Việt Nam - Nhật Bản: Hướng tới tương lai, vươn tầm thế giới
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản không ngừng được củng cố
Phát biểu tại hội thảo kinh tế cấp cao kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản diễn ra tại Hà Nội vào sáng 7/3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, cách đây 50 năm, ngày 21/9/1973, Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đó tới nay, trải qua nhiều thăng trầm, thay đổi của tình hình thế giới, khu vực và của mỗi nước, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước không ngừng được củng cố và phát triển trên nhiều lĩnh vực.
Thủ tướng Chính phủ phát biểu chỉ đạo tại hội thảo |
Quan hệ chính trị, ngoại giao; hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ngày càng được tăng cường, củng cố, đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Hoạt động văn hóa, giao lưu nhân dân đã trở thành một nền tảng quan trọng cho mối quan hệ ngày càng gắn bó và tin cậy giữa hai nước.
Hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư luôn được đặc biệt chú trọng, đẩy mạnh toàn diện. Hai bên đã xây dựng nhiều khuôn khổ pháp lý quan trọng cho quan hệ song phương; đồng thời cùng là thành viên của các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Về Hợp tác phát triển (ODA), sau hơn 30 năm, Nhật Bản trở thành quốc gia viện trợ ODA hàng đầu của Việt Nam với trên 2.700 tỷ yên vốn vay, gần 100 tỷ yên viện trợ không hoàn lại và 180 tỷ yên hỗ trợ cho hợp tác kỹ thuật; góp phần quan trọng trong việc phát triển các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững; hỗ trợ chuyển giao công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam...
Về đầu tư, theo Thủ tướng Chính phủ, đến nay Nhật Bản có hơn 5.000 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư gần 70 tỷ USD, đứng thứ 3/141 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam cũng có 104 dự án đầu tư sang Nhật Bản với vốn đầu tư đăng ký đạt 19,2 triệu USD, đứng thứ 36 trong tổng số 79 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Về thương mại, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước năm 2022 đạt gần 50 tỷ USD, đưa Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam; trong đó: Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt gần 25 tỷ USD, nhập khẩu đạt gần 24 tỷ USD. Bên cạnh đó, Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản, cơ chế hợp tác đặc biệt giữa hai Chính phủ, qua 20 năm thực hiện với 8 giai đoạn, đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng.
Tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực năng lượng
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An đánh giá cao hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong 50 năm qua, đồng thời cho biết Việt Nam đang nỗ lực để hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Trong bối cảnh đó, dự báo nhu cầu năng lượng và nhu cầu điện của Việt Nam trong những năm tới sẽ tiếp tục tăng nhanh. Song song với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng, Việt Nam cũng đang xây dựng Chương trình chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ đến năm 2050.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu COP26 được tổ chức tại Glasgow (Vương quốc Anh) vào tháng 11/2021, Việt Nam đã đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Cam kết này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thực hiện các mục tiêu chuyển dịch từ nguồn năng lượng hoá thạch truyền thống sang các nguồn năng lượng xanh, sạch, giảm thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu.
Với nền kinh tế đang phát triển nhanh, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn thách thức trong việc đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển xanh và bền vững. Ngay sau Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp làm Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 và phân công các bộ, ngành xây dựng kế hoạch hành động trong từng lĩnh vực. Trong đó, quá trình chuyển đổi năng lượng đang được chỉ đạo đẩy nhanh trên tinh thần phát huy nội lực, đồng thời tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác quốc tế, các định chế tài chính song phương và đa phương.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An (hàng đầu tiên, thứ 3 từ phải sang) tham dự và có bài phát biểu quan trọng tại hội thảo |
Chuyển dịch năng lượng từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hoá thạch, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn cung năng lượng quốc gia, giảm phát thải khí nhà kính là quá trình căn bản nhằm hướng tới tăng trưởng xanh ở các quốc gia và thực hiện các mục tiêu toàn cầu trong chống biến đổi khí hậu.
Thực tế, 3 năm trở lại đây, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió với hơn 16,5 GW công suất điện mặt trời được kết nối vào lưới điện quốc gia (24,3% công suất lắp đặt, 44% công suất tiêu thụ tối đa năm 2020), gần 4 GW điện gió trên bờ và gần bờ đã vào vận hành. Nếu tính cả 20,6 GW thuỷ điện, công suất lắp đặt nguồn điện từ năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay chiếm đến 54,2% công suất lắp đặt toàn quốc.
Bộ Công Thương đang rà soát và hoàn thiện Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 (Quy hoạch năng lượng quốc gia), và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện 8). Kế thừa sự phát triển mạnh gần đây về phát triển năng lượng tái tạo, Chính phủ Việt Nam đang chỉ đạo sẽ tiếp tục tăng mạnh tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo (thuỷ điệ, điện gió trên bờ và ngoài khơi, điện mặt trời, sinh khối), các loại hình năng lượng mới trong cơ cấu nguồn điện quốc gia.
Cũng theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An, được đánh giá là một trong 10 quốc gia có tiềm năng lớn nhất về năng lượng tái tạo, Việt Nam cũng đang hướng tới xây dựng và phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo nội địa, nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để vừa tận dụng tài nguyên về năng lượng tái tạo, vừa giảm giá thành sản xuất điện.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, theo đó vấn đề phát triển năng lượng theo hướng bền vững, đảm bảo cung cấp đủ, ổn định nguồn điện năng với giá thành hợp lý luôn là thách thức với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Cùng với đó, đã 20 năm nay, tốc độ tăng trưởng nhu cầu điên của Việt Nam hàng năm ở Việt Nam đều ở mức 2 con số, thường từ 1,5-1,8 lần tốc độ tăng trưởng GDP, trong đó giai đoạn 2000-2010 là 13%; 2011-2019 là 10,5% (trừ năm 2020 tăng trưởng thấp do đại dịch Covid-19).
Các tính toán của Bộ Công Thương cũng cho thấy, nhu cầu điện và năng lượng sẽ tiếp tục tăng cao cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của Việt Nam trong những năm sắp tới.
“Theo đó, định hướng phát triển năng lượng và Chương trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam trong những năm tới mang đến cơ hội hợp tác rất lớn cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp năng lượng nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản” - Thứ trưởng Đặng Hoàng An nhấn mạnh.
Cũng đánh giá cao về cơ hội hợp tác trong lĩnh vực năng lượng, phía Nhật Bản cho biết, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, nên có nhu cầu rất lớn về năng lượng. Trong khi đó, Việt Nam cũng có nhu cầu dich chuyển sang nguồn năng lượng sạch, đây lại là những lĩnh vực phía Nhật Bản có nhiều ưu thế, do vậy cơ hội hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong lĩnh vực năng lượng là rất lớn.
Bên cạnh cơ hội hợp tác trong lĩnh vực năng lượng, theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, với mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, Việt Nam đang chú trọng tới việc ứng dụng khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế trí thức. Trong hành trình đó, Việt Nam mong muốn có sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật Bản rất có tiềm năng và phù hợp với các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ việt nam nêu trên.
Quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 409 tỷ USD, GDP bình quân đầu người tăng 25 lần; thu nhập bình quân đầu người tăng đạt trên 4.100 USD. Đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới với trên 60 nước, vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn nhất trên thế giới và ngày càng đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, các chuỗi cung ứng. Đây là cơ hội rất lớn để Việt Nam đẩy mạnh hợp tác kinh tế, quốc tế với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Nhật Bản. |