Gia Lai ưu tiên nguồn lực đầu tư lưới điện cho đồng bào dân tộc thiểu số |
Các mô hình kinh tế bước đầu mang lại hiệu quả
Dự án xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phát triển cà phê, hồ tiêu và bơ tại huyện Chư Prông (tỉnh Gia Lai) được triển khai từ năm 2019 đến nay đã xây dựng được 5ha mô hình tái canh cà phê; 2ha mô hình sản xuất tiêu an toàn theo hướng VietGAP; 15ha mô hình trồng xen các giống bơ mới trái vụ trong vườn cà phê và thực hiện cải tạo 5ha vườn tạp tại 6 xã: Ia Bang, Ia Kly, Ia Drang, Ia Phìn, Ia Boòng và Ia Pia với tổng kinh phí 8 tỷ đồng.
Các hộ dân tham quan mô hình cà phê tái canh áp dụng tưới nước tiết kiệm kết hợp bón phân qua hệ thống tưới tại xã ia Kly, huyện Chư Prông (tỉnh Gia Lai) |
Dự án hỗ trợ kinh phí ban đầu để người dân xây dựng mô hình và thụ hưởng sản phẩm làm ra. Qua thời gian tham gia dự án, các hộ người đồng bào dân tộc thiểu số đều có sự thay đổi tư duy sản xuất một cách tích cực.
Anh Rơmah Hyoéch, xã Ia Kly, huyện Chư Prông cho biết, mô hình đã hỗ trợ cho tôi về hệ thống ống nhỏ giọt tiết kiệm nước, giống cà phê và phân bón. Tôi thấy tiết kiệm được rất nhiều công chăm sóc cũng như phân bón; vườn cà phê sinh trưởng, phát triển tốt từ khi áp dụng mô hình này.
Trong thời gian triển khai dự án, những người thực hiện dự án hướng dẫn từng bước cụ thể cho người dân nắm bắt được các quy trình trồng và chăm sóc cà phê, đặc biệt các cán bộ, kỹ thuật viên tập trung hỗ trợ cho người đồng bào dân tộc thiểu số tham gia các mô hình, dự án.
Bên cạnh đó, người dân khi tham gia các mô hình này sẽ được đối ứng vốn chủ yếu bằng công chăm sóc và nguồn phân bón do người dân tự sản xuất từ nguồn phế phẩm nông nghiệp... “Hiện nay, đã có khoảng 50% số hộ đồng bào ở 6 xã trên địa bàn huyện tham gia dự án này”, ông Nguyễn Văn Luyến - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chư Prông cho hay.
Theo ông Nguyễn Văn Hợp - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai), từ năm 2017 đến nay, huyện triển khai 2 dự án gồm Dự án phát triển cây dược liệu và Dự án ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại xã đặc biệt khó khăn Ayun.
Qua theo dõi các mô hình thuộc 2 dự án này, đã đem lại lợi ích lớn cho người dân tham gia, đồng thời góp phần tích cực trong việc nâng cao nhận thức và năng lực áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong cộng đồng, đặc biệt là công đồng người đồng bào dân tộc thiểu số.
Điển hình như hộ gia đình chị Đinh HMan, làng HVắc, xã Ayun, huyện Chư Sê, nhiều năm nay gia đình chị đã chuyển đổi nhiều loại cây trồng, vật nuôi nhưng không mang lại hiệu quả. Từ khi gia đình được chọn thực hiện triển khai xây dựng mô hình trồng bắp, áp dụng giống mới và kết hợp các quy trình tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, từ khi xuống giống cho đến khi thu hoạch. Hiệu quả bước đầu mang lại tín hiệu khá khả quan khi diện tích bắp của gia đình sinh trưởng, phát triển tốt và dự đoán năng suất, sản lượng sẽ đạt cao trong đợt thu hoạch sắp tới.
Chị Đinh HMan chia sẻ, trước đây gia đình có trồng mì trên diện tích đất của gia đình nhưng do khu vực này thường xuyên ngập úng nên cây mì không phát triển được. Gia đình đã nhờ chính quyền xã hỗ trợ và tham gia dự án mô hình trồng bắp. Khi tham gia mô hình, gia đình được hỗ trợ giống, phân bón và được cán bộ hướng dẫn kỹ thuật trồng bắp, đến thời điểm này diện tích bắp của gia đình phát triển tốt và sắp đến kỳ thu hoạch, gia đình rất là vui.
Lớp tập huấn ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phát triển cà phê, hồ tiêu và bơ, huyện Chư Prông (tỉnh Gia Lai) |
Tiền đề để duy trì và phát triển các mô hình kinh tế
Trong giai đoạn 2016-2022, tỉnh Gia Lai triển khai 14 dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2025, với tổng kinh phí trên 99 tỷ đồng (trong đó: ngân sách Trung ương hỗ trợ gần 42 tỷ đồng; ngân sách tỉnh 960 triệu đồng; ngân sách địa phương hơn 8,4 tỷ đồng và huy động từ nguồn vốn đối ứng khác trên 35 tỷ đồng).
Các dự án đã triển khai 38 mô hình tại các địa phương; hỗ trợ chuyển giao 79 quy trình công nghệ, các quy trình là các tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng trong sản xuất góp phần phát triển kinh tế xã hội tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đào tạo được 145 kỹ thuật viên cơ sở có khả năng áp dụng, hướng dẫn về các quy trình kỹ thuật mới; tập huấn trên 2.500 người dân trong vùng dự án về kỹ thuật trồng, chăm sóc các loại cây trồng, vật nuôi...
Ông Trần Anh Tuấn - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai cho biết, thông qua chương trình này, người dân sau khi triển khai các mô hình áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đều mang lại hiệu quả cao so với việc người dân sử dụng cách canh tác, nuôi, trồng theo phương thức truyền thống. Do đó, khi triển khai các mô hình, dự án thuộc Chương trình nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số ở các địa phương, người dân hết sức ủng hộ, tích cực tham gia, đây là tiền đề cho việc xây dựng thành công các mô hình cũng như việc duy trì và phát triển các mô hình sau khi dự án kết thúc.
“Các mô hình thuộc các dự án đều có tính mới như áp dụng giống mới có năng suất, chất lượng; sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp; chăn nuôi tập trung… Qua đây, người đồng bào dân tộc thiểu số tại những địa phương thực hiện dự án thay đổi dần phương thức sản xuất và đảm bảo nguồn thu nhập, ổn định đời sống”, ông Trần Anh Tuấn chia sẻ thêm.
Thực tiễn cho thấy, Chương trình nông thôn miền núi có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của những vùng còn khó khăn, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thông qua việc xây dựng các mô hình ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, hoạt động chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp dần tạo ra sự chuyển hướng mạnh mẽ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, người dân đã thấy được hiệu quả các mô hình khi ứng dụng đồng bộ các giải pháp về khoa học công nghệ và kinh tế - xã hội. Từ đó, thay đổi dần nhận thức của người nông dân trong canh tác, giảm thiểu áp lực việc di cư lao động tự do từ vùng nông thôn đến thành thị và góp phần ổn định dân sinh và kinh tế - xã hội vùng dự án.