Thứ hai 23/12/2024 19:06
Hàng Việt thích ứng tiêu dùng xanh

Bài 2: Sản xuất, phân phối, tiêu dùng xanh: Vẫn còn nhiều khó khăn cản đường

Hướng tới các sản phẩm xanh để gia tăng cạnh tranh là điều bắt buộc, tuy nhiên, còn nhiều khó khăn cản đường doanh nghiệp ngay chính tại thị trường trong nước.

Đường đi khó

Theo khảo sát mới đây của Nielsen Việt Nam, 80% người tiêu dùng Việt sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm có cam kết xanh và sạch, sản xuất từ những nguyên liệu thân thiện với môi trường.

Người tiêu dùng ngày càng ưu tiên sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường

Để cạnh tranh, xu hướng xanh hóa trong xây dựng thương hiệu ngày càng phổ biến, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đầu tư sản xuất nhằm cho ra đời những sản phẩm đảm bảo yếu tố xanh và sạch; xây dựng thương hiệu xanh gắn với phát triển bền vững. Tuy nhiên, các thương hiệu có cam kết xanh và sạch hiện có mức tăng trưởng chỉ khoảng 4%/năm.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư mạnh hơn vào khâu chế biến, đa dạng hóa sản xuất, liên kết với nhau tạo thành phong trào sản xuất các sản phẩm hữu cơ và phát triển rộng khắp cả nước. Tuy nhiên, sự xuất hiện của sản phẩm xanh trong hệ thống bán lẻ hiện đại tại Việt Nam vẫn còn chừng mực và khiêm tốn.

Sự chỉ đạo của các Bộ, ban, ngành và sự tích cực của các doanh nghiệp đã góp phần tích cực, thúc đẩy tiêu dùng xanh, nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc sử dụng các sản phẩm sinh thái, túi nylon sinh thái, 3R (tiết giảm - tái sử dụng - tái chế). Tuy nhiên, phần lớn mới chỉ dừng lại ở những hoạt động đơn lẻ, chưa kết nối với nhau, phạm vi tác động hẹp, chưa có tính phổ biến và tính bền vững.

Ở góc độ nhà bán lẻ, bà Nguyễn Thị Mỹ Hưng - Quản lý Bộ phận trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, MM Mega Market Việt Nam chia sẻ, trong suốt quá trình hướng đến sự phát triển bền vững cũng như đến được sự thay đổi hay xu hướng tiêu dùng mới, doanh nghiệp cũng vấp phải những phản đối, không hài lòng từ chính khách hàng. “Việc chúng tôi không phát túi nilon tại các quầy tính tiền ban đầu cũng nhận được sự không hài lòng từ khách hàng rất nhiều”, bà Nguyễn Thị Mỹ Hưng chia sẻ.

Ngoài ra một khó khăn nữa là trong quá trình thực hiện Nghị định 08 về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, MM Mega Market đang trong quá trình thu thập thông tin về bao bì để chuẩn bị báo cáo (Báo cáo EPR) thì MM Mega Market nhận thấy rất nhiều đối tác, nhiều doanh nghiệp không hề biết đến khung luật này.

Bên cạnh những mặt tác động tích cực như: Nắm bắt được xu thế của thế giới để định vị thương hiệu sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam, có thể chiếm lĩnh được thị trường và niềm tin của người tiêu dùng… thì việc áp dụng quá trình sản xuất xanh, phân phối xanh có một số khó khăn.

Nhiều siêu thị đã nói không với túi nilon, sử dụng lá chuối để bọc rau củ

Ông Cù Huy Quang - Phó Chánh văn phòng Sản xuất và tiêu dùng bền vững (Bộ Công Thương) - đánh giá, khi chuyển đổi sang nền sản xuất xanh, doanh nghiệp đối diện với nhiều khó khăn, theo đó, phải lựa chọn được mô hình phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp, hay nói cách khác đó là phải lựa chọn được công nghệ phù hợp với quy mô phát triển của doanh nghiệp.

Tiếp đến là vốn đầu tư, đây là một trong những thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn vốn đầu tư thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp hiện nay cũng gặp khó khăn đó là những chính sách của Nhà nước về hỗ trợ doanh nghiệp trong chuyển đổi sang nền sản xuất xanh còn hạn chế.

Cần các chính sách ưu tiên

Dù vậy, bà Nguyễn Thị Mỹ Hưng cho rằng, người tiêu dùng hiện nay, đặc biệt là người tiêu dùng trẻ rất chủ động trong việc tìm kiếm những sản phẩm hay những dịch vụ bảo vệ môi trường bền vững hơn.

“Chủ động mang túi đựng hàng thay vì lấy túi nilon; chủ động lựa chọn những sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe, tốt hơn cho môi trường; chủ động lựa chọn những thương hiệu có trách nhiệm hơn với xã hội;… là cách mà các bạn trẻ đang làm”, bà Nguyễn Thị Mỹ Hưng cho biết.

Người tiêu dùng trẻ rất chủ động trong việc tìm kiếm những sản phẩm hay những dịch vụ bảo vệ môi trường bền vững hơn

Có thể thấy xu hướng tiêu dùng xanh càng ngày càng mạnh mẽ hơn và nó tác động đến doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp phải có tư duy thay đổi, làm sao để sản phẩm và dịch vụ của mình đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng mới hiện nay.

Theo các chuyên gia, sản xuất và tiêu dùng bền vững là một trong những xu hướng tất yếu không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh các nguồn nguyên vật liệu sơ cấp của chúng ta ngày càng cạn kiệt.

Vấn đề được đặt ra lúc này là cần thêm những trợ lực từ phía cơ quan quản lý nhà nước trong việc chung tay thúc đẩy việc sản xuất và tiêu dùng bền vững tại Việt Nam. Trong đó, cần có những giải pháp về cơ chế, chính sách và ưu tiên, khuyến khích việc nghiên cứu khoa học, phát triển các công nghệ hiện đại để áp dụng vào sản xuất. Bên cạnh đó, việc sản xuất xanh và sạch cần một nguồn vốn dài hạn và ổn định. Vì vậy, cần có những cơ chế, chính sách giúp các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi.

Đồng thời, Nhà nước cần phải có những chính sách mang tính chất khuyến khích và ưu tiên những đơn vị sản xuất xanh, sạch hơn. Ví dụ hai đơn vị cùng sản xuất ra một thiết bị nhưng đơn vị nào sản xuất sạch hơn, xanh hơn thì sẽ được ưu tiên quảng bá sản phẩm và sử dụng sản phẩm.

Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Cù Huy Quang cho rằng, để đáp ứng được những thách thức trước mắt đặt ra, về phía các doanh nghiệp phải cần xác định một nhận thức rất rõ ràng, đó là quá trình chuyển đổi sang nền sản xuất bền vững, sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững, tiêu dùng xanh là một xu thế tất yếu và là con đường chiến lược để doanh nghiệp hướng tới phát triển bền vững.

Còn về phía Nhà nước, cần phải hoàn thiện khung cơ chế chính sách để hỗ trợ được các doanh nghiệp trong việc chuyển đổi sang nền sản xuất và tiêu dùng bền vững. Bên cạnh đó, cần đồng bộ hóa những chính sách ưu tiên phát triển sản xuất xanh trong các ngành, các lĩnh vực.

Khảo sát năm 2023 của Nielsen IQ chỉ rõ, sự kỳ vọng của người tiêu dùng với doanh nghiệp về những sáng kiến và hành động thiết thực nhằm cải thiện môi trường. Theo đó, 38% người tiêu dùng đánh giá sáng kiến và hành động thiết thực của doanh nghiệp nhằm cải thiện môi trường là cực kỳ quan trọng. 80% người tiêu dùng Việt sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm có cam kết “xanh” và “sạch”, sản xuất từ những nguyên liệu thân thiện với môi trường.

Bài 3: Vượt qua “rào cản xanh” cần sự đồng hành của các Bộ, ngành

Nguyễn Hạnh
Bài viết cùng chủ đề: Sản xuất và tiêu dùng bền vững

Tin cùng chuyên mục

Khơi thông thị trường ngoài nước: Chống lãng phí nguồn lực, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu

Thêm cơ hội cho hàng Việt ra nước ngoài qua ‘cánh cửa’ xuất khẩu online

Xuất nhập khẩu hàng hóa 2024 chính thức xác lập kỷ lục mới

Để hàng Việt ‘bám rễ’ thị trường Hoa Kỳ

Tính đến hết ngày 15/12, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 385,35 tỷ USD

Triển vọng xuất khẩu thủy sản năm 2025 sẽ rất khả quan

Hàng loạt đề xuất giúp mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thế và lực đưa đất nước vươn mình

Xúc tiến xuất khẩu bài bản, hiệu quả, xuất nhập khẩu năm 2024 dự báo đạt kỷ lục

Năm 2024, các thị trường đã đưa ra 1.029 thông báo về an toàn thực phẩm

Trung Đông nằm Top 2 thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam có tăng trưởng mạnh nhất

Dự kiến năm 2025, trái chanh leo Việt Nam sẽ được cấp phép xuất khẩu sang Hoa Kỳ

Tiêu chuẩn xanh của thị trường EU: Động lực hay áp lực với hàng Việt?

Điểm danh những nhóm sản phẩm xuất khẩu chịu tác động của Thoả thuận Xanh châu Âu

Bức tranh sáng cho hoạt động xuất nhập khẩu năm 2025

Tổng cục Hải quan tổng kết năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025

Xuất khẩu cà phê chế biến sâu: ‘Chìa khoá’ xây dựng bền vững thương hiệu

Năm 2024, xuất khẩu nông - lâm - thủy sản bứt phá ngoạn mục

Việt Nam nhập khẩu gần 1,98 triệu tấn đậu tương trong 11 tháng năm 2024

Dự báo nào cho xuất khẩu rau, quả năm 2025?

Xuất khẩu bền vững sang EU: Nâng cao giá trị sản phẩm để 'thoát kiếp' gia công