Ngày 7/6, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã thay mặt Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, đến năm 2030 hình thành 30 cảng hàng không, gồm: 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 16 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Thành Sơn và Biên Hòa).
Quy hoạch cũng nêu rõ sẽ tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch Cảng Hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Cảng hàng không quốc tế Long Thành (Đồng Nai) được ưu tiên đầu tư xây dựng |
Tầm nhìn đến năm 2050, cả nước sẽ có 33 cảng hàng không. Trong đó, 14 cảng hàng không quốc tế: Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc; 19 cảng hàng không quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Biên Hòa, Thành Sơn và cảng hàng không thứ 2 phía đông nam, nam Hà Nội.
Trong 14 cảng hàng không quốc tế (tầm nhìn đến 2050) không còn danh sách sân bay Cát Bi mà thay vào đó là Cảng Hàng không quốc tế Hải Phòng. Với cảng hàng không quốc nội, ngoài 16 cảng có tử trước, danh sách này bổ sung thêm 3 cảng mới gồm Cát Bi, Cao Bằng và cảng hàng không thứ 2 vùng Hà Nội.
Đặc biệt, quy hoạch cũng khẳng định sẽ nghiên cứu, khảo sát, đánh giá khả năng quy hoạch thành cảng hàng không đối với một số sân bay phục vụ quốc phòng, an ninh; một số vị trí quan trọng về khẩn nguy, cứu trợ, có tiềm năng phát triển về du lịch, dịch vụ và các vị trí khác có thể xây dựng, khai thác cảng hàng không; báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét việc bổ sung quy hoạch khi đủ điều kiện, trong đó đánh giá kỹ lưỡng về nhu cầu, yêu cầu kỹ thuật, nguồn lực đầu tư và các tác động liên quan.
Danh sách này có 12 sân bay gồm Hà Giang (tại xã Tân Quang, huyện Bắc Quang); Yên Bái (phường Nam Cường, thành phố Yên Bái); Tuyên Quang (xã Năng Khả, huyện Na Hang); Hà Nội (phường Phúc Đồng, quận Long Biên); Bắc Ninh (xã Xuân Lai, huyện Gia Bình); Hà Tĩnh (xã Cẩm Nam, huyện Cẩm Xuyên); Kon Tum (thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông); Quảng Ngãi (xã An Hải, huyện Lý Sơn), Bình Thuận (xã Ngũ Phụng, huyện Phú Quý); Khánh Hoà (xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh); Đắk Nông (xã Quảng Khê, huyện Đắk Glong) và Tây Ninh (xã Phước Ninh, huyện Dương Minh Châu).
Về vận tải, tổng sản lượng hành khách thông qua các cảng hàng không khoảng 275,9 triệu hành khách (chiếm 1,5-2% thị phần vận tải giao thông và chiếm 3-4% tổng sản lượng vận tải hành khách liên tỉnh). Tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng hàng không khoảng 4,1 triệu tấn (chiếm 0,05-0,1% thị phần vận tải giao thông).
Về kết cấu hạ tầng, ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội (Cảng Hàng không quốc tế Nội Bài) và vùng TP.HCM (Cảng Hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành). Từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả các cảng hàng không hiện hữu, tiếp tục nghiên cứu, đầu tư các cảng hàng không mới để nâng tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 294,5 triệu hành khách, phấn đấu trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100 km.
Tầm nhìn đến 2050, hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế ngang tầm khu vực tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng TP Hồ Chí Minh.
Quy hoạch cũng nêu rõ, bố trí các trung tâm logistics tại các cảng hàng không có nhu cầu vận tải lớn hơn 250.000 tấn/năm.