Nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ ngành Công Thương
Những năm qua, khoa học công nghệ (KHCN) không chỉ khẳng định vai trò và sức mạnh vô cùng to lớn trong các lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà còn trở thành động lực then chốt của sự nghiệp đổi mới và phát triển.
Những thành tựu KHCN ngày càng được quan tâm, nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến và áp dụng sâu rộng trong thực tiễn, tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam.
Trong bối cảnh chung đó, hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo (ĐMST) ngành Công Thương đã có những đóng góp thiết thực vào việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch phát triển của ngành, thực hiện tái cấu trúc công nghiệp và thương mại.
Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động KHCN
Báo cáo tại Hội nghị “Phát huy vai trò của KHCN và ĐMST trong thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu ngành Công Thương” diễn ra mới đây ông Lý Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) cho biết: Trong giai đoạn 2021-2024, công tác xây dựng chiến lược, chính sách, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được đặc biệt ưu tiên nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý và định hướng nhiệm vụ cho giai đoạn đến năm 2030 trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Cụ thể:
Ông Lý Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ |
Tổ chức xây dựng và ban hành Chiến lược KHCN và ĐMST phục vụ phát triển ngành Công Thương đến năm 2030. Chiến lược đã cụ thể hóa các mục tiêu, định hướng nhiệm vụ và giải pháp có liên quan tại Chiến lược phát triển KHCN và ĐMST đến năm 2030 của quốc gia vào chiến lược phát triển ngành Công Thương; hướng tới việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030.
Tổ chức xây dựng Lộ trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc Bộ giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, với mục tiêu dài hạn nhằm hình thành các tổ chức KHCN công lập quy mô lớn, có tiềm lực mạnh so với các tổ chức KHCN trong khu vực và trên thế giới để giải quyết các vấn đề KHCN quan trọng, cốt lõi, có ý nghĩa quyết định tới năng lực cạnh tranh và khả năng dẫn dắt về mặt công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Theo ông Lý Quốc Hùng, song song với việc đổi mới tổ chức và hoạt động KHCN, các Viện, Trường, Tập đoàn, Tổng công ty thuộc Bộ Công Thương cũng chú trọng tới đầu tư, tăng cường đổi mới trang thiết bị, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, điều kiện làm việc cho các tổ chức kỹ thuật, nghiên cứu khoa học trực thuộc và cán bộ làm công tác KHCN. Trong những năm qua, nhiều tổ chức nghiên cứu KHCN đã và đang thực hiện các dự án đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực nghiên cứu từ nguồn vốn của các Tập đoàn, Tổng công ty và một số đơn vị đã khai thác được nguồn vốn tài trợ của nước ngoài.
Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ cũng thông tin, công tác đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực KHCN, kỹ thuật chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực mũi nhọn đã được đưa vào nhiều chương trình, đề án KHCN do Bộ Công Thương quản lý và tổ chức thực hiện, trong đó xác định mục tiêu, lộ trình và từng bước đi cụ thể.
“Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển sau chuyển đổi, các tổ chức KHCN thuộc Bộ đã chủ động đầu tư phát triển nguồn nhân lực KHCN thông qua việc đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Các viện nghiên cứu thuộc Tập đoàn, Tổng Công ty cũng đều quan tâm đến việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực từ nhiều nguồn vốn và bằng các hình thức khác nhau”, ông Lý Quốc Hùng nhấn mạnh.
5 nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động KHCN
Vụ trưởng Lý Quốc Hùng nêu rõ, để thực hiện Chiến lược KHCN và ĐMST sáng tạo phục vụ phát triển ngành Công Thương đến năm 2030 trong thời gian tới cần triển khai các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đổi mới hoạt động KHCN theo hướng thiết thực, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và yêu cầu phát triển ngành Công Thương.
Về mặt cơ chế, chính sách: Tăng cường tham gia, phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành liên quan để sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về KHCN và các luật liên quan phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra; trao quyền tự chủ cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KHCN nhằm giải phóng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu, đi đôi với cơ chế đánh giá độc lập và giám sát xã hội, công khai kết quả nhiệm vụ KHCN...; tạo dựng khuôn khổ pháp lý triển khai các cơ chế thí điểm, thử nghiệm và đặc thù đối với các mô hình kinh tế mới dựa trên KHCN và ĐMST.
Viện Nghiên cứu Cơ khí thời gian qua đã chủ động đầu tư về nhân lực, tài chính, hợp tác với các đơn vị trong và ngoài nước để từng bước làm chủ công nghệ |
Về mặt tổ chức, triển khai nhiệm vụ: Nâng cao chất lượng xây dựng, triển khai các nhiệm vụ KHCN trên cơ sở bám sát nhu cầu của thị trường, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, gắn với các định hướng, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành; ưu tiên hướng tới việc làm chủ các công nghệ lõi phục vụ phát triển các ngành công nghiệp nền tảng; công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và phát triển sản xuất thông minh; chú trọng nhiệm vụ nghiên cứu cung cấp luận cứ khoa học phục vụ xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phát triển ngành.
Thứ hai, tái cấu trúc tổ chức KHCN ngành Công Thương trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh. Với định hướng chung của quốc gia và yêu cầu của tái cơ cấu các tổ chức khoa học công nghệ công lập trực thuộc Bộ, hiện nay, Bộ Công Thương đang tiến hành rà soát, xây dựng phương án tái cấu trúc tổ chức KHCN ngành Công Thương trên nguyên tắc, việc sáp nhập đảm bảo khả năng tương hỗ, cộng sinh giữa các đơn vị để cùng phát triển; mục tiêu đến năm 2030, hình thành một hệ thống tổ chức khoa học công nghệ ứng dụng đa ngành, gắn với yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên và các xu hướng phát triển của ngành và công nghệ trên thế giới.
Đồng thời, rà soát, thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức khoa học và công nghệ công lập thuộc Bộ Công Thương thành lập và vận hành có hiệu quả các trung tâm ĐMST, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trực thuộc để thương mại hóa kết quả nghiên cứu và tư vấn, chuyển giao công nghệ tiên tiến phục vụ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. Tổ chức thực thi có hiệu quả các quy định về giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì, doanh nghiệp để ứng dụng, thương mại hóa.
Thứ ba, rà soát, xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực của các tổ chức KHCN phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị và thực tế phát triển của ngành, với các nội dung: Xây dựng và thực hiện kế hoạch tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đồng bộ nguồn nhân lực KHCN cả về số lượng và chất lượng; rà soát, hoàn thiện các quy chế, chính sách của đơn vị theo hướng khuyến khích sáng tạo; thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ KHCN có trình độ cao, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực KHCN; Tạo điều kiện để cán bộ nghiên cứu học tập và nâng cao trình độ.
Thứ tư, hiện đại hoá, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu KHCN và ĐMST; chuyển đổi số quy trình quản lý; xây dựng cơ sở dữ liệu về hoạt động KHCN và ĐMST, các nguồn lực KHCN và ĐMST ngành Công Thương nhằm phục vụ yêu cầu quản lý và cung cấp thông tin cho các tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu. Tăng cường đầu tư và khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành đáp ứng nhu cầu nghiên cứu; cung cấp các dịch vụ phân tích, kiểm tra chất lượng, an toàn, chứng nhận hợp quy, hợp chuẩn sản phẩm cho doanh nghiệp và phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước.
Thứ năm, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động KHCN và ĐMST trong doanh nghiệp. Trong đó, tăng cường đầu tư của doanh nghiệp cho hoạt động KHCN và ĐMST, thúc đẩy hợp tác công - tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp; tăng cường triển khai các hoạt động đào tạo, chuyển giao, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ và thích nghi công nghệ hiện đại, quản trị và khai thác công nghệ; áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, mô hình, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, công cụ hỗ trợ cho sản xuất thông minh, dịch vụ thông minh.
Bên cạnh đó, kịp thời xây dựng và đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn cơ sở đối với các công nghệ, sản phẩm mới, sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm chủ lực đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Đổi mới hoạt động hỗ trợ về hàng rào kỹ thuật (TBT) nhằm thúc đẩy hoạt động KHCN và ĐMST trong sản xuất, kinh doanh.