Thu hái chè |
Bắt tay vào trồng chè từ năm 2009, ông Hoàng Văn Thành (người dân tộc Cao Lan) sống ở Bản Ven, xã Xuân Lương cũng không ngờ đến một ngày, vườn chè của gia đình ông lại có thể giúp ông vươn lên làm giàu. "Năm 2009, thấy anh em xung quanh trồng chè, gia đình tôi cũng trồng theo. Năm 2012, cây chè bắt đầu cho thu nhập. Ban đầu, giá chè tươi chỉ 20.000 đồng/ kg, chè khô là 70.000 đồng/ kg. Sang năm 2014, khi chè Bản Ven được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu, giá chè tươi, chè khô tăng lên từng ngày. Đến nay, trung bình gia đình tôi bán được khoảng 250.000 đồng/kg chè khô, 35.000 đồng/ kg chè tươi" – ông Thành chia sẻ trong lúc đưa chúng tôi đi thăm vườn chè lúp xúp quanh nhà.
Cùng với ông Thành, đến nay, Bản Ven đã có gần 60 hộ trồng chè/ tổng số 145 hộ dân trong toàn bản. Thấy chúng tôi đang say sưa nói chuyện cây chè, anh Trần Văn Dị, một người anh em của ông Hoàng, ghé vào góp chuyện. Theo anh Dị, với lợi thế địa hình vùng đồi gò, cộng với khí hậu mát mẻ nên cây chè phát triển khá ổn ở Bản Ven. Bản Ven có tới 95% số hộ là người dân tộc Cao Lan. Người Cao Lan biết trồng chè từ lâu và có riêng bí quyết để chè Bản Ven có đặc trưng "nước xanh, vị đậm". Nếu như trước kia, chè Bản Ven vẫn chỉ tự cung tự cấp trong phạm vi xã Xuân Lương thì nay, nhờ được tập huấn, hướng dẫn kĩ thuật của Hội nông dân, đặc biệt là của Hợp tác xã Thân Trường, chè Bản Ven đã bắt đầu có tiếng, giá trị mỗi kg chè cũng nâng lên rõ rệt.
Thực tế, với mỗi lứa chè kéo dài từ 35 - 45 ngày, mỗi năm, người dân Bản Ven cũng thu hoạch được 8 - 9 lứa chè, trừ các khoản chi phí, số hộ có thu nhập xấp xỉ 100 triệu đồng/năm từ cây chè không còn hiếm ở Bản Ven.
Là hộ có diện tích chè lớn, anh Hoàng Văn Thành rất tích cực trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trồng chè. "Trước kia, thấy sâu bệnh là cứ mua thuốc về phun, sâu chết là được, chứ không quan tâm xem thuốc đó có hại không. Nay thì khác rồi, chỉ mua thuốc bảo vệ thực vật trong danh mục Nhà nước quy định, chè có bệnh mới phun; thời gian thu hái sau khi phun thuốc phải đảm bảo quy định…" – anh Thành nói. Không chỉ ý thức về việc dùng thuốc bảo vệ được nâng cao, nhiều người trồng chè ở Bản Ven nay đã biết cách chăm bón, vun xới, thu hái sao cho hiệu quả năng suất cao. Bởi lẽ, chè Bản Ven chủ yếu vẫn là làm thủ công, hái và sao bằng tay nên đòi hỏi người làm chè phải thật nhanh nhẹn, khéo léo.
Theo ông Thân Nhân Khuyến - Chủ tịch UBND xã Xuân Lương, hiện bà con trong xã chủ yếu thâm canh các giống chè trung du, chè lai 1, chè lai 2… với hơn 500 hộ tham gia sản xuất. Nhờ sự đầu tư đăng ký chứng nhận nhãn hiệu, xây dựng thương hiệu của Hợp tác xã Thân Trường cho sản phẩm chè Bản Ven, chè Bản Ven nay đã được nhiều người biết đến. Giá bán chè luôn ổn định ở mức trung bình 250.000 đồng/kg chè khô. Đặc biệt, việc triển khai mô hình liên kết sản xuất, chế biến chè xanh Bản Ven giữa các hộ dân và hợp tác xã…K đã giúp người trồng chè ở Bản Ven không chỉ có sản phẩm chè chất lượng, giá trị, mà hơn thế, từ những cây chè vườn tạp, nay chè Bản Ven đã được trồng chuyên canh, trở thành một trong số cây trồng chủ lực, góp phần xóa đói cho người dân nơi đây.
Đến nay, từ mô hình Bản Ven, đã nhân thêm nhiều Bản Ven trồng chè chất lượng khác ở xã Xuân Lương, Canh Nậu, góp phần đưa Bắc Giang trở thành 1 trong 7 tỉnh miền Bắc có chè với chất lượng chè được Hiệp hội chè Việt Nam xếp vào top 3 của cả nước.