Xuất hiện lần đầu từ 10.000 năm trước Công Nguyên tại nền văn minh Lưỡng Hà, nghề làm gốm đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của con người trong khoản thiết kế và chế tạo những công cụ phục vụ cuộc sống. Để rồi sau 9.000 năm tiến bộ và phát triển, nghề làm gốm đã được 2 nền văn minh Trung Hoa và Hy Lạp cổ đại đưa lên 1 tầm cao mới - nghề phục vụ cho nhu cầu giải trí thẩm mỹ của con người.
Nghề làm gốm đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của con người - ảnh Cấn Dũng |
Nghề làm gốm đã có mặt tại Việt Nam cách đây khoảng 1 vạn năm. Gốm xuất hiện trong những di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long... Rồi ta thấy trong di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, giai đoạn Đồng Đậu, giai đoạn Gò Mun... Đồ gốm cổ truyền nước ta đã có những bước phát triển cao và hết sức phong phú và phát triển cực thịnh vào thời Lý - Trần với sự xuất hiện của làng gốm Bát Tràng nổi tiếng. Bên cạnh những sản vật thiên nhiên nổi tiếng thì gốm là 1 trong những mặt hàng dùng để tiến cống nhiều nhất trong thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, điều này càng chứng tỏ sản phẩm của người Việt chúng ta có giá trị thẩm mỹ rất cao và là niềm khao khát của nhiều quốc gia trên thế giới.
Sản phẩm của người Việt có giá trị thẩm mỹ rất cao |
Nghề gốm phát triển rải rác khắp đất nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ thời Lý - Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)... Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt. Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải nói tới Bát Tràng - Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm, sứ.
Gốm cổ Việt Nam đã trở thành một loại hình nghệ thuật mang tính dân gian sâu sắc |
Theo tài liệu giới thiệu Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà của Ty Văn hóa Hà Bắc, và tài liệu Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật, năm 1964, vào khoảng thời Lý - Trần có người đỗ Thái học sinh (đặc biệt chức Thái học sinh thì mới có từ thời Trần) được cử đi sứ nhà Tống (Trung Quốc) là Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa), Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà (Hà Bắc), Lưu Phong Tú, người làng Kẻ Sặt (Hải Dương). Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm. Khi về nước, ba ông chọn ngày lành tháng tốt lập đàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng. Công nghệ có được phân như sau: Ông Kiều về Bồ Bát, ông Tiến về Thổ Hà, ông Tú về Phù Lãng, và làng Bồ Bát chuyên chế các hàng gốm sắc trắng; làng Thổ Hà chuyên chế các hàng gốm sắc đỏ; làng Phù Lãng chuyên chế các hàng gốm sắc vàng, thẫm.
Vẻ đẹp trong từng sản phẩm gốm thủ công vẫn luôn được đón nhận rộng rãi |
Nửa năm sau nghiên cứu, chế tạo thành công, ba ông lấy các đồ gốm do tay mình chế được, dâng Vua xem. Nhà Vua thấy sản vật đẹp, liền khen thưởng các quan sứ thần bốn chữ “Trung ái Quán Thế” và phong cho ba ông danh “Khởi nghệ tiên triết”. Tục truyền, dịp này, dân làng ở ba nơi đều tế lễ sầm uất và linh đình. Sau dâng ba tuần rượu, dân chúng nhảy nhót hoan hô để biểu dương các ngài đem nghề về truyền cho dân. Sau khi ba ông mất, dân chúng ba nơi đều tôn ba ông là “Tổ sư”, tức “Tổ nghề”.
Phường gốm Bồ Bát sau có rời ra ngoài Bắc. Dọc theo con sông Hồng, tới một bãi sông có đất thó trắng, họ dừng lại lập lò gốm ở đó, với tên gọi Bạch Phường thổ, sau này đổi là Bát Tràng phường. Và ngày nay, ta quen gọi là Bát Tràng.
Đồ gốm cổ truyền nước ta đã có những bước phát triển cao và hết sức phong phú |
Đồ gốm thời Lý - Trần phát triển mạnh, nhiều ở số lượng và quý ở chất lượng. Thịnh hành hai loại gốm chính, là: Gốm trang trí kiến trúc, thường là đất nung để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc đáo. Ví dụ như gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, kích thước khác nhau. Hoặc ngói bò có gắn đầu phượng, đầu rồng. Hoặc hình gốm trang trí hình chiếc lá nhọn đầu để gắn trên nóc hoặc riềm nhà... Còn như gốm gia dụng, thì đủ thể loại. Nào bát đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum, vò... Đồ gốm thời kỳ này, ngoài ý nghĩa sử dụng trong nước, còn được xuất đi nhiều nước khác.
Lịch sử từng ghi lại, từ đầu nhà Lý đã có nhiều nước tới buôn bán, trao đổi hàng hóa với nước ta như Nam Dương, Xiêm La (Thái Lan)... Tới thế kỷ XII, các thuyền buồm ngoại quốc cập bến nước ta càng đông. Năm 1149, Triều Lý cho lập cảng Vân Đồn, để thuyền bè các nước vào ra buôn bán. Cho tới nay, dọc hai bên bờ bến cảng Vân Đồn còn lại nhiều mảnh gốm của nhiều thời đại ở Việt Nam sản xuất. Trong đó, có cả mảnh gốm men ngọc của thời Lý.
Đồ gốm đã đi vào đời sống sinh hoạt hằng ngày |
Hiện tại, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam còn lưu giữ được nhiều đồ gốm, đồ sứ các thời đại của nước ta. Đó là những dấu tích để chứng minh kỹ nghệ phẩm ở nước ta sớm phát triển, và từ xưa, nghề gốm ở nước ta đã chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế, văn hóa của dân tộc.
Hiện nay, do sự phát triển của nhiều loại chất liệu và ngành nghề gia công khác nhau mà nghề làm gốm đã dần đánh mất vị trí độc tôn từng có ở thời phong kiến. Tuy nhiên, vẻ đẹp trong từng sản phẩm gốm thủ công vẫn luôn được đón nhận rộng rãi bởi những người yêu nghệ thuật. Ngoài phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, gốm còn rất phù hợp để trang trí trong nhà và làm quà tặng vào những dịp đặc biệt.
Việt Nam có nhiều sản phẩm gốm nổi tiếng như gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu, gốm Bàu Trúc… |
Bảo Ngọc