đảm bảo dinh dưỡng để đánh giá, tổng kết và mở rộng ra tất cả các tỉnh thực hiện chương trình từ năm 2021.
Với những cam kết xây dựng hệ thống lương thực thực phẩm Việt Nam “minh bạch, trách nhiệm, bền vững", ông Lê Đức Thịnh cho rằng, đây sẽ là cơ hội để lồng ghép, thực hiện các mục tiêu và các hoạt động của Chương trình hành động quốc gia "Không còn nạn đói" ở Việt Nam đến năm 2025. “Thay vì sản xuất những sản phẩm quy mô lớn, chúng ta có thể tận dụng rất tốt những sản phẩm nông sản đặc thù, đặc sản giàu dinh dưỡng và vi chất ở các địa phương. Việc triển khai thực hiện sẽ có 2 cấp độ gồm: xây dựng các mô hình để lấy làm cơ sở để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm; tuyên truyền, mở rộng các mô hình này”, ông Thịnh cho biết thêm.
Cần hướng vào thực hành nông nghiệp sinh thái
Sự phát triển toàn cầu và trong khu vực đã mang lại cho Việt Nam sự tăng trưởng vượt bậc trong thập kỷ qua. Khi kinh tế được cải thiện, quy mô dân số và tỷ lệ đô thị hóa cũng tăng theo, khiến Việt Nam phải nhanh chóng bắt kịp những thay đổi và trong quá trình này, cũng tạo ra nhiều áp lực và thách thức về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Nhằm giúp phát hiện tiềm năng phát triển nông nghiệp để mang lại lợi ích dinh dưỡng và sức khỏe, bình đẳng giới cho người nghèo, trong 5 năm qua, Tổ chức tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR) đã triển khai Chương trình Nông nghiệp cho Dinh dưỡng và Sức khỏe (A4NH) tại Việt Nam.
Theo đó, A4NH đã phối hợp với các bên liên quan để tìm ra các điểm đầu vào cho quá trình chuyển đổi sang chế độ ăn uống lành mạnh; tìm hiểu hành vi của người tiêu dùng; cung cấp bằng chứng cho quá trình hoạch định chính sách, đưa các kết quả nghiên cứu sang can thiệp và tác động giúp cải thiện sức khỏe con người. “Quan hệ đối tác chặt chẽ giữa chương trình A4NH và các đối tác tại Việt Nam, được điều phối bởi Liên minh Bioversity CIAT và Viện Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ A4NH thực hiện được các mục tiêu trong chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm cấp quốc gia và cấp vùng hướng tới chế độ ăn uống lành mạnh và chất lượng hơn’’, bà Inge Brouwer- Phó giáo sư, Đại học Wageningen (Hà Lan)- phụ trách quản lý hợp phần Hệ thống thực phẩm lành mạnh của A4NH- cho biết.
Kết quả của quá trình hoạt động nhiều năm của A4NH tại Việt Nam đã đóng góp vào lộ trình chuyển đổi hệ thống lương thực của Việt Nam, trong cam kết của Việt Nam sau Hội nghị thượng đỉnh về hệ thống lương thực thực phẩm của Liên hợp quốc (UNFSS). Nghiên cứu về hệ thống thực phẩm từ nông thôn đến thành thị do A4NH hỗ trợ ở miền Bắc giúp cung cấp thông tin tổng quan về những thách thức và cơ hội, hỗ trợ cho quá trinh xây dựng chính sách và lập kế hoạch kinh tế xã hội sau Hội nghị thượng đỉnh UNFSS.
Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020, nhìn về tổng thể chế độ ăn và bữa ăn của người dân Việt Nam mang tính truyền thống và có hợp lý cân bằng dinh dưỡng với nguồn thực phẩm phong phú. Người dân đã cải thiện và đa dạng trong chế độ ăn uống với xu hướng giảm tỷ lệ tiêu thụ ngũ cốc, tăng tỷ lệ thịt, cá, sữa, trứng, trái cây, rau quả.
Theo PGS.TS Đào Thế Anh, trong thời gian tới, mô hình nông nghiệp đảm bảo dinh dưỡng cần hướng vào thực hành nông nghiệp sinh thái, sử dụng các cây, con bản địa để trồng trong vườn nhà theo hướng hữu cơ, phục vụ nhu cầu ở địa phương là chính. Đồng thời, sử dụng mô hình nông lâm kết hợp để đa dạng hóa các sản phẩm ở địa phương kết hợp cả trồng trọt, chăn nuôi. "Chúng tôi đang có dự án giúp cho hai tỉnh Sơn La và Điện Biên xây dựng chiến lược chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái bền vững, không chạy theo canh tác cây ngô trên đất dốc, phá hoại môi trường như những năm trước" – PGS.TS Đào Thế Anh nói.
Trong thời gian tới, các sáng kiến của One CGIAR về Một sức khỏe (One Health) và và sáng kiến “Chế độ ăn uống lành mạnh bền vững thông qua chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm” (SHiFT) sẽ xác định việc lồng ghép các chế độ ăn lành mạnh bền vững đồng thời bảo vệ sức khỏe toàn diện, môi trường và sinh kế trên tất cả các lĩnh vực.
Các chuyên gia cũng nhận định, những sáng kiến này giúp các quốc gia chuyển đổi tốt hơn từ các hệ thống lương thực hiện nay, đồng thời thích ứng với các động lực toàn cầu và những thay đổi về môi trường. Điều này giúp bảo vệ đa dạng sinh học và tiếp cận các cơ hội sinh kế, bên cạnh việc tiếp tục nghiên cứu các chế độ ăn uống và dinh dưỡng tốt hơn, hỗ trợ phát triển nông nghiệp.