![]() |
Ông Lý Quốc Hùng: Chiến lược KHCN&ĐMST phục vụ phát triển ngành Công Thương đến năm 2030 đã xác định: KHCN&ĐMST là nền tảng quan trọng và khâu đột phá trong chính sách công nghiệp và thương mại để đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh ngành Công Thương; tự chủ về công nghệ công nghiệp, đặc biệt là các công nghệ then chốt; góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời gian qua, các kết quả nghiên cứu KHCN&ĐMST đã được ứng dụng trong nhiều ngành, lĩnh vực của Bộ Công Thương, mang lại hiệu quả tích cực cho các doanh nghiệp. Ví dụ, trong lĩnh vực thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí, nhiều công nghệ mới, tiên tiến nhất trong lĩnh vực dầu khí của thế giới đã được áp dụng, đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho ngành. Không những ứng dụng và làm chủ được công nghệ hiện đại trên thế giới, cùng với các đơn vị nghiên cứu, tư vấn có năng lực trong nước, nhiều doanh nghiệp dầu khí Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và triển khai thành công những công trình mang lại hiệu quả kinh tế và ý nghĩa mang tầm khu vực và thế giới. Trong lĩnh vực năng lượng điện, các doanh nghiệp đã đặc biệt chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị thông qua nhập khẩu, làm chủ công nghệ mới, tiên tiến của nước ngoài để phục vụ phát triển nguồn điện, lưới điện, hệ thống điều khiển - điều độ - thông tin - viễn thông điện lực trong nước. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã hoàn thành việc triển khai nhiều chương trình/dự án đầu tư, ứng dụng đổi mới công nghệ hiện đại, giúp việc vận hành hệ thống điện của Việt Nam tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trên thế giới… Hay trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, việc nghiên cứu, đầu tư đổi mới công nghệ đã góp phần tăng sản lượng than toàn ngành bình quân 9,4%/năm; đặc biệt, tỷ lệ khai thác bằng cơ giới tăng vượt bậc, từ 3,3% năm 2010 lên 13,1% năm 2018. Trong khai thác hầm lò, mức độ cơ giới hóa và hiện đại hóa được nâng cao thông qua việc ứng dụng các công nghệ mới: Sử dụng vì chống tiên tiến giá khung, giá xích, giàn chống tự hành; khấu than bằng máy khấu, máy bào; đào lò bằng máy khoan tự hành kết hợp với xúc bốc, máy đào lò liên hợp, các loại vì neo bê tông cốt thép, bê tông phun, neo chất dẻo, neo cáp trong đào và chống giữ đường lò. Trong lĩnh vực hóa dược, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) trong lĩnh vực công nghiệp hóa dược đã mang lại những giá trị thiết thực với nhiều kết quả nghiên cứu được thương mại hóa, cho sản phẩm có chất lượng tương đương hàng nhập khẩu và giá cả cạnh tranh. Một số sản phẩm điển hình được thương mại hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học như: Viên nang mềm Cebraton có tác dụng hoạt huyết dưỡng não (được sản xuất và thương mại hóa bởi Công ty Traphaco); sản phẩm thuốc an thần ASAKOYA điều trị mất ngủ (Công ty Dược phẩm Mediplantex); chế phẩm phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc; sản phẩm dầu gấc (Công ty Vimedimex)… |
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, Bộ Công Thương đã đạt được nhiều thành công trong việc triển khai các nhiệm vụ, dự án KH&CN nhằm thúc đẩy việc ứng dụng các công nghệ vi sinh, công nghệ enzyme, protein để phát triển ngành công nghiệp chế biến. Nhiều sản phẩm mới có chất lượng tốt, giá cạnh tranh (giảm khoảng 60 - 70%) so với giá sản phẩm nhập ngoại cùng loại, dần chiếm lĩnh được thị trường tiêu dùng Việt Nam. Thành công từ các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trong giai đoạn vừa qua là tiền đề quan trọng để Đảng và Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh và phát triển ngành công nghiệp sinh học… |
Ông Lý Quốc Hùng: Song song với việc đổi mới tổ chức và hoạt động KH&CN, các viện, trường, tập đoàn, tổng công ty thuộc Bộ Công Thương trong thời gian qua đã chú trọng tới đầu tư, tăng cường đổi mới trang thiết bị, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, điều kiện làm việc cho các tổ chức kỹ thuật, nghiên cứu khoa học trực thuộc và cán bộ làm công tác KH&CN. Trong những năm qua, nhiều tổ chức nghiên cứu KH&CN đã và đang thực hiện các dự án đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực nghiên cứu từ nguồn vốn của các Tập đoàn, Tổng công ty và một số đơn vị đã khai thác được nguồn vốn tài trợ của nước ngoài. Bên cạnh đó, ngoài đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, một số Viện đã tích cực thu hút, tìm kiếm và nhận được dự án tài trợ của nước ngoài cho đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu KH&CN. Tiêu biểu là Viện Điện tử, Tin học và Tự động hóa đã tham gia tuyển chọn ý tưởng đổi mới sáng tạo theo Dự án FIRST và được duyệt kinh phí cấp từ nguồn vốn của World Bank lên tới 47 tỷ đồng cho Dự án Nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các hệ thống điều khiển tích hợp dùng trong các ngành công nghiệp khai thác than hầm lò, năng lượng. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực KH&CN được ưu tiên triển khai. Công tác đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực KH&CN, kỹ thuật chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực mũi nhọn đã được đưa vào nhiều chương trình, đề án KH&CN do Bộ Công Thương quản lý và tổ chức thực hiện, trong đó xác định mục tiêu, lộ trình và từng bước đi cụ thể. Để đáp ứng yêu cầu phát triển sau chuyển đổi, các tổ chức KH&CN thuộc Bộ cũng đã chủ động đầu tư phát triển nguồn nhân lực KH&CN thông qua việc đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Các viện nghiên cứu thuộc Tập đoàn, Tổng Công ty cũng đều quan tâm đến việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực từ nhiều nguồn vốn và bằng các hình thức khác nhau. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở các tổ chức KH&CN ngành Công Thương được đào tạo cơ bản, nhiều người được đào tạo ở các nước phát triển, đáp ứng yêu cầu trong hoạt động nghiên cứu triển khai của ngành giai đoạn hiện nay. |
![]() |
Thực hiện Quyết định số 229/QĐ-TTg ngày 13/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổ chức KH&CN công lập thời kỳ 2021 -2030 tầm nhìn đến 2050, Bộ Công Thương đang tập trung rà soát và đề xuất Chính phủ triển khai các dự án đầu tư theo chiều sâu để hình thành các tổ chức khoa học và công nghệ ứng dụng trong các lĩnh vực: Công nghệ sinh học công nghiệp, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hoá; cơ khí chế tạo; công nghệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới. đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật cho các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng sẽ tập trung theo hướng hiện đại, đồng bộ, đủ điều kiện triển khai các hoạt động nghiên cứu phát triển, tiếp nhận, trình diễn và chuyển giao các công nghệ tiên tiến, gắn với các ngành, lĩnh vực công nghiệp ưu tiên; tăng cường đầu tư và khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành đáp ứng nhu cầu nghiên cứu; cung cấp các dịch vụ phân tích, kiểm tra chất lượng, an toàn, chứng nhận hợp quy, hợp chuẩn sản phẩm cho doanh nghiệp và phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước. |
Ông Lý Quốc Hùng: Về cơ chế, chính sách, Bộ Công Thương tiếp tục tăng cường tham gia, phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành liên quan để sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về KH&CN và các luật liên quan phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra theo hướng trao quyền tự chủ cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN nhằm giải phóng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu, đi đôi với cơ chế đánh giá độc lập và giám sát xã hội, công khai kết quả nhiệm vụ KH&CN...; tạo dựng khuôn khổ pháp lý triển khai các cơ chế thí điểm, thử nghiệm và đặc thù đối với các sản phẩm, công nghệ, mô hình kinh doanh mới dựa trên KHCN&ĐMST. Về mặt tổ chức, triển khai nhiệm vụ, nâng cao chất lượng xây dựng, triển khai các nhiệm vụ KH&CN trên cơ sở bám sát nhu cầu của thị trường, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, gắn với các định hướng, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành; ưu tiên hướng tới việc làm chủ các công nghệ lõi phục vụ phát triển các ngành công nghiệp nền tảng; công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và phát triển sản xuất thông minh; chú trọng nhiệm vụ nghiên cứu cung cấp luận cứ khoa học phục vụ xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phát triển ngành. Với định hướng chung của quốc gia và yêu cầu của tái cơ cấu các tổ chức KH&CN công lập trực thuộc Bộ, hiện nay, Bộ Công Thương đã xây dựng phương án tái cấu trúc tổ chức KH&CN ngành Công Thương trên nguyên tắc, việc sáp nhập đảm bảo khả năng tương hỗ, cộng sinh giữa các đơn vị để cùng phát triển; mục tiêu đến năm 2030, hình thành một hệ thống tổ chức KH&CN ứng dụng đa ngành, gắn với yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên và các xu hướng phát triển của ngành và công nghệ trên thế giới. Ở phạm vi quốc gia, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ KH&CN trong quá trình xây dựng và hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Về phía Bộ, năm 2024, Bộ trưởng đã ký Quyết định số 262/QĐ-BCT ngày 16/5/2024 ban hành Kế hoạch tổ chức, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ giai đoạn 2024 - 2025. Theo đó, phương án sắp xếp đối với 02 Viện, cụ thể: Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu sẽ sát nhập vào Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh; Viện Nghiên cứu, Thiết kế, Chế tạo Máy Nông nghiệp sẽ sát nhập vào Trường Đại học Việt Hung. Đồng thời, rà soát, thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức KH&CN công lập thuộc Bộ Công Thương thành lập và vận hành có hiệu quả các trung tâm đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trực thuộc để thương mại hóa kết quả nghiên cứu và tư vấn, chuyển giao công nghệ tiên tiến phục vụ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. Tổ chức thực thi có hiệu quả các quy định về giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì, doanh nghiệp để ứng dụng, thương mại hóa. Rà soát, xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực của các tổ chức KH&CN phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị và thực tế phát triển của ngành, với các nội dung: Xây dựng và thực hiện kế hoạch tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đồng bộ nguồn nhân lực KH&CN cả về số lượng và chất lượng; rà soát, hoàn thiện các quy chế, chính sách của đơn vị theo hướng khuyến khích sáng tạo; thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ KH&CN có trình độ cao, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực KH&CN; tạo điều kiện để cán bộ nghiên cứu học tập và nâng cao trình độ. |
Hiện đại hoá, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu KHCN&ĐMST; chuyển đổi số quy trình quản lý; xây dựng cơ sở dữ liệu về hoạt động KHCN&ĐMST, các nguồn lực KHCN&ĐMST ngành Công Thương nhằm phục vụ yêu cầu quản lý và cung cấp thông tin cho các tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu. Tăng cường đầu tư và khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành đáp ứng nhu cầu nghiên cứu; cung cấp các dịch vụ phân tích, kiểm tra chất lượng, an toàn, chứng nhận hợp quy, hợp chuẩn sản phẩm cho doanh nghiệp và phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước. Mặt khác, tăng cường đầu tư của doanh nghiệp cho hoạt động KHCN&ĐMST, thúc đẩy hợp tác công - tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp; tăng cường triển khai các hoạt động đào tạo, chuyển giao, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ và thích nghi công nghệ hiện đại, quản trị và khai thác công nghệ; áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, mô hình, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, công cụ hỗ trợ cho sản xuất thông minh, dịch vụ thông minh. Bên cạnh đó, kịp thời xây dựng và đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn cơ sở đối với các công nghệ, sản phẩm mới, sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm chủ lực đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Đổi mới hoạt động hỗ trợ về hàng rào kỹ thuật (TBT) nhằm thúc đẩy hoạt động KHCN&ĐMST trong sản xuất, kinh doanh. Xin cảm ơn ông! |
Bài và ảnh: Quỳnh Nga Đồ họa: Hồng Thịnh |