Phát triển kinh tế số và khát vọng Việt Nam hùng cường
Thế giới chuyển mình
Trên thế giới, dịch Covid-19 tạo áp lực, lẫn động lực thúc đẩy sự bùng nổ của nền kinh tế số, thể hiện qua lượng dữ liệu lớn được luân chuyển trên hệ thống internet. Theo đó, lưu lượng dữ liệu toàn cầu hằng tháng có thể sẽ tăng từ 230 exabyte (năm 2020) lên 780 exabyte vào năm 2026.
Quy mô của thị trường thiết bị hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT) toàn cầu năm 2020 là 308,97 tỷ USD, dự kiến sẽ tăng từ 381,30 tỷ USD vào năm 2021 lên 1.850 tỷ USD vào năm 2028 và mức tăng trưởng hằng năm sẽ là 25,4% trong giai đoạn 2021-2028.
Tại Đông Nam Á, khu vực có khoảng 670 triệu người, kinh tế Internet được dự báo đạt 1.000 tỷ USD vào năm 2030 sau khi đã có thêm 60 triệu người dùng Internet mới kể từ khi bắt đầu xảy ra dịch Covid-19, nâng tổng số lên 440 triệu người đang sử dụng Internet, với hàng chục triệu người tham gia mua sắm trực tuyến và giao hàng thực phẩm…
Những con số trên phần nào cho thấy kinh tế số không còn là "khái niệm trừu tượng" nữa mà đã là thực tế vô cùng sống động.
Mục tiêu của Việt Nam
Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số Chủ trương, Chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030". Chương trình này có tính động, mở, bao trùm, tạo nền móng, làm cơ sở xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Theo đó, các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp phải coi chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo, điều hành. Căn cứ tình hình cụ thể, từng bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp quyết định xây dựng đề án, chương trình, chiến lược, kế hoạch lồng ghép nội dung về chuyển đổi số trong hoạt động của mình. Nội dung chuyển đổi số quốc gia phải được chỉ đạo, giám sát, đánh giá định kỳ hằng năm, giữa nhiệm kỳ và mỗi 5 năm.
Từ năm 2020, dịch bệnh Covid-19 đã và đang tạo áp lực và cả động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ và bùng nổ kinh tế số ở Việt Nam cả về tốc độ và phạm vi, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tìm hướng đi mới và hoạt động hiệu quả hơn… Qua đó, hướng tới hiện thực hóa khát vọng đất nước hùng cường.
Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2021, dịch Covid-19 được coi là "cú hích trăm năm" cho chuyển đổi số đối với ngành Thông tin và Truyền Thông.
Dịch bệnh đã thúc đẩy chuyển đổi số trong cả quản lý và sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối và các hoạt động xã hội truyền thống khác. Hoạt động thương mại điện tử, làm việc, hội họp, học tập, tư vấn và kể cả vui chơi giải trí từ xa… ngày càng trở nên phổ biến.
Nhờ đó, các chỉ số xếp hạng trong nhiều lĩnh vực thuộc ngành Thông tin và Truyền Thông đều được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Năm 2021, Việt Nam có 64.000 doanh nghiệp công nghệ số, tăng thêm 5.600 doanh nghiệp so với năm 2020 và so với chỉ có 45.600 doanh nghiệp công nghệ số vào năm 2019. Nhiều doanh nghiệp công nghệ số đã chuyển sang sản xuất các sản phẩm công nghệ 4.0...
Bộ Thông tin và Truyền Thông đã công bố 34 nền tảng số "Make in Viet Nam". Các doanh nghiệp công nghệ số như VNPT, Viettel, CMC, FPT… có tiềm lực, có đóng góp lớn trong phát triển chính quyền số, kinh tế số với việc xây dựng các nền tảng số quốc gia.
"Make in Viet Nam" thúc đẩy quá trình chuyển đổi số |
Các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam hiện nay đã có bước tiến ở chỗ không chỉ gia công, lắp ráp cho nước ngoài. Với tinh thần "Make in Viet Nam", các doanh nghiệp đã vươn lên, sản xuất và làm chủ những sản phẩm, nền tảng công nghệ chuyển đổi số trong nước.
Đặc biệt, Việt Nam đã đạt được mục tiêu về số lượng doanh nghiệp công nghệ số sớm ba năm. Thay vì đến 2025, năm 2022 Việt Nam cán mốc 70.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực này đã đăng ký thành lập và hoạt động. Doanh thu toàn ngành ước đạt 148 tỷ USD. So với năm 2021, số doanh nghiệp công nghệ số đã tăng hơn 6.000 doanh nghiệp.
Năm 2023 sẽ là năm thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số ở mọi ngành trên phạm vi toàn quốc, toàn dân và toàn diện, là năm đầu thực hiện các chiến lược mới về hạ tầng số, dữ liệu, công nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ số, chuyển đổi số báo chí...
Cả nước đang hướng mạnh đến mục tiêu năm 2025 có 100.000 doanh nghiệp công nghệ số, với ít nhất 10 doanh nghiệp công nghệ số đóng vai trò dẫn dắt, có năng lực cạnh tranh quốc tế, doanh thu trên 1 tỷ USD; có ít nhất 10 địa phương đạt doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin trên 1 tỷ USD. Ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông dịch chuyển từ gia công, lắp ráp sang "Make in Viet Nam", tức sản xuất sản phẩm tại Việt Nam, đạt trên 45%...
Chuyển đổi số ngành Công Thương: Hướng tới người dân và doanh nghiệp
Chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực Thương mại và Công nghiệp. Bộ Công Thương xác định tập trung vào những nhóm giải pháp đồng bộ hướng tới người dân và doanh nghiệp là chìa khóa để tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nên cần được triển khai liên tục, kiên trì, thực chất, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí nguồn lực, đồng thời đảm bảo tính kế thừa và đổi mới sáng tạo với những bước đi vững chắc, phù hợp thực tiễn hoạt động của Bộ và của ngành Công Thương trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực, theo định hướng chủ trương, nghị quyết của Trung ương
Trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã quyết liệt triển khai các Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như góp phần hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp thông qua chương trình cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử tại Bộ Công Thương.
Với quan điểm đổi mới, quyết liệt hành động, liên tiếp trong các năm vừa qua, Bộ Công Thương đã có nhiều đề xuất tham mưu cho Chính phủ cũng như có văn bản chỉ đạo các đơn vị chức năng rà soát để đơn giản, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, đẩy mạnh hiện đại hóa hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Trên thực tế, sau khi các điều kiện kinh doanh được cắt giảm, thủ tục hành chính được đơn giản hoá đã tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng cho tất cả các thành phần kinh tế tại Việt Nam. Bộ Công Thương đã đẩy mạnh thực hiện việc áp dụng Chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý điều hành, thực hiện nhiệm vụ để tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Cụ thể, Bộ Công Thương đã chủ động triển khai hàng loạt các giải pháp nhằm đẩy mạnh áp dụng Dịch vụ công trực tuyến tại Bộ và đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận.
Cổng dịch vụ công của Bộ Công Thương |
Đến thời điểm này, tất cả 297 thủ tục hành chính cấp Trung ương thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương đã được triển khai áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 trở lên; Hiện nay, Cổng Dịch vụ công Bộ Công Thương đang cung cấp 236 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 tại địa chỉ https://dichvucong.moit.gov.vn (8 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 228 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4) với gần 40.000 doanh nghiệp tham gia khai báo. Tổng số hồ sơ dịch vụ công trực tuyến năm 2021 là 1.617.249 hồ sơ, tương ứng hơn 99% tổng số hồ sơ được gửi đến Bộ.
Bộ Công Thương cũng đã hoàn thành mục tiêu cung cấp 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức độ 4 trước thời hạn đề ra (trong năm 2021).
Từ ngày 1/12/2021, Bộ Công Thương triển khai việc in thẳng C/O mẫu D điện tử thành file PDF có mã phản hồi nhanh QRCode trên hệ thống eCoSys. C/O mẫu D là mẫu C/O đầu tiên trong 10 mẫu C/O sẽ được triển khai điện tử trong giai đoạn này. Việc triển khai thể hiện cam kết của Bộ Công Thương trong việc hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp trong tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp như hiện nay.
Bộ Công Thương hiện đã kết nối 16 nhóm dịch vụ công trực tuyến với Cơ chế một cửa quốc gia (VNSW). Tổng số hồ sơ thực hiện trên VNSW trong năm 2021 là 282.564 hồ sơ. Riêng đối với thủ tục Cấp giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan), kết nối thành công với Cơ chế một cửa ASEAN (ASW) và đã trao đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D điện tử với 9 nước bao gồm: Indonesia, Thái Lan, Singapore, Malaysia và Bruinei, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippine. Trong năm 2021, tổng số hồ sơ điện tử đã trao đổi với các nước là 203.663 hồ sơ. Đây là chứng từ điện tử đầu tiên của Việt Nam được gửi ra nước ngoài, tạo tiền đề, đòn bẩy để Việt Nam tiếp tục trao đổi, xử lý trực tuyến các chứng từ thương mại khác dưới dạng điện tử khác với các nước, khối - cộng đồng kinh tế theo các thỏa thuận và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Đến tháng 12/2019, Bộ Công Thương đã đưa tổng cộng 131 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của Bộ Công Thương lên Cổng dịch vụ công Quốc gia. Từ ngày 1/1/2021 đến nay, Cổng Dịch vụ công Bộ Công Thương đã trao đổi 1.164.552 bộ hồ sơ điện tử với Cổng dịch vụ công Quốc gia.
Với kết quả đạt được, Bộ Công Thương đã được Văn phòng Chính phủ ghi nhận là một trong những đơn vị đi đầu trong cả nước đối với việc kết nối Cổng dịch vụ công Quốc gia (cả về số lượng dịch vụ công trực tuyến và số lượng hồ sơ điện tử).
Bộ Công Thương cũng đã triển khai kết nối Cổng dịch vụ công và Hệ thống một cửa điện tử của Bộ với Hệ thống giám sát, đo lường mức độ cung cấp và sử dụng dịch vụ Chính phủ số để đánh giá, đo lường, công bố trực tuyến mức độ, chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến; từ đó, cải tiến chất lượng và hiệu quả cung cấp, sử dụng dịch vụ công trực tuyến đối với các thủ tục hành chính cấp trung ương thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại Phiên họp thứ Hai của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số |
Báo cáo chuyên đề về chuyển đổi số của Bộ Thông tin và Truyền thông - cơ quan thường trực của Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số cho biết, Bộ Công Thương là một trong 3 bộ có kết quả xử lý trực tuyến cao nhất với tỷ lệ 99,78%.
Theo đánh giá tại báo cáo, Bộ Công Thương là một trong những bộ, ngành tiêu biểu về triển khai dịch vụ công trực tuyến trên phạm vi cả nước, không chỉ bảo đảm cung cấp tối đa dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 mà còn triển khai các biện pháp, giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng Dịch vụ công trực tuyến, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm phục vụ.
Có thể thấy, trong thời gian qua, việc thúc đẩy việc xây dựng, ứng dụng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp tại Bộ Công Thương tập trung ở 4 yếu tố bao gồm:
Một là, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của đồng chí Bí thư Ban Cán sự, Bộ trưởng và các đồng chí Lãnh đạo Bộ;
Hai là, lựa chọn đúng các thủ tục hành chính có số lượng hồ sơ lớn để đưa vào xây dựng, áp dụng thành dịch vụ công trực tuyến, từ đó thấy được lợi ích cụ thể của việc xây dựng Dịch vụ công trực tuyến, từ đó áp dụng trên diện rộng;
Ba là, xây dựng dịch vụ công trực tuyến đơn giản, dễ sử dụng với người dân, doanh nghiệp; bốn là xây dựng, ban hành những văn bản, quyết định cá biệt nhằm thúc đẩy việc sử dụng các dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Công Thương.
Đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử - Lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số
Theo Nghị quyết 52-NQ/TW và Nghị quyết 01/NQ-CP, thương mại điện tử được định hướng là lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số, nơi công nghệ tiên tiến của nền cách mạng công nghiệp 4.0 được ứng dụng rộng rãi để tăng hiệu quả của hoạt động kinh doanh, góp phần hiện đại hóa hệ thống phân phối và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu.
Với mức tăng trưởng cao và đồng đều khoảng 25-30% trong 10 năm vừa qua, đến nay, Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á về thương mại điện tử. Đặc biệt, trong 2 năm đại dịch, Việt Nam chứng kiến nhiều chuyển biến trong hành vi, thói quen mua sắm của người tiêu dùng, cũng như mô hình kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp trong cả nước. Mặc dù nhiều lĩnh vực kinh tế khác đang phải vật lộn với ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, thương mại điện tử vẫn tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu đáng kể. Tại Việt Nam, trong năm 2021, doanh thu thương mại điện tử (B2C) đạt 13,7 tỷ USD với mức tăng trưởng 16% so với năm trước.
Thương mại điện tử vẫn giữ mức tăng trưởng 2 con số, góp phần tháo gỡ khó khăn trong xúc tiến tiêu thụ và lưu thông hàng hoá giữa đại dịch.
Lãnh đạo Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương tại Lễ Khai trương “Gian hàng vải thiều tỉnh Bắc Giang trên các Sàn Thương mại điện tử trong nước và quốc tế” |
Dịch Covid-19 bùng phát đã đặt ra không ít thách thức cho chuỗi cung ứng và lưu thông hàng hoá. Thực hiện vai trò đầu mối, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp cùng các cơ quan Bộ, ngành, địa phương, các sàn thương mại điện tử lớn triển khai việc kết nối và hỗ trợ bán hàng, tiêu thụ nông sản trên nền tảng số. Đây là một trong những giải pháp được đánh giá mang lại hiệu quả cao, là cánh tay nối dài bên cạnh phương thức phân phối hàng hoá truyền thống, từ đó giúp bà con nông dân mở rộng thị trường tiêu thụ khắp 63 tỉnh, thành phố, tận dụng ưu thế của công nghệ theo xu hướng 4.0.
Chương trình “Gian hàng Việt trực tuyến” trên các sàn thương mại điện tử lớn tại Việt Nam như Sendo.vn, Voso.vn, Tiki.vn, Shopee, Lazada, Postmart… đã mang lại hiệu quả hết sức tích cực khi kết nối thương mại điện tử thành công với gần 30 tỉnh, thành phố trong cả nước và hỗ trợ hàng nghìn doanh nghiệp địa phương tiêu thụ được hàng nghìn tấn nông đặc sản tới vụ. Tiêu biểu là sự kiện hỗ trợ tiêu thụ vải thiều Bắc Giang có sức lan tỏa lớn với trên 9.000 tấn vải thiều, gần 1 triệu đơn hàng đã được tiêu thụ qua các sàn thương mại điện tử như Sendo, Voso, Postmart, Tiki, Shopee, Lazada vượt xa con số tiêu thụ dự báo ban đầu trong khi Bắc Giang đang bùng phát dịch.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh một số tỉnh, thành phố phía nam và khu vực thành phố Hồ Chí Minh phải thực hiện giãn cách xã hội, thương mại điện tử đã trở thành một phương thức phân phối hiệu quả, an toàn, đảm bảo việc cung ứng hàng hóa, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho người dân, bổ sung nguồn cung hàng hoá cho các chợ đầu mối và siêu thị.
Phương thức này đã góp phần duy trì chuỗi cung ứng và chuỗi lưu thông. Hàng loạt các chương trình đã được triển khai trên như “Đi chợ tại nhà” trên Sendo; “Đi chợ Online” trên Lazada, “Thực phẩm bình ổn” trên Shopee, “Đi chợ hộ” trên Voso, hay các chương trình trên Tiki, Postmart. Cùng với đó là hệ thống các siêu thị như Vinmart, BigC/Go, MegaMarket, Lotte Mart… cũng đồng loạt triển khai các ứng dụng thương mại điện tử trong việc tổ chức phân phối hàng hoá cho người dân các tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội với hàng trăm tấn nông sản, thực phẩm được tiêu thụ mỗi ngày qua kênh trực tuyến.
Nâng cao kỹ năng chuyển đổi số, tăng cường tương tác với người dân, doanh nghiệp
Ngày 29/4/2022, Bộ Công Thương cũng đã ban hành Quyết định số 823/QĐ-BCT ban hành Chương trình Chuyển đổi số giai đoạn 2022-2025 nhằm đẩy mạnh việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử tại các đơn vị thuộc Bộ Công Thương trên cơ sở cải cách hành chính, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.
Theo đó, mục tiêu cụ thể của Chương trình Chuyển đổi số giai đoạn 2022-2025 nhằm nâng cấp, vận hành Hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên môi trường mạng đảm bảo kết nối, liên thông trao đổi văn bản điện tử qua tất cả các cấp chính quyền của Bộ và kết nối Trục liên thông văn bản quốc gia, Tỷ lệ văn bản trao đổi, hồ sơ công việc xử lý trên môi trường mạng đạt 100% đối với các nội dung không mật; khai thác sử dụng triệt để hộp thư điện tử được cấp, các phần mềm chuyên ngành phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ; sử dụng hiệu quả mạng Internet để khai thác thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn; xây dựng, khai thác dịch vụ nền tảng để đăng nhập các hệ thống thông tin theo cơ chế đăng nhập một lần (SSO-Single Sign On)...
Chương trình cũng đặt mục tiêu hoàn thiện Cổng Dịch vụ Công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp Bộ, đảm bảo 100% các thủ tục hành chính trên Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử của Bộ được kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng dịch vụ Công quốc gia, cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và cơ sở dữ liệu quốc gia khác có liên quan.
Ngoài ra, ngành Công Thương cũng phấn đấu 100% dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3,4 phổ biến, liên quan đến nhiều người dân, doanh nghiệp được tích hợp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; 100% giao dịch trên Cổng dịch vụ công Quốc gia, Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của Bộ được xác thực điện tử; 100% dịch vụ công trực tuyến thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu được tích hợp lên cơ chế một cửa Quốc gia; hoàn thành việc kết nối Hệ thống thông tin tiếp nhận, trả lời phản ánh kiến nghị của người dân, doanh nghiệp của Bộ Công Thương với Hệ thống của Chính phủ, đảm bảo tiếp nhận 100% thông tin phản ánh của người dân và chuyển cho các đơn vị liên quan giải quyết. Công bố 100% thông tin phản hồi, đảm bảo người dân, doanh nghiệp tiếp cận được thông tin một cách chính xác và kịp thời...
Để thực hiện các nhiệm vụ kể trên, Bộ Công Thương cũng đưa ra lộ trình thực hiện với từng nhiệm vụ cụ thể, gồm hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển hạ tầng kỹ thuật, phát triển các hệ thống nền tảng, phát triển dữ liệu, phát triển các ứng dụng dịch vụ, bảo đảm an toàn thông tin và phát triển nguồn nhân lực. Đi kèm với từng nhiệm vụ là những giải pháp cụ thể trong đó có việc nâng cao nhận thức, kỹ năng số, tăng cường tương tác với người dân, doanh nghiệp; ứng dụng các nền tảng đào tạo kỹ năng số cho người dân; phát triển mô hình kết hợp giữa các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp; tăng cường hợp tác quốc tế...
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng giao từng nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị trực thuộc Bộ để triển khai có hiệu quả Chương trình Chuyển đổi số giai đoạn 2022-2025. Trong đó, đối với lĩnh vực năng lượng, Bộ yêu cầu phải xây dựng kế hoạch chuyển đổi số ưu tiên tập trung cho ngành điện lực hướng đến tối đa hóa và tự động hóa các mạng lưới cho việc cung ứng điện một cách hiệu quả; kết nối các đồng hồ đo điện số để cải thiện tốc độ và sự chính xác của hóa đơn, xác định sự cố về mạng lưới nhanh hơn, góp phần hỗ trợ người dùng cách tiết kiệm năng lượng và phát hiện ra các tổn thất, mất mát điện năng.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chứng kiến Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác phát triển nhà máy thông minh giữa Bộ Công Thương và Samsung Việt Nam |
Đối với lĩnh vực công nghiệp, yêu cầu đặt ra là cần xây dựng kế hoạch chuyển đổi số trong sản xuất công nghiệp theo hướng chú trọng phát triển các trụ cột, xây dựng chiến lược, cơ cấu tổ chức thông minh, nhà máy thông minh, vận hành thông minh để tạo ra các sản phẩm thông minh...
Giai đoạn 2016-2020, Bộ Công Thương đã có sự chuyển biến tích cực so với giai đoạn 2010-2015 và đạt được những kết quả nhất định về công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của đơn vị trực thuộc Bộ. Theo đánh giá của Bộ Thông tin và Truyền thông, về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan Trung ương, qua các năm, từ vị trí cuối bảng, Bộ Công Thương đã vươn lên vị trí dẫn đầu. Cụ thể, năm 2017, Bộ Công Thương xếp hạng ở vị trí 17/19, năm 2018 đã vươn lên vị trí thứ 2/19 và 2/17 vào năm 2019, năm 2020 xếp hạng thứ 6/18.
Trong thời gian tới, việc thực hiện thành công Nghị quyết số 33-NQ/BCSĐ của Ban cán sự Đảng, Quyết định số 823/QĐ-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương về Chương trình Chuyển đổi số của Bộ Công Thương giai đoạn 2022-2025 góp phần quan trọng vào hiện đại hóa nền hành chính Bộ Công Thương, phát triển Chính phủ điện tử, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên cơ sở lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.
Hiện thực hóa khát vọng đất nước hùng cường
Để thúc đẩy chuyển đổi số cần phải đồng bộ thể chế số, hạ tầng số, công cụ sản xuất số, công cụ quản lý số, nhân lực số, thị trường số, và quản lý pháp luật số nhằm có một môi trường số lành mạnh, quản lý được các nguy cơ và rủi ro trên không gian mạng.
Vì vậy, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp công nghệ số. Xây dựng và bảo vệ được không gian tăng trưởng, phát triển kinh tế số dựa trên các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, sản xuất, cung cấp, ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam…
Việt Nam đang nỗ lực hướng đến mục tiêu vào năm 2025, công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông chuyển mạnh từ gia công, lắp ráp sang "Make in Viet Nam. Đặc biệt, phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.
Chúng ta vừa phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số có năng lực đi ra toàn cầu. Cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan Nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT). Mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP. Tỉ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%. Năng suất lao động hằng năm tăng tối thiểu 8%, đưa Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI), về chỉ số cạnh tranh (GCI) và về đổi mới sáng tạo (GII) cũng như về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Với tinh thần đó, có thể thấy, phát triển kinh tế số vừa là áp lực thời đại, vừa là cơ hội duy nhất để Việt Nam vượt thoát "bẫy thu nhập trung bình" và sớm hiện thực hóa khát vọng đất nước hùng cường.