Trồng nấm linh chi trong nhà kính mang lại hiệu quả kinh tế cao |
Những tín hiệu vui
Các tiến bộ kỹ thuật về giống, biện pháp thâm canh đã góp phần quan trọng nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giá trị thu nhập trên đơn vị canh tác, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Thời gian qua, nhiều địa phương ở Bắc Bộ đã đưa vào thí điểm mô hình ứng dụng CNC cho một số mặt hàng nông sản thu được những kết quả đáng khích lệ. Theo Trung tâm Khuyến nông, khuyến ngư Thái Bình, giống khoai tây CNC của Trung tâm là sản phẩm thực hiện kỹ thuật ươm mầm 100% công nghệ Việt Nam, cung cấp dinh dưỡng, tạo củ thông qua rễ, không cần đất, giá thành giống bằng nửa so với giống khoai tây nhập từ châu Âu. Với giá thị trường hiện nay là 10.000 đồng/kg, người dân có lãi lớn. Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, tuy quy mô chưa lớn, nhưng mô hình trồng hoa, rau sạch và nấm ứng dụng CNC đã thu được kết quả khả quan. Các quy trình công nghệ tiên tiến về thâm canh, như sản xuất rau, hoa trong nhà lưới, nhà kính, tưới tự động bước đầu được áp dụng. Nông sản sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đó. Bên cạnh dự thảo đề án “Phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020”, Bắc Ninh đã xây dựng 17 mô hình trồng trọt ứng dụng CNC với gần 70.000 mét vuông nhà lưới, đầu tư cho một số mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC, quy mô lớn. Nhờ áp dụng khoa học công nghệ, Trung tâm giống nấm Bắc Giang bảo đảm sản xuất, đáp ứng yêu cầu thực tế, tổng diện tích đạt 9.600 m2; giống nấm các loại đạt 80 - 100 tấn/năm; nấm thương phẩm đạt 700 - 1.000 tấn nguyên liệu/năm (tương đương 350 - 500 tấn nấm thương phẩm/năm)... Còn tại Thái Bình đang chú trọng công tác tiến hành dồn điền đổi thửa và ứng dụng CNC, tạo mô hình mẫu tác động đến các vùng sản xuất khác trên địa bàn tỉnh. Trung tâm Khảo nghiệm khuyến nông Thái Bình đã triển khai dự án nhân giống khoai tây nuôi cấy mô tế bào kết hợp khí canh và cho kết quả tốt.
Tạo mối liên kết “bốn nhà”
Đầu tư cho nông nghiệp CNC cao hơn so với sản xuất nông nghiệp truyền thống nên một bộ phận nông dân không đủ điều kiện để đầu tư. Ruộng đất manh mún, sản xuất nhỏ lẻ, tập quán canh tác truyền thống vẫn phổ biến nên việc thay đổi phương thức sản xuất, nhận thức của bà con về sản xuất nông nghiệp CNC còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc chuẩn bị xây dựng đề án, cơ sở hạ tầng để đưa CNC vào lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa phù hợp thực tế, đặc thù vùng, miền. Một số địa phương chỉ mới có những giải pháp ngắn hạn, mà không có đề án chuyên sâu kỹ lưỡng.
Để tiến trình đưa công nghệ vào ngành nông nghiệp nhanh và mạnh hơn thì vai trò của bốn nhà (nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nhà nông) là rất quan trọng. Trong đó, Nhà nước làm nhiệm vụ dẫn dắt, chỉ đạo, tạo điều kiện để các bên gặp gỡ, trao đổi, đề ra các phương hướng có triển vọng, tổ chức để các ngành liên quan kết hợp với nhau, tạo điều kiện để nông dân tham gia. Về phía nhà khoa học phải tập trung nghiên cứu những giải pháp tiềm năng, những phương hướng cụ thể, phải giải được bài toán do doanh nghiệp đề ra. Đối với nhà doanh nghiệp, quan trọng nhất đó là tìm kiếm thị trường. Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp thông suốt với chính quyền các cấp địa phương, tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường. Bà con nông dân phải chủ động nâng cao kiến thức để tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Khi hội nhập chúng ta không thể mãi làm bằng chân tay, đã đến lúc chúng ta phải sử dụng khối óc thay cho sức lao động. Ngoài ra, nông dân phải nghiêm túc thực hiện những quy định của hợp đồng, không được tùy tiện phá bỏ hợp đồng khi thấy có lợi hơn cho mình, sát cánh với nhà doanh nghiệp để sản xuất những sản phẩm hiệu quả kinh tế cao.