Thứ năm 21/11/2024 23:25

Kon Tum: Người dân có cuộc sống khấm khá hơn nhờ phát triển du lịch cộng đồng

Phát triển du lịch cộng đồng giúp người đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum có cơ hội thoát nghèo và bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của dân tộc mình.

Ngày cuối tuần, chúng tôi có dịp đến với làng Kon Pring (thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng chừng 60km. Làng có khoảng 95% hộ gia đình là người Mơ Nâm (một nhánh của dân tộc Xê Đăng).

Homestay của bà Y Lim với kiến trúc nhà sàn truyền thống đơn giản, mộc mạc

Đón chúng tôi ở làng Kon Pring là bà Y Lim– Tổ trưởng Tổ hợp tác liên kết du lịch cộng đồng của làng.

Bà Y Lim cho biết, Kon Pring được công nhận là làng du lịch cộng đồng Kon Tum từ cuối năm 2018. Từ đó đến nay, đây là địa điểm được đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, trải nghiệm.

Thực hiện đề án của huyện Kon Plông về Phát triển du lịch cộng đồng làng Kon Pring, chính quyền địa phương đã hỗ trợ hơn 1 tỉ đồng cho 3 hộ dân để xây dựng nhà sàn truyền thống theo hình thức homestay để đón khách lưu trú và trưng bày giới thiệu nét đẹp văn hóa dân tộc.

Hộ gia đình bà Y Lim là một trong 3 hộ dân được hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà sàn để phát triển du lịch cộng đồng. Không những thế, bà được chính quyền địa phương đưa đi tập huấn, tham quan các mô hình du lịch cộng đồng ở các tỉnh Tây Bắc, tỉnh miền Trung,…

“Trước khi chưa làm du lịch, gia đình tôi rất khó khăn. Nguồn thu nhập chỉ trông chờ vào thửa ruộng gần nhà, mỗi năm trồng lúa thu lại chả bao. Tôi may mắn được chính quyền địa phương đầu tư làm du lịch, đến nay lượng khách ghé thăm đều đặn. Vì thế cuộc sống của gia đình cũng khấm khá hơn”, bà Y Lim bộc bạch.

Homestay của bà Y Lim dần dần đông khách. Trung bình mỗi tháng gia đình bà đón từ 3 - 4 đoàn khách, mỗi đoàn từ trên 10 người, còn có đoàn hơn 100 người cũng đã đến homestay. Cũng từ đó, bà đã thành lập Tổ hợp tác liên kết du lịch cộng đồng với 22 thành viên là chị em phụ nữ trong làng. Mỗi lần có đoàn khách tới thì bà sẽ tập trung các thành viên để đi hái các vật liệu trên rừng, rồi sau đó phân chia ra người nấu ăn, người phục vụ, người đánh cồng chiêng, múa xoang.

Bà Y Lim chia sẻ: “Trung bình mỗi tháng, trừ hết chi phí cho thu nhập trên 15 triệu đồng. Những ngày lễ, Tết thì hơn 30 triệu đồng. Trước kia tôi làm nông thì đâu có số tiền lớn như này. Các thành viên trong Tổ cũng có thu nhập ổn định từ hoạt động du lịch thông qua việc bán các sản vật của địa phương, phục vụ đồ ăn như cơm lam, gà nướng, rượu cần… cho khách du lịch”.

Bà Y Lim giới thiệu những ché để chứa rượu cần đón khách du lịch

Được biết, bà Y Lim còn là đội trưởng đội cồng chiêng của làng. Bà đã kết hợp việc biểu diễn cồng chiêng, múa xoang cho du khách. Vì du khách thích không khí được hòa mình vào những màn diễn xướng, cồng chiêng truyền thống của bà con dân tộc thiểu số nơi đây nơi đây. Để phục vụ khách du lịch, đòi hỏi làng phải duy trì đội cồng chiêng, múa xoang và thường xuyên luyện tập. Người lớn có trách nhiệm truyền dạy lại cho thế hệ trẻ để tiếp nối các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Ngoài biểu diễn trong làng du lịch, đội cồng chiêng của bà Y Lim còn được nhiều doanh nghiệp, khách sạn, nhà nghỉ trên thị trấn Măng Đen mời biểu diễn. Mỗi lượt như thế, họ trả phí cho đội là từ 2,5 triệu – 3 triệu đồng, rồi chia ra mỗi thành viên sẽ nhận được 200 nghìn-300 nghìn đồng/người.

Nằm bên cạnh dòng sông Đăk Bla hiền hòa, làng du lịch cộng đồng Kon K’tu (xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum) là một trong những ngôi làng cổ nhất ở Kon Tum của người Bahnar với tuổi đời trên 300 năm và được xem là ngôi làng cổ đẹp nhất Tây nguyên hiện nay. Hơn 95%

Anh A Kâm - Tổ trưởng tổ hợp tác du lịch làng du lịch cộng đồng Kon K’tu cho biết, từ khi được công nhận là Làng du lịch cộng đồng đã không còn tình trạng làm du lịch tự phát, đơn lẻ như trước nữa, mà nay đã mang tính cộng đồng, cùng hợp tác để làm du lịch. Làng Kon K’tu hiện có 150 hộ thì khoảng 6 hộ làm homestay, những hộ dân còn lại cũng rất tích cực, cùng nhau phát triển du lịch từ bản sắc văn hóa của dân tộc.

“Nhà tôi cũng học theo người đi trước mở một Homestay vào năm 2019 để cùng phục vụ du lịch. Ở làng này, mỗi nhà đều nuôi heo, nuôi gà, ủ rượu cần, chuẩn bị ống lam để làm cơm khi có khách ghé thăm. Đồng thời luôn có một đội cồng chiêng sẵn sàng phục vụ du khách. Các nghệ nhân cũng được mời về để biểu diễn”, anh A Kâm cho hay.

Ngoài phục vụ diễn xướng cồng chiêng, múa xoang, tổ hợp tác của anh Kâm sẽ dẫn khách tham quan trực tiếp trải nghiệm các nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm,…

Một homestay du lịch tại làng du lịch cộng đồng Kon K’tu

Theo anh Kâm, mỗi tháng sẽ có 3-4 đoàn khách du lịch tới tham quan và trải nghiệm tại làng. Tổ cũng thống nhất lấy mức giá hợp lý sẽ bao gồm ẩm thực và xem biểu diễn cồng chiêng, với trên 150 nghìn đồng/người đối với đoàn khách trên 30 người. Còn khách muốn lưu trú tại các homestay thì mức giá là 120 nghìn đồng/người. Từ đó, Tổ thu lợi nhuận bình quân khoảng 30 triệu đồng/tháng sẽ chia đều cho các tổ nhỏ như: ẩm thực; đan lát, dệt thổ cẩm; cồng chiêng, múa xoang; hướng dẫn viên; homestay,… Nhờ làm du lịch, thu nhập của bà con được nâng lên đáng kể, không còn cảnh phụ thuộc vào cây lúa, củ mì như trước đây.

Theo ông Đoàn Văn Hậu – Chủ tịch UBND xã Đăk Rơ Wa (thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) cho biết, phát triển du lịch cộng đồng làm thay đổi nhận thức của bà con đồng bào dân tộc thiểu số. Bà con đã biết khai thác tiềm năng, lợi thế có du lịch, giảm bớt các hoạt động làm nông nghiệp để chuyển sang làm thương mại, dịch vụ. “Mô hình làng du lịch cộng đồng không chỉ giúp người dân phát triển kinh tế, quảng bá văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số mà còn khơi gợi tình yêu và niềm tự hào của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình”, ông Hậu nói.

Vũ Lê
Bài viết cùng chủ đề: tỉnh Kon Tum

Tin cùng chuyên mục

Lạng Sơn: Chú trọng giải pháp căn cơ để giảm nghèo bền vững

Bắc Giang giành 2 giải A tại liên hoan nghệ thuật các dân tộc lần thứ VII năm 2024

Bắc Giang: Tặng Bằng khen 6 tập thể, 16 cá nhân đóng góp phát triển vùng dân tộc thiểu số

Bài 2: Động lực 'tiên quyết' giúp đồng bào Hà Giang phát triển

Bài 1: Những quyết sách mang ý Đảng, lòng dân

Hội nghị biểu dương đại biểu các dân tộc thiểu số thành phố Đà Nẵng lần thứ II năm 2024

Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu: Hướng đến 11 mục tiêu

Lào Cai: Hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình: Chú trọng công tác kiện toàn nhân sự Chương trình 1719

Sơn La bảo tồn và phát triển các bản du lịch gắn với giá trị văn hóa truyền thống

Huyện Bắc Yên - Sơn La dành nguồn vốn lớn đầu tư hạ tầng thiết yếu cho bà con dân tộc

Sơn La xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ măng cho đồng bào dân tộc thiểu số

Tuyên Quang: Tập trung xây dựng hạ tầng cơ sở thiết yếu vùng dân tộc thiểu số

Lạng Sơn: Đưa di tích lịch sử, văn hóa thành sản phẩm du lịch bền vững

Huyện Mộc Châu bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Púng Hiéng của người Dao Tiền

Huyện Mường La - Sơn La đưa điện lưới quốc gia đến với bà con thôn bản

Huyện Mộc Châu - Sơn La đổi thay từ nguồn vốn dành cho đồng bào dân tộc thiểu số

Người Hà Lăng ở Kon Tum bảo tồn nét văn hoá truyền thống của 'nghề sinh ra từ làng'

Lạng Sơn: Từng bước nâng cao thể trạng, cải thiện tầm vóc trẻ em vùng cao

Về Gia Lai xem đồng bào Bahnar thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống