Sản phẩm nông nghiệp 'cất cánh' nhờ chuyển đổi số
Nông sản vùng miền “thay da đổi thịt” nhờ công nghệ số
Từ vùng chè truyền thống, tỉnh Thái Nguyên đang thay đổi từng ngày nhờ đưa công nghệ số vào sản xuất và phân phối. Đến cuối năm 2024, hơn 70% diện tích chè trong tỉnh được áp dụng cảm biến theo dõi sinh trưởng, phần mềm quản lý vùng trồng và hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR. Nhờ đó, sản phẩm chè Thái Nguyên đã vươn tới các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Ông Hoàng Văn Dũng - Giám đốc Hợp tác xã chè La Bằng, chia sẻ: “Chúng tôi dùng phần mềm để ghi chép quá trình chăm sóc chè, gắn mã QR để khách hàng biết rõ nguồn gốc. Nhờ vậy, chè bán được giá hơn, thương hiệu cũng vững vàng hơn trên sàn thương mại điện tử”.
Tại Bắc Giang, vùng trồng vải Lục Ngạn đang chứng kiến sự thay đổi rõ rệt. Năm 2024, hàng trăm tấn vải được tiêu thụ qua các sàn thương mại điện tử như Voso, Postmart, Sendo. Đặc biệt, người dân ở đây đã quen với việc tạo mã vùng trồng và dán tem truy xuất điện tử, điều từng xa lạ vài năm trước.
Nhiều đoàn viên thanh niên hỗ trợ livestream bán vải thiều cho người dân Lục Ngạn. Ảnh: Quang Huấn |
Chị Nguyễn Thị Hòa, một hộ trồng vải lâu năm, cho biết: “Trước kia nhà tôi chỉ bán cho thương lái, không biết hàng đi đâu. Từ khi được hướng dẫn gắn mã QR, khách đặt online qua sàn cũng nhiều. Giá bán cao hơn mà mình chủ động hơn trong tiêu thụ”.
Tương tự, tỉnh Sơn La, thủ phủ cây ăn quả miền Bắc đã có hơn 80% sản phẩm như xoài, nhãn, mận hậu được dán tem điện tử truy xuất nguồn gốc. Những lô xoài Sơn La đã đến được Nhật Bản, nhãn tươi được vào Úc, phần lớn là nhờ quá trình minh bạch hóa thông tin sản phẩm và tiếp thị qua kênh số.
Từ mã QR đến livestream: Nông thôn mới chuyển mình từng ngày
Chị Vũ Thị Hương, một hộ trồng chè ở xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên), chia sẻ: “Chuyển đổi số giúp chè nhà tôi được người mua tin tưởng hơn. Trên bao bì có mã QR, ai cũng có thể quét để biết chè được hái ngày nào, sao sấy ra sao. Nhiều khách đặt mua từ tận Hà Nội, Đà Nẵng, giá cũng cao hơn trước khoảng 20%”.
Ở Bắc Giang, anh Trần Văn Lợi, chủ vườn vải hơn 3 ha, cho biết: “Khi vải có mã truy xuất, khách mua không còn lo hàng trôi nổi. Tôi còn được một sàn thương mại điện tử hỗ trợ livestream bán vải, có hôm bán hết sạch trong chưa đầy một tiếng”.
Không chỉ tăng thu nhập, chuyển đổi số còn giúp người dân thay đổi tư duy sản xuất, chú trọng đến chất lượng, an toàn và hình ảnh sản phẩm. Các hợp tác xã trẻ cũng năng động hơn khi có thêm công cụ số hỗ trợ truyền thông, kiểm soát chất lượng và tìm đầu ra cho nông sản.
Anh Nguyễn Đức Thắng, một thành viên hợp tác xã dâu tây ở huyện Mộc Châu (Sơn La), cho biết: “Chúng tôi không còn phụ thuộc chợ đầu mối như trước. Mỗi vụ dâu tây, tôi chụp ảnh vườn, cập nhật thông tin lên fanpage, khách tự nhắn đặt hàng”.
Các bạn trẻ áp dụng chuyển đổi số quảng bá và bán sản phẩm dâu tây. Ảnh: Minh Ngọc |
Chuyển đổi số không chỉ là công cụ kỹ thuật, mà đang trở thành chiếc chìa khóa để nông thôn mới phát triển bền vững. Từ việc học cách gắn mã QR, quay video quảng bá sản phẩm, đến đưa nông sản lên các sàn thương mại điện tử, người dân nông thôn giờ đây đã “kỹ thuật số hóa” từng bước nhỏ trong sản xuất, kinh doanh.
Tại nhiều địa phương miền Bắc, các hộ nông dân trẻ đã trở thành những “người bán hàng online” thực thụ. Họ sử dụng Zalo để chốt đơn, dùng livestream Facebook để giới thiệu mùa vụ, hay thậm chí gửi hàng bằng mã bưu chính đến tận tay khách hàng ở nước ngoài.
Tuy vậy, quá trình chuyển đổi số ở nông thôn vẫn còn không ít khó khăn, đặc biệt với người cao tuổi hoặc hộ dân ít tiếp xúc công nghệ. Vấn đề đường truyền mạng, kỹ năng số, và chi phí đầu tư ban đầu cũng là rào cản khiến không phải ai cũng làm được.
Chị Đào Thị Thúy (huyện Văn Bàn, Lào Cai), tâm sự: “Ban đầu tôi sợ lắm, không dám đụng điện thoại thông minh. Nhưng sau được con trai chỉ cách vào app, cách ghi nhật ký chăm cây trên máy, tôi thấy cũng không khó lắm. Giờ tôi ghi lại từng lần phun thuốc, bón phân, rồi tạo QR đưa lên bao bì”.
Chuyển đổi số vì thế không chỉ là chuyện của kỹ thuật, mà còn là câu chuyện đổi mới tư duy, là hành trình kiên trì để người nông dân bước vào thời đại mới. Khi người dân chủ động nắm bắt công nghệ, tự tin đưa sản phẩm lên nền tảng số, thì nông thôn mới thực sự “hiện đại” chứ không còn chỉ là hình thức.
Và có lẽ, thành công của chè Thái Nguyên, vải Lục Ngạn, dâu tây, xoài Sơn La… chính là minh chứng rõ ràng nhất rằng chuyển đổi số nếu đi đúng hướng, có sự đồng lòng từ cơ sở, thì nông sản Việt hoàn toàn có thể đi xa, nông thôn mới hoàn toàn có thể phát triển bền vững.
Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ là một xu hướng mang tính nhất thời, mà đang dần trở thành yếu tố cốt lõi để nâng tầm sản phẩm, thúc đẩy phát triển nông thôn theo hướng bền vững và hiện đại. Từ những mã QR nhỏ bé đến các chiến dịch bán hàng trực tuyến, người nông dân miền Bắc đang dần “thay da đổi thịt” để thích nghi với thị trường ngày càng khắt khe, trong nước lẫn quốc tế. Quan trọng hơn, quá trình số hóa ấy đang góp phần thay đổi tư duy sản xuất, từ nhỏ lẻ sang chuyên nghiệp, từ thụ động sang chủ động, từ truyền thống sang hiện đại. Đó là tín hiệu tích cực cho một nền nông nghiệp thông minh, nơi người dân nắm vai trò trung tâm, công nghệ là công cụ và tương lai nông thôn được định hình từ chính những thay đổi hôm nay. |