Giữ gìn nghệ thuật hát bài chòi
Ông Thoảng đãi tôi một màn hát bài chòi đặc sắc với sự góp mặt của cậu con trai mới 13 tuổi. Tôi cứ thế đắm đuối nghe trong những câu hát ngân nga, trầm ấm của hai cha con ông. Nghe ông hát, theo dõi cách ông truyền cảm hứng cho cậu con trai, tôi có thể cảm nhận được sức sống của bài chòi trong gia đình nhỏ này.
Nghệ nhân Nguyễn Đình Thoảng dạy các em học sinh hát dân ca |
Điều khiến tôi nể phục ở ông Thoảng là cái tâm của ông dành cho việc giữ gìn nghệ thuật hát bài chòi. Ông mê ca hát từ hồi còn nhỏ. Gia đình ông vốn làm nghề biển. Cha ông mỗi lần đi biển về lại ngồi tụ họp với bà con hát bài chòi. Ông thường hát bài chòi cổ. Chất giọng trầm ấm của ông gieo vào lòng cậu con trai nhỏ tình yêu bài chòi từ lúc nào không hay. “Cha tôi thường ngồi dưới tán rừng phi lao cùng bà con hát bài chòi. Không đàn, không loa, không hòa tấu, ngày xưa chỉ hát chay, mộc mạc thôi, vậy mà những làn điệu ngọt ngào đó thấm vào tôi lúc nào không hay. Chính bài chòi là mạch nguồn văn hóa đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi” - ông Thoảng tâm sự.
Tình yêu bài chòi lớn dần, đến năm 1984, khi đã trưởng thành, biết chàng trai Thoảng có năng khiếu ca hát, lại yêu thích bài chòi, cán bộ ngành văn hóa thông tin của xã gửi anh đi học hai khóa học Dân ca bài chòi ở Trường văn hóa nghệ thuật Phú Khánh. Một khóa học 6 tháng và một khóa học 3 tháng đã giúp ông có thêm đôi cánh để tự tin đến với nghệ thuật.
Chiêm nghiệm lại đam mê của mình cũng như những việc đã và đang làm, ông Thoảng chia sẻ: “Bài chòi có sự cuốn hút rất mãnh liệt. Những làn điệu bài chòi vừa chứa đựng sự ngọt ngào của bản sắc dân tộc vừa mang âm hưởng mượt mà, đằm thắm mà hào sảng như tâm hồn người dân làng quê ven biển miền Trung”. Theo chia sẻ của ông Thoảng, bài chòi có 4 làn điệu gồm: Xuân nữ, Xàng xê, Cổ bản, Hò quảng. Mỗi làn điệu phù hợp với từng cảnh huống khác nhau. Làn điệu Xuân nữ thường để nói về những người trung thực, thật thà và thể hiện tình cảm thương nhớ. Điệu Xàng xê thì dùng trong hoàn cảnh muốn thể hiện sự căm ghét, uất ức, bộc bạch hết nỗi lòng. Điệu Cổ bản dùng trong việc khắc họa những nhân vật phản diện. Còn điệu Hò quảng thì thường để thể hiện thần thái tươi vui, dịp đoàn viên. Hiểu rõ điều này, ông Thoảng khai thác triệt để những đặc điểm đó của bài chòi trong viết kịch bản, dàn dựng các tiết mục ca kịch.
Dễ hát, dễ phổ biến
Ông Thoảng bảo rằng, nét đặc sắc của bài chòi là tính quần chúng, dễ hát, dễ phổ biến. Như nhiều vùng biển khác, bà con ở vùng biển quê ông rất yêu bài chòi. Hát bài chòi chưa bao giờ thiếu vắng trong các sinh hoạt đời thường của người dân xứ biển. Bà con thường tụ tập lập ra những đội chòi hát cho nhau nghe.
Trân quý nét văn hóa đặc sắc của cha ông để lại, không chỉ hát, viết kịch diễn bài chòi, ông Thoảng còn lặng lẽ truyền dạy nghệ thuật hát bài chòi cho lớp trẻ. Ông thành lập Câu lạc bộ dân ca bài chòi huyện Đông Hòa để tạo một sân chơi cho những người yêu thích ca hát bài chòi. Hoạt động không lương, không kinh phí, mất nhiều thời gian, có khi tốn cả tiền nhà nhưng ông Thoảng chưa bao giờ có ý định từ bỏ. Ông vẫn tích cực tổ chức các buổi sinh hoạt, khuyến khích anh chị em nghệ nhân các xã trong huyện Đông Hòa xây dựng các câu lạc bộ, tổ chức giao lưu, thi tài, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau.
Không chỉ duy trì sinh hoạt của câu lạc bộ, ông Thoảng còn tự nguyện dạy hát cho trẻ em trong làng. Vào mỗi buổi sáng, trước giờ học ông tới Trường Trung học cơ sở Lương Tấn Thịnh dạy hát khoảng 30 phút. Khoảng 40 em nhỏ thường xuyên tham gia lớp học của ông trước khi bước vào giờ học văn hóa. Buổi chiều, ông lại chạy qua Trường Trung học phổ thông Nguyễn Văn Linh dạy cho 25 em học sinh khác. Ở các lớp học bài chòi này, các em được giảng dạy kiến thức cơ bản về hát dân ca, được hướng dẫn các kỹ năng lấy hơi, thẩm âm, nhả chữ để hát các điệu chòi; các điệu lý tang tích, lý ngựa ô; các điệu lía phôn, lía phấn; hò giã gạo, hò chèo thuyền, hò đẩy ghe...
Với những đóng góp thầm lặng của ông Thoảng, tới giờ, phong trào hát bài chòi ở huyện Đồng Hòa phát triển mạnh mẽ. Bà con càng mừng hơn khi nghệ thuật hát bài chòi được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.