Đông Nam Á duy trì vị thế “vựa lúa gạo” khu vực
Một phân tích mới đây trên tạp chí Nature Food cho biết, năng suất cây trồng giảm dần, khan hiếm đất và biến đổi khí hậu có thể khiến Đông Nam Á mất vị thế là nhà xuất khẩu gạo lớn - trừ khi có những thay đổi trong kỹ thuật sản xuất và quản lý để duy trì “vựa lúa gạo” khu vực.
Phân tích này đánh giá khoảng cách giữa sản lượng gạo tiềm năng và thực tế ở các nước Đông Nam Á, bao gồm Campuchia, Indonesia và Philippines, đồng thời chỉ ra các cách để tăng sản lượng gạo trong khu vực.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng vào năm 2050, do dân số ngày càng tăng, nhu cầu về gạo trong khu vực sẽ cao hơn 18%. Các nhà nghiên cứu cho biết, với phạm vi hạn chế ở các nước sản xuất gạo lớn khác như Trung Quốc và Ấn Độ để tạo ra thặng dư gạo, các nước Đông Nam Á có chênh lệch năng suất lớn hơn phải đẩy mạnh sản xuất để tránh nhu cầu nhập khẩu trong tương lai.
Sự đình trệ năng suất lúa đã được ghi nhận ở các nước như Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, do dân cư và công nghiệp lấn chiếm các khu vực trồng lúa, ít có triển vọng mở rộng diện tích đất trồng lúa có tưới, do đầu tư không đầy đủ và các lý do khác.
Chuyên gia cao cấp Alice Labourte tại Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế có trụ sở tại Philippines cho biết, Đông Nam Á sẽ không thể sản xuất thặng dư gạo lớn trong tương lai nếu xu hướng hiện tại tiếp tục. Việc không tăng năng suất trên diện tích lúa hiện có sẽ làm giảm mạnh khả năng của các nước trong khu vực trong việc đạt được hoặc duy trì khả năng tự cung tự cấp gạo và xuất khẩu gạo sang các khu vực khác.
Sử dụng phương pháp tiếp cận chuyên sâu về dữ liệu, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng khoảng cách trung bình về năng suất lúa đại diện cho khoảng 48% “tiềm năng năng suất” được ước tính cho khu vực mặc dù có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia. Campuchia, Myanmar, Philippines và Thái Lan đã cho thấy "khoảng cách năng suất lúa" lớn hơn Indonesia và Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu cho biết, thu hẹp "khoảng cách năng suất có thể khai thác" bằng cách quản lý cây trồng thích hợp và các biện pháp khác sẽ giảm đáng kể nhu cầu nhập khẩu gạo và tạo ra "thặng dư gạo hàng năm tổng cộng 54 triệu tấn có sẵn để xuất khẩu". Theo đó, các chuyên gia khuyến nghị các biện pháp cụ thể để cải thiện năng suất lúa như đầu tư vào nghiên cứu nông nghiệp và nhân rộng các công nghệ nâng cao năng suất để thu hẹp khoảng cách năng suất có thể khai thác trong 20 năm tới.
Các thực hành quản lý cây trồng như sử dụng tốt hơn phân bón và tưới tiêu, chất dinh dưỡng, nước và quản lý dịch hại đặc biệt hữu ích trong các môi trường có mưa ở vùng đất thấp. Việc thu hẹp khoảng cách năng suất đòi hỏi nỗ lực phối hợp của các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu và dịch vụ khuyến nông để tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận công nghệ, thông tin và thị trường.
Chuyên gia Samarendu Mohanty, Giám đốc khu vực châu Á của Trung tâm Khoai tây quốc tế, cho biết Đông Nam Á cần sản xuất nhiều gạo hơn với đầu vào giảm, bao gồm đất và nước, đồng thời để lại dấu vết môi trường nhỏ hơn. Với mức tiêu thụ vẫn tăng cùng với sự gia tăng dân số, các nước này cần phải đẩy nhanh tốc độ tăng năng suất ở các nước mục tiêu để tiếp tục là nhà xuất khẩu gạo ròng.
Việc tăng sản lượng gạo trong khu vực sẽ tăng cường an ninh lương thực không chỉ trong khu vực mà còn trên toàn cầu. Duy trì khả năng sản xuất thặng dư gạo lớn của Đông Nam Á có thể giúp giảm biến động giá toàn cầu và cung cấp nguồn cung gạo ổn định và giá cả phải chăng cho nhiều quốc gia ở châu Phi cận Sahara và Trung Đông.
Với giá phân bón tăng cao, nhiều nông dân có thể chọn giảm sử dụng phân bón, điều này có thể dẫn đến sản lượng lúa thấp hơn. Giá phân bón đã tăng chóng mặt trong vài tháng qua cùng với cuộc chiến Ukraine khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn; Riêng trong tháng 2, giá phân bón đã tăng 40%. Vụ mùa mưa ở châu Á, là vụ mùa sinh trưởng chính sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi giá cao và tình trạng thiếu phân bón.