10 ngành công nghiệp chủ yếu năm 2024 tăng trưởng ra sao?
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), năm 2024, quy mô sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh, trên diện rộng và liên tục được mở rộng trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn, giữ vai trò động lực, dẫn dắt tăng trưởng chung của nền kinh tế (chỉ số sản xuất ngành công nghiệp 11 tháng năm 2024 tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,9%), là mức tăng cao nhất trong giai đoạn từ năm 2020 đến nay). Với đà tăng như hiện nay, dự kiến cả năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khoảng trên 8%, vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch tăng 7-8%).
Hoạt động sản xuất tại doanh nghiệp dệt may (Ảnh: May 10) |
Đặc biệt thông tin về thực trạng phát triển của 10 ngành công nghiệp, Cục Công nghiệp cho biết: Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô tô: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất xe có động cơ tháng 11/2024 ước tính tăng 2,5% so với tháng 10/2024 và tăng 36,2% so với tháng 11/2023.
Tính chung 11 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất xe có động cơ tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2023 (cao hơn so với mức tăng trưởng 14% của 10 tháng đầu năm 2024).
Trong tháng 11/2024, Việt Nam sản xuất, lắp ráp ước đạt 47,3 nghìn chiếc ô tô, tăng 3% so với tháng 9/2024 và tăng 47,8% so với tháng 10/2023. Như vậy, sản lượng ô tô nội địa đã có tháng tăng trưởng thứ 8 kể từ đầu năm 2024 và là lần tăng thứ 6 liên tiếp.
Đây cũng là tháng có sản lượng cao nhất kể từ đầu năm 2024. Đà tăng trưởng liên tục giúp tổng sản lượng sản xuất ô tô trong nước lũy kế 10 tháng năm 2024 đạt 336,5 nghìn xe ô tô, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2023. Mức tăng trưởng này đã cải thiện so với mức tăng 15,8% trong 10 tháng đầu năm 2023.
Ngành điện tử: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, sản lượng tivi sản xuất trong nước tháng 11/2024 đạt 1.024,7 nghìn chiếc, giảm 9,9% so với tháng 10/2024 và tăng 18,3% so với tháng 11/2023; chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tháng 11/2024 tăng 6,3% so với tháng trước và tăng 12% so với tháng 11/2023.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, sản lượng tivi sản xuất trong nước đạt 11.398,4 nghìn chiếc, tăng 8,3% so cùng kỳ năm 2023; chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong tháng 11/2024 số lượng điện thoại sản xuất của cả nước ước đạt 18,3 triệu chiếc, tăng 3,9% so với tháng 10/2024 và tăng 5,8% so với tháng 11/2023; trị giá sản xuất linh kiện điện thoại tháng 11/2024 ước đạt 68,9 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với tháng 10/2024 và giảm 1,3% so với tháng 11/2023.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, số lượng điện thoại sản xuất của cả nước ước đạt 176,8 triệu chiếc, giảm 4,2%; trị giá sản xuất linh kiện điện thoại ước đạt 555 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Ngành sản xuất máy nông nghiệp: Theo số liệu báo cáo của Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam-CTCP (VEAM), trong tháng 11 năm 2024: sản xuất động cơ đốt trong các loại đạt 920 cái; máy xay xát lúa gạo đạt 286 cái; vòng bi đạt 1,2 triệu vòng; hộp số các loại đạt 1000 hộp; ru lô cao su xay xát đạt 1680 cặp; phụ tùng máy động lực đạt 32,8 tỷ đồng; phụ tùng xe máy đạt 145,3 tỷ đồng.
Tính đến tháng 11 năm 2024, sản xuất động cơ đốt trong các loại đạt 9575 cái; máy xay xát lúa gạo đạt 966 cái; vòng bi đạt 13,2 triệu vòng; hộp số các loại đạt 8788 hộp; ru lô cao su xay xát đạt 88607 cặp; phụ tùng máy động lực đạt 305,3 tỷ đồng; phụ tùng xe máy đạt 1436,9 tỷ đồng.
Ngành sản xuất giấy: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất giấy và sản phẩm giấy trong tháng 11/2024 tăng 1,4% so với tháng 10/2024 và tăng 11,5% so với tháng 11/2023. Lũy kế 11 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất giấy và sản phẩm giấy tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2023 (cao hơn mức tăng 9,3% của 10 tháng năm 2024).
Nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp |
Trong tháng 11/2024, một số chủng loại sản phẩm giấy đạt sản lượng cao như: Bao bì và túi bằng giấy (trừ giấy nhăn) đạt 542,54 triệu chiếc, tăng 10,15% so với tháng 10/2024 song giảm 3% so với tháng 11/2023. Tổng sản lượng 11 tháng năm 2024 đạt gần 5,7 tỷ chiếc, tăng 6,38% so với 11 tháng năm 2023.
Thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) đạt hơn 511 triệu chiếc, tăng 6,86% so với tháng 10/2024 và tăng 13,77% so với tháng 11/2023. Tổng sản lượng 11 tháng đạt gần 4,9 tỷ chiếc, tăng 3,11% so với cùng kỳ năm 2023.
Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 238,78 triệu trang, tăng 4,03% so với tháng 10/2024 và tăng 28,68% so với tháng 11/2023. Tổng sản lượng 11 tháng đạt 2,04 tỷ trang, tăng 2,04%.
Hộp và thùng bằng giấy nhăn và bìa nhăn đạt 167,3 triệu chiếc, tăng 3,47% so với tháng 10/2024 và tăng 6,35% so với tháng 11/2023. Tổng sản lượng 11 tháng đạt 1,6 tỷ chiếc, giảm 1,07%.
Ngành thép: Sản lượng thép thô và thép HRC tăng so với năm 2023, trong đó, dự kiến sản lượng thép thô khoảng 24 triệu tấn, tăng 12,5% so với năm 2023; thép HRC dự kiến đạt 7,2 triệu tấn, tăng 10,7% so với năm 2023, thép xây dựng dự kiến đạt 12,7 triệu tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2023.
Ngành dệt may: Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 44 tỷ USD như dự kiến, tăng 11,26% so với năm 2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 25 tỷ USD, tăng 14,79%; xuất siêu 19 tỷ USD, tăng 6,93% so với năm 2023.
Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 16,71 tỷ USD, tăng 12,33% so với năm 2023 và chiếm tỷ trọng 37,98% tổng kim ngạch xuất khẩu; Nhật Bản ước đạt 4,57 tỷ USD, tăng 6,18%, chiếm tỷ trọng 10,39%; EU ước đạt 4,3 tỷ USD tăng 7,66%, chiếm tỷ trọng 9,77%; Hàn Quốc ước đạt 3,93 tỷ USD, tăng 10,36%, chiếm tỷ trọng 8,93%; Trung Quốc ước đạt 3,65 tỷ USD, tăng 1,76%, chiếm tỷ trọng 8,3%; ASEAN ước đạt 2,9 tỷ USD, tăng 4,84%, chiếm tỷ trọng 6,59%.
Ngành da giày: Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 27 tỷ USD, tăng so với mức gần 24 tỷ USD của năm 2023. Ngành da giày đã tận dụng tốt lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) để đẩy mạnh xuất khẩu.
Xuất khẩu sang thị trường EU tăng 23,8%, thị trường CPTPP tăng 13,9% và thị trường ASEAN tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu giày dép đạt ước đạt 22 tỷ USD, tăng 10,1%, và xuất khẩu túi xách, ví, vali, mũ, ô dù ước đạt 5 tỷ USD, tăng 10,5%.
Ngành bia, rượu vẫn gặp nhiều khó khăn do thay đổi thói quen của người tiêu dùng khi cơ quan chức năng thực hiện chặt chẽ Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, chi phí nguyên liệu đầu vào, chi phí bán hàng, chi phí quản lý đều tăng, người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu không thiết yếu.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 11 năm 2024, sản lượng sản xuất bia đạt 4,059 tỷ lít, giảm 2,1% với cùng kỳ năm 2023.
Ngành sản xuất thuốc lá vẫn giữ mức tăng trưởng tốt. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 11 năm 2024, sản lượng sản xuất thuốc lá điếu đạt 6,867 tỷ bao, tăng 6,5% với cùng kỳ năm 2023.
Ngành sữa: Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng năm 2024, sản lượng sữa tươi ước đạt 1,879 tỷ lít, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2023. Sản lượng sữa bột ước đạt 132,4 nghìn tấn, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Doanh nghiệp sữa trong nước ngày càng chủ động sản xuất theo hướng xây dựng nhiều trang trại hiện đại hóa, đa dạng sản phẩm cũng giúp thị trường sữa trong nước ổn định, giữ giá sữa trong nước không tăng cao.
Theo Cục Công nghiệp, cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững: tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo (tiêu chí và là biểu tượng của nước công nghiệp) tiếp tục tăng khá, đạt 24,1%, đáp ứng yêu cầu đề ra tại Nghị quyết 01 của Chính phủ. |