Bài 2: Đại tướng Nguyễn Quyết với dấu ấn “vươn ra Biển Đông - làm giàu, đánh thắng”
Thực hiện Thanh Thảo - Phạm Huyền
26/12/2024 20:31

“Đại tướng Nguyễn Quyết - Vị tướng tài năng, đức độ, nhất mực trung thành của Đảng ta, Quân đội ta - Bài 2: Đại tướng Nguyễn Quyết với dấu ấn “vươn ra Biển Đông - làm giàu, đánh thắng”, kính thưa quý vị, trên đây là bài viết của Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI, được đăng tải trên báo Quân đội nhân dân điện tử tại trang web qdnd.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đại tướng Nguyễn Quyết, trong cuộc đời hoạt động và cống hiến của mình, có thể nói, ở ông chính là sự hội tụ nhiều phẩm chất cao quý của một cán bộ, đảng viên cộng sản: Kiên trung, gương mẫu, tận tụy, sáng tạo và nhất là tinh thần đoàn kết máu thịt với nhân dân.

Thế hệ ông, trong đó có ông, trong mọi hoàn cảnh, nhất là trên cương vị chủ trì cơ quan hay đơn vị đều luôn tiên phong, gương mẫu, thực hiện đúng nguyên tắc của Đảng, luôn đặt lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và Quân đội lên trên hết, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn linh hoạt và sáng tạo, đi đầu giải quyết khó khăn, thử thách và rất quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Trước khi giữ cương vị trọng yếu trong Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, ở Quân khu 3, những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, Tư lệnh kiêm Chính ủy - Thượng tướng Nguyễn Quyết đã để lại dấu ấn khá sâu đậm về vai trò “chủ soái” của ông trong phong trào “làm giàu, đánh thắng”, “vươn ra Biển Đông làm giàu, đánh thắng” ở Quân khu 3. Phong trào này thể hiện rõ sự táo bạo và đổi mới trong cách nghĩ của một cán bộ có tầm chiến lược. Phong trào phát triển nhanh chóng, sâu rộng và có hiệu quả thiết thực, tạo nên một “hiện tượng” đối với toàn quân và cả nước thời gian đó. Nhiều chủ trương, kinh nghiệm mà quân và dân Quân khu 3 tiên phong thực hiện đã tạo tiền đề cho sự nghiệp đổi mới sau này.

Nhắc đến dấu mốc Đổi mới 1986, không thể không nhắc đến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, một người con quê ở Hưng Yên khi đó đã rất kiên quyết, đi đầu, khởi xướng các phong trào: “Những việc cần làm ngay”; “Nói đi đôi với làm”... mà chắc chắn người đứng đầu của Đảng đã cảm nhận rất sâu sắc từ thực tiễn các thành quả của Quân khu 3 - hậu phương lớn trong chiến tranh cũng là vựa người, vựa của, nơi cung cấp nhân tài, vật lực, trí tuệ và cả những đột phá về cách nghĩ, cách làm để làm tiền đề cho công cuộc Đổi mới của đất nước.

Trên cương vị Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 3, vị tướng hiểu rất sâu sắc rằng, sau hai cuộc chiến tranh, khi hai đầu biên giới phía Nam, phía Bắc mới vừa im tiếng súng, nền kinh tế quốc dân gặp vô vàn khó khăn vì những bao vây, cấm vận ngặt nghèo của các nước tư bản. Một khó khăn rất lớn nữa, đó là đã xuất hiện dấu hiệu rạn nứt, suy thoái, lung lay của khối xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô, càng khiến cục diện xây dựng đất nước, nâng cao đời sống của toàn quân và toàn dân ta gặp rất nhiều khó khăn.

Với tư duy nhạy bén và bề dày kinh nghiệm từng được tôi rèn trong lửa đỏ các cuộc chiến tranh, vị Tư lệnh của vùng đất châu thổ sông Hồng đã cùng với tập thể lãnh đạo Quân khu 3 quyết định vươn ra Biển Đông để làm giàu, đánh thắng. Nói thì đơn giản như vậy, văn bản cũng có thể lập ra, hoạch định trên giấy không khó khăn gì nhưng bắt tay vào thực hiện những công việc thực hành mới là vô cùng khó khăn, phức tạp.

Vị tướng trận từ những ngày đầu đi theo cách mạng hiểu rất rõ ràng đã là người chiến sĩ phải luôn ở tuyến đầu, phải chống chịu sóng gió và vượt qua nó để giúp người dân có cơm ăn, áo mặc, phải xây dựng đời sống hạnh phúc cho nhân dân sau các cuộc chiến tranh với vô vàn mất mát, hy sinh. Nhưng làm giàu phải trên tinh thần thượng tôn pháp luật, tuyệt đối không được bất chấp các quy luật về kinh tế-xã hội, khẩn trương, quyết liệt nhưng không được nôn nóng, ăn xổi ở thì. Tất cả những vấn đề đặt ra đó đều đã được vị tướng cân nhắc hết sức kỹ lưỡng.

Từ thực tiễn của các tỉnh miền biển như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà - Nam - Ninh, nhân dân gặp khó khăn về vươn khơi, lấn biển, thiếu thốn các phương tiện khai thác thủy hải sản; đồng đất ven biển bị xâm thực mặn khó trồng cấy; cư dân thiếu cơ sở vật chất để tạo dựng các làng nghề. Chưa kể, thói quen quan liêu, bao cấp, trông chờ, ỷ lại và nhất là e ngại cách thức làm mới, sợ cái mới, cầu an đã ăn sâu, bám rễ trong đông đảo tầng lớp nhân dân.

Nhìn nhận rõ bản chất của vấn đề, vị tướng đứng đầu Quân khu 3 đã phát động phong trào thi đua: “Vươn ra Biển Đông - làm giàu, đánh thắng” mà nòng cốt là các đơn vị trong toàn quân khu kết hợp với nhân dân trên địa bàn thực hiện từng khâu, từng việc, chủ động, sáng tạo, dựa trên sức mình là chính. Khi đó, ở các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà - Nam - Ninh đâu đâu cũng phấn chấn thi đua lao động sản xuất, quân với dân khăng khít một lòng, một dạ vượt mọi khó khăn. Nhiều tập thể tiên tiến với sự chủ động, sáng tạo nổi trội đã trở thành mô hình mẫu. Nhiều cá nhân tiêu biểu với thành tích lao động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả càng khiến phong trào đi vào chiều sâu, giải quyết bài toán khó của nền kinh tế đang rơi vào trì trệ lúc bấy giờ. Điểm sáng trên mặt trận kinh tế của quân và dân Quân khu 3 đã chứng minh cho phong trào thi đua: “Vươn ra Biển Đông - làm giàu, đánh thắng”.

undefined
Đại tướng Nguyễn Quyết giữ thói quen đọc sách, báo. Ảnh: baohungyen.vn.

Một đặc điểm nổi trội của vị tướng Nguyễn Quyết là tầm nhìn xa của ông từ các phong trào thi đua để góp phần “quốc phú, binh cường”, nhất là việc xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân nơi vùng biển đảo. Trong phong trào kể trên, Quân khu 3 đã khai hoang, lấn biển ở các tỉnh trên địa bàn được 55.468ha, nhiều tuyến đường xuyên ra bán đảo Đình Vũ, xuyên ra đảo Cát Hải, Cát Bà - Hải Phòng đã khiến vùng đất hoang hóa trở thành nơi canh tác với các ngành nghề làng biển. Các tuyến đảo vùng Đông Bắc thay da đổi thịt hằng ngày, nhiều làng nghề, ngư trường hoạt động sôi nổi đã đem lại lợi ích lớn cho nhân dân.

Cùng với đó, các tuyến đảo gần bờ cũng được xây dựng và phát triển theo hướng bền vững vừa là một pháo đài trong phòng thủ biển đảo vừa là một đầu cầu kết nối để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây cũng là tiền đề để sau này khi Đại tướng Nguyễn Quyết ra thăm cán bộ chiến sĩ, quân và dân trên quần đảo Trường Sa đã có những quyết sách đã trở thành chủ trương, trở thành phương châm hành động với câu khẩu hiệu nổi tiếng: “Cả nước vì Trường Sa, Trường Sa vì cả nước”. Đây cũng là dấu mốc hết sức quan trọng đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội ta trong việc bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước.

Hôm nay, mỗi khi giở lại từng trang lịch sử, nhất là những trang quân sử hào hùng của quân và dân Quân khu 3, chúng ta càng thấy rõ sự vinh dự, tự hào, nhất là niềm tin sâu sắc vào sự quyết đoán và phương châm chiến lược của Đảng ta, quân đội ta, trong đó có những vị tướng bình dị nhưng vô cùng sâu sắc như Đại tướng Nguyễn Quyết.

Từ sự thành công của phong trào thi đua: “Vươn ra Biển Đông - làm giàu, đánh thắng” gắn với tên tuổi Đại tướng Nguyễn Quyết đã cho thấy trong công cuộc cách mạng, nhất là ở những giai đoạn gian khổ, khó khăn, rất cần có những bộ óc dám suy nghĩ, dám thực hành, dám làm những điều chưa ai làm, dám khơi thông những tắc nghẽn để mở đường cho những dòng chủ lưu mạnh mẽ trong sự phát triển và trưởng thành bền vững của Quân đội ta, đất nước ta.

Chúng ta luôn rất tự hào với vị tướng gắn với phong trào thi đua: “Vươn ra Biển Đông - làm giàu, đánh thắng”.

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Chính Luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

rewind
play
fast-forward
00:00
/
00:00
Bài 1: Đại tướng Nguyễn Quyết- Vị tướng tài năng, đức độ, nhất mực trung thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bài 1: Đại tướng Nguyễn Quyết- Vị tướng tài năng, đức độ, nhất mực trung thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam

“Đại tướng Nguyễn Quyết - Vị tướng tài năng, đức độ, nhất mực trung thành của Đảng ta, Quân đội ta - Bài 1: Từ một thiếu niên nông thôn vùng đất Kim Động (Hưng Yên) đến Bí thư Thành ủy Hà Nội trong Cách mạng Tháng Tám”, kính thưa quý vị, trên đây là bài viết của Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI, được đăng tải trên báo Quân đội nhân dân điện tử tại trang web qdnd.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đại tướng Nguyễn Quyết là vị tướng luôn được tổ chức phân công đảm đương những vị trí công tác chiến lược ở những giai đoạn bước ngoặt của cách mạng.

Năm 1945, khi mới 23 tuổi, ông đã đảm đương cương vị Bí thư Thành ủy Hà Nội, cùng tập thể lãnh đạo khởi nghĩa cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Tiếp đó, năm 1947, ông được phân công Nam tiến, đảm đương các chức vụ quan trọng trong Quân khu ủy Quân khu 5, Chính ủy Mặt trận Quảng Đà. Năm 1955, ông được điều về làm quyền Chính ủy rồi Chính ủy Quân khu Tả Ngạn. Từ năm 1977 đến năm 1986, ông Quyết giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 3.

Đặc biệt, trong dấu mốc Đổi mới 1986, ông được điều về đảm đương cương vị Phó chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Đại tướng Nguyễn Quyết là vị Thủ trưởng Tổng cục Chính trị có nhiều đóng góp lớn trong giai đoạn bước ngoặt từ dấu mốc Đổi mới 1986 khi thực hiện trở lại cơ chế Đảng ủy lãnh đạo, thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang.

undefined
Đại tướng Nguyễn Quyết khi tròn 100 tuổi. Ảnh: qdnd.vn.

Đồng chí Nguyễn Quyết tên khai sinh là Nguyễn Tiến Văn. Ông sinh ngày 20-8-1922 tại xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Hưng Yên cũng là mảnh đất sinh ra nhiều vị tướng lĩnh tài ba, kiên trung sớm theo Đảng, theo Bác Hồ từ những ngày đầu lập nước và trưởng thành trong các cuộc chiến tranh vệ quốc như: Trung tướng Nguyễn Bình, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Thượng tướng Phạm Thanh Ngân, Thượng tướng Lê Quang Hòa, Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên và đặc biệt là Đại tướng Nguyễn Quyết.

Ngay từ nhỏ, cậu bé Nguyễn Tiến Văn đã tỏ rõ bản tính thông minh sôi nổi tham gia các công việc nhưng cũng rất điềm đạm và chăm chỉ nên rất được cha mẹ, thầy cô và bè bạn quý mến. Cuộc sống ở các vùng quê Bắc Bộ trong đó có vùng đất xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên rất khó khăn. Chính quyền thực dân Pháp và bè lũ tay sai ra sức đàn áp, bóc lột nhân dân ta đến kiệt cùng. Giới địa chủ cường hào đứng đầu là bọn lý trưởng, chánh tổng, tri huyện, tri phủ cấu kết ngoại bang không từ một thủ đoạn nào để bóc lột người nông dân, bần cùng hóa đúng như những gì trong tiểu thuyết "Tắt đèn" của nhà văn Ngô Tất Tố đã mô tả.

Trước cảnh đất nước lầm than cơ cực, chàng thiếu niên Nguyễn Quyết đã sớm có suy nghĩ phải làm việc gì đó để giúp ích cho gia đình, bà con làng xóm, cho đất nước và cũng là mở ra trang mới với cuộc đời mình. Mới ở tuổi mười lăm, Nguyễn Quyết đã rời quê hương Kim Động lên Hà Nội tìm việc làm cũng là để thấy rõ hơn xã hội nhiều mặt ở Thủ đô. Trong tâm tư của chàng thiếu niên, lúc nào cũng ám ảnh việc dân bản xứ lầm than cơ cực còn những kẻ cầm quyền luôn phè phỡn, xa hoa. Vốn có hiểu biết về chữ nghĩa và sự chín chắn, khéo léo trong lời ăn tiếng nói, Nguyễn Quyết đã xin vào được làm thư ký kiêm phát hành báo cho Báo Đuốc Tuệ của Trung tâm Phật giáo Bắc kỳ, có trụ sở ở chùa Quán Sứ. Ở vị trí này, Nguyễn Quyết vừa được làm vừa được học ngay tại tòa soạn và các nơi khác. Có dịp tiếp xúc với nhiều người ở các tầng lớp xã hội khác nhau đã cho Nguyễn Quyết một cái nhìn bao quát, rộng khắp, những sự cọ xát hết sức hữu ích.

Trong khoảng thời gian này, chàng thanh niên Nguyễn Quyết bị lôi cuốn bởi các hoạt động của cuộc vận động dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương phát động. Tận mắt chứng kiến và tham gia nhiều hoạt động của phong trào, được tiếp xúc với các công nhân, người lao động thành phố, giới trí thức và các giai tầng xã hội khác nhau đã cho ông hiểu sâu sắc và nhận định rõ ràng rằng thân phận của người dân mất nước thì ở đâu cũng như nhau, nông thôn hay thành thị, nông dân hay công nhân, trí thức đều bị bọn thực dân cướp nước và bè lũ tay sai đè đầu cưỡi cổ, phải chịu bóc lột, bất bình đẳng thậm chí là bị giết oan mà không có pháp luật bảo vệ. Đây cũng là những bài học lớn cho Nguyễn Quyết trưởng thành.

Cũng trong thời gian đó, đồng chí Nguyễn Quyết đã lọt vào vòng ngắm theo dõi của bọn mật thám. Chúng lùng sục tìm cách bắt ông, khiến ông phải tạm trở về quê hương. Tại Kim Động, ông đã may mắn gặp đồng chí Nguyễn Văn Tích (còn có bí danh là Tạo) - một đảng viên cộng sản, là cán bộ liên tỉnh (gồm các tỉnh: Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An...) và được giao nhiệm vụ vận động quần chúng xây dựng phong trào phản đế ở huyện Kim Động. Nguyễn Quyết đã hoạt động rất tích cực và có nhiều thành tích. Năm 1940, khi vừa tròn 18 tuổi, đồng chí Nguyễn Quyết được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, được phân công phụ trách Bí thư Thanh niên phản đế huyện Kim Động. Đây chính là dấu mốc rất quan trọng của đồng chí Nguyễn Quyết.

Tháng 8-1943, khi mới 21 tuổi, đồng chí Nguyễn Quyết đã được Xứ ủy Bắc kỳ chỉ định tham gia Ban Cán sự Đảng Hà Nội, được phân công phụ trách xây dựng căn cứ ngoại thành và vận động công nhân đấu tranh trong nội thành. Khoảng thời gian này, ông cùng các đồng chí lãnh đạo trong Ban Cán sự Đảng Hà Nội tổ chức thành lập các chi bộ, giác ngộ số công nhân cư trú ở ngoại thành bắt mối với các nhà máy, cơ sở sản xuất trong nội thành. Nhiều cơ sở, chi bộ ở nội thành và ngoại thành Hà Nội đã được thành lập, phong trào cách mạng ở Hà Nội được nâng cao chính là cơ sở, nền tảng cho Cách mạng Tháng Tám.

Mùa hè năm 1944, sau khi tham dự một lớp học quân sự tại tỉnh Thái Nguyên để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa, ông được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Hà Nội thay đồng chí Lê Quang Đạo do bị lộ nên Trung ương điều đi làm nhiệm vụ khác. Ông chia sẻ: “Đó là thời kỳ một ngày bằng hai mươi năm sục sôi không khí chuẩn bị mọi mặt cho cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. Tôi được phân công đặc trách công tác quân sự, đồng chí Phương phụ trách công vận, đồng chí Vũ Oanh phụ trách thanh vận... Chúng tôi nắm chắc các đội tự vệ vũ trang mới thành lập, tổ chức huấn luyện dưới những hình thức khác nhau. Đây sẽ là lực lượng vũ trang hậu thuẫn quan trọng cho nhân dân giành chính quyền ở Hà Nội”.

Chính từ sự chuẩn bị công phu, sáng suốt, kiên quyết của Ban lãnh đạo Thành ủy Hà Nội với sự đứng đầu của Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết đã tiến tới một quyết định lịch sử: Hà Nội tiến hành khởi nghĩa vào ngày 19-8-1945 đánh đổ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng và đã thành công rực rỡ, trọn vẹn, không đổ máu. Sau này, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận định về dấu mốc lịch sử trên: “Trong thời cơ lịch sử có một không hai đó, đã xuất hiện những con người thông tuệ được tôi luyện trong môi trường cách mạng, những trái tim và khối óc không chỉ dựa vào lòng yêu nước nồng nàn mà còn có tư chất tuyệt vời, phán đoán sắc sảo về khả năng thắng lợi của cách mạng và sự nhạy cảm thời cuộc đặc biệt. Ban lãnh đạo của Hà Nội khi đó toàn những người trẻ tuổi, dưới 30, mà người đứng đầu là Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết mới ở tuổi 23 và kinh qua 6 năm tôi luyện trong đấu tranh cách mạng. Thật là tuyệt vời!”.

Đó cũng là một trong những dấu mốc quan trọng nhất trong cuộc đời Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Quyết.

Trong mỗi lần các nhà văn, nhà báo chúng tôi tiếp xúc với Đại tướng Nguyễn Quyết, ông đều tỏ ra rất phấn chấn khi kể về quãng thời gian trai trẻ của mình, nhất là khi được tổ chức tin tưởng giao chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội vào thời điểm then chốt nhất của Cách mạng Tháng Tám. Chính từ sự tin tưởng tuyệt đối của cấp trên, của Đảng, đã cho ông nền tảng vững chắc để sau này đảm đương các cương vị, trọng trách trong Quân đội. Đây cũng chính là một trong những vẻ đẹp, chiều sâu thành tựu của Đảng ta trong việc bồi dưỡng, rèn luyện và sử dụng những người con ưu tú trong công cuộc cách mạng.

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Nhận thức đúng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy

Nhận thức đúng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy

“Nhận thức đúng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy”, kính thưa quý vị, trên đây là bài viết của tác giả Phan Nguyễn, được đăng tải trong chuyên mục Phòng, chống diễn biến hòa bình trên báo Quân đội nhân dân điện tử tại trang web qdnd.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Việc sắp xếp tổ chức bộ máy công quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Chúng ta xác định đây là một cuộc cách mạng tạo động lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, với mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch không ngừng gieo rắc tư tưởng phản động vào dòng chủ lưu của đất nước, nhằm xuyên tạc, kích động, chống phá...

Chủ trương đúng, quyết tâm cao

Thời gian gần đây, thông tin về việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, sắp xếp, cải cách tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả trở thành chủ đề chính, nổi bật trên tất cả các loại hình, ấn phẩm báo chí-truyền thông. Chủ đề này cũng thu hút sự quan tâm chú ý đặc biệt của truyền thông quốc tế. Dư luận tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam đều đánh giá cao và kỳ vọng vào sự đột phá mạnh mẽ của Việt Nam trong lĩnh vực này. Nhiều chuyên gia, học giả quốc tế đã có những bài viết phân tích, đánh giá, bày tỏ tin tưởng vào quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong cải cách bộ máy. Trong hoạt động đối ngoại, khi tiếp xúc với nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo cấp cao các nước, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta cũng thông tin về chủ trương lớn này của Việt Nam, đồng thời nhận được sự quan tâm, tin tưởng của bạn bè quốc tế.

Thông qua hội nghị các cấp, các cuộc tiếp xúc cử tri, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta cũng thông tin kịp thời, giải đáp thắc mắc, tiếp thu kiến nghị của cử tri về công tác sắp xếp, tinh gọn bộ máy và nhận được sự đồng tình, ủng hộ, thống nhất rất cao của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Các hoạt động hội thảo, tọa đàm về chủ đề này cũng được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Giới chuyên gia, nhà lãnh đạo, nhà quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân bày tỏ kỳ vọng lớn vào cuộc cách mạng mới của đất nước, đồng thời có nhiều hiến kế, đề xuất, kiến nghị có giá trị, sát thực tiễn, nhằm góp phần thực hiện thành công chủ trương lớn của Đảng.

Có thể nói, cuộc cách mạng về cải cách tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị của đất nước đã và đang nhận được sự quan tâm to lớn của nhân dân và dư luận quốc tế. Sự đồng thuận, kỳ vọng của nhân dân chính là cơ sở, nền tảng tinh thần vững chắc để Đảng, Nhà nước ta quyết tâm, quyết liệt thực hiện bằng được mục tiêu, yêu cầu đã đề ra. Trong bài viết với tựa đề “Tinh-gọn-mạnh-hiệu năng-hiệu lực-hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “... Để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị...”.

Sự khẳng định tính tất yếu và quyết tâm phải làm nhanh, làm đồng bộ, chính xác, hiệu quả các bước đi, lộ trình tinh gọn bộ máy của người lãnh đạo cao nhất Đảng ta cũng chính là quyết tâm chính trị to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Điều này khẳng định, Đảng, Nhà nước ta đã xác định đúng và trúng vấn đề. Tinh gọn bộ máy không chỉ là đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn của đất nước mà còn là yêu cầu khách quan của xu thế thời đại. Việt Nam sẽ gặp nhiều rào cản, khó khăn, chậm trễ... trong hội nhập quốc tế nếu không quyết liệt tinh gọn bộ máy vốn đã và đang quá cồng kềnh hiện nay.

Thấy gì từ những luận điệu xuyên tạc, chống phá?

Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc cải cách để tinh gọn, bảo đảm cho bộ máy công quyền hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là một đòi hỏi tất yếu. Đây là thời điểm chín muồi, hội tụ các yếu tố cần và đủ để chúng ta thực hiện cuộc cách mạng của thời đại mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, từ dấu mốc Đại hội XIV của Đảng.

Trong lúc hệ thống chính trị các cấp đang chủ động, nỗ lực triển khai các hình thức, giải pháp sắp xếp, tinh gọn bộ máy với tinh thần Trung ương nêu gương thì không gian mạng cũng liên tục xuất hiện các sản phẩm truyền thông mang tư tưởng thù địch, đi ngược lại chủ trương của Đảng, Nhà nước ta. Trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube... thời gian gần đây liên tục xuất hiện các bài viết, video clip của một số đối tượng phản động là người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là những thành phần bất mãn với Tổ quốc, sống lưu vong, lợi dụng không gian mạng để tuyên truyền tư tưởng phản động, xuyên tạc chống phá Đảng, chống phá đất nước.

Bám vào những thông tin về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy được đăng tải trên hệ thống báo chí, truyền thông trong nước, những đối tượng này vận dụng chiêu bài cắt ghép, xuyên tạc thông tin, “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” để lèo lái, lừa bịp dư luận. Thủ đoạn của chúng là “hóng hớt” thông tin từ mạng xã hội, lắp ghép vào thông tin, hình ảnh trên báo chí chính thống trong nước để nói phải thành trái, đổi trắng thay đen. Chúng móc nối với một số đối tượng cực đoan trong nước để thực hiện những cái gọi là “trao đổi”, “phỏng vấn” với những đối tượng tự xưng, tự phong là “học giả”, “chuyên gia” để phân tích, bình luận tình hình chính trị trong nước. Chúng bám vào thông tin về việc một số đồng chí nguyên là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước bị xử lý kỷ luật, gán ghép thông tin này với lộ trình tinh gọn bộ máy để chụp mũ, quy kết chúng ta “thanh trừng nội bộ”...

Chúng ta đều hiểu rõ, cuộc cách mạng nào cũng đều phải trả giá, hy sinh. Thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, chắc chắn sẽ có một bộ phận lớn cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương từ ngân sách nhà nước... dôi dư, mất việc làm, ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống gia đình. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta rất nhân văn, giải quyết có lý, có tình nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự xáo trộn tâm lý xã hội và cuộc sống của những đối tượng bị ảnh hưởng. Bám vào thực tế này, các đối tượng phản động, thù địch liên tục, thường xuyên tung tin thất thiệt nhằm kích động, lôi kéo, cổ xúy các hành vi cực đoan gây mất ổn định chính trị và đoàn kết nội bộ. Những sản phẩm truyền thông độc hại này được chúng triệt để tận dụng mạng xã hội đăng tải, lan truyền với mức độ, cường độ ngày càng nhiều. Mục đích của chúng là gây nhiễu dư luận, gây rối nội bộ, phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị, làm lung lạc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; phá hoại cuộc cách mạng của Việt Nam trong thời đại mới...

Thống nhất nhận thức, kiên trì hành động

Yêu cầu đầu tiên và trước hết là phải tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động từ trong Đảng và hệ thống chính trị các cấp. Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy không phải là việc làm “nhất thời” như các thế lực thù địch rêu rao, mà thực chất là chúng ta đã triển khai thực hiện từ lâu, trọng tâm là giai đoạn 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, kết quả đạt được theo yêu cầu đề ra vẫn còn khiêm tốn, thực tế còn tồn tại nhiều điểm nghẽn, bất cập cần khẩn trương tháo gỡ. Đảng ta đã chỉ rõ, cho đến nay, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ...

undefined

Quan điểm chỉ đạo về tinh gọn bộ máy toàn bộ hệ thống chính trị theo Nghị quyết 18 của Trung ương.

Những hạn chế, tồn tại đó là lực cản lớn, gây lãng phí, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nguyên nhân là do chúng ta còn chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy. Những hạn chế, yếu kém, tồn tại đã được Đảng, Nhà nước chỉ rõ, thẳng thắn thừa nhận. Việc triển khai sắp xếp, tinh gọn bộ máy được làm trước hết từ Trung ương đã thể hiện rõ tính nêu gương, tiền phong gương mẫu từ trên xuống.

Sự thống nhất nhận thức và hành động, trước hết, trên hết từ trong Đảng là nhân tố nòng cốt, trung tâm để tạo sự thống nhất trong cả hệ thống chính trị và toàn dân. Để có sự thống nhất, đoàn kết thực chất, bền vững, bên cạnh việc tin tưởng, ủng hộ, đồng hành với chủ trương lớn của Đảng, đòi hỏi cán bộ, đảng viên và công dân yêu nước phải có chính kiến, thái độ rõ ràng trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các đối tượng cực đoan, phản động, thế lực thù địch.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, kẻ thù của cách mạng Việt Nam là thực dân, đế quốc xâm lược và các thế lực tay sai. Cuộc cách mạng trong thời đại mới về tinh gọn bộ máy, kẻ thù của chúng ta bên cạnh các thế lực thù địch, phần tử phản động còn là cái “tôi” ích kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, sự yếu kém của bản lĩnh, chủ nghĩa cá nhân. Để cách mạng thành công, phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, đồng thời phải đấu tranh với chính cái “tôi” tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn có hiệu quả những biểu hiện suy thoái chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống ngay từ nội bộ.

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu: Ký ức khó quên về những trận chiến "rừng sâu là nhà, bom đạn là bạn"

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu: Ký ức khó quên về những trận chiến "rừng sâu là nhà, bom đạn là bạn"

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu: Ký ức khó quên về những trận chiến “rừng sâu là nhà, bom đạn là bạn”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của tác giả Thanh Thảo nhân dịp kỉ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024) được đăng tải trên báo Công Thương điện tử tại trang web congthuong.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, người lính già nay đã qua tuổi tám mươi, nhưng mỗi khi nhắc đến chiến tranh, đôi mắt ông vẫn ánh lên những tia lửa, chất chứa ký ức của những tháng ngày máu lửa mà ông cùng đồng đội đã đi qua.

Trong những câu chuyện của ông kể cho chúng tôi - nhóm phóng viên Báo Công Thương, những kí ức dài không chỉ là chiến thắng, mà còn là nỗi đau, nước mắt và những bài học về lòng yêu nước, sự hy sinh cho độc lập dân tộc. Cuộc đời binh nghiệp của ông gắn liền với những trận đánh lớn, mà mỗi trận chiến là một dấu mốc không thể phai mờ trong lịch sử đất nước.

Trận Khe Sanh 1968: “Sống, chết đều phải đi tới cùng”

Ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong căn nhà yên tĩnh, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu kể lại trận Khe Sanh bằng giọng trầm, đứt quãng, như đang nhìn lại từng gương mặt đồng đội đã ngã xuống.

Ngày ấy, chúng tôi nhận lệnh đánh vào Khe Sanh, nơi quân địch đã xây dựng một phòng tuyến tưởng như bất khả xâm phạm. Mỗi ngày, hàng trăm tấn bom đạn trút xuống, mặt đất rung chuyển như muốn nuốt chửng cả đội quân. Có lần, chúng tôi nằm trong hầm, từng đồng đội bên cạnh lần lượt hy sinh, nhưng không ai rời vị trí. Trong ánh mắt họ, tôi nhìn thấy một lời nhắn nhủ: Anh hãy đi tiếp, dù tôi có phải dừng lại ở đây. Và chúng tôi đi tiếp, sống, chết đều phải đi tới cùng".

Trận Khe Sanh không chỉ là chiến thắng quân sự, mà còn là chiến thắng của tinh thần và ý chí. Với ông, đó là một bài học sâu sắc về lòng kiên cường, rằng chiến tranh không bao giờ chỉ là đối đầu vũ khí, mà là cuộc chiến của trái tim và niềm tin.

Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971: “Rừng sâu là nhà, bom đạn là bạn”

Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào là một trong những thử thách lớn nhất đối với Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu. Trong câu chuyện của ông, chiến dịch ấy như một cơn bão mà bất cứ ai bước vào đều phải đối mặt với cái chết.

Chúng tôi tiến vào rừng sâu, nơi chưa từng có dấu chân người. Rừng già bao phủ, nhưng bên dưới là hàng ngàn bãi mìn, pháo sáng và máy bay địch quần thảo suốt ngày đêm. Đó là nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau một hơi thở. Có lần, tôi cùng đồng đội bò qua một bãi mìn dài gần hai cây số, mỗi bước chân đều nghe thấy tiếng tim mình đập. Chỉ một chút sơ sẩy, cả đại đội có thể biến thành tro bụi”.

Đường 9 - Nam Lào là một chiến dịch mà quân đội ta không chỉ chiến đấu với địch, mà còn phải chiến thắng cả thiên nhiên khắc nghiệt và nỗi sợ hãi trong chính mình. Ông xúc động kể với nhóm phóng viên Báo CôngThương: “Chúng tôi không biết mình có sống sót hay không, nhưng chỉ có một niềm tin duy nhất: Nếu không đi tiếp, sẽ không còn ai giữ được con đường Trường Sơn”.

Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975: “Lá cờ tung bay trong nước mắt”

Ngày 30/4/1975, cả dân tộc vỡ òa trong niềm vui chiến thắng, nhưng với Nguyễn Huy Hiệu, đó là ngày ông khóc nhiều nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình.

Trước giờ tiến vào Sài Gòn, chúng tôi biết rằng đây là trận chiến cuối cùng, là đích đến của cả một hành trình đầy máu và nước mắt. Nhưng đó cũng là trận đánh mà tôi sợ nhất, không phải vì đạn bom, mà vì sợ rằng sẽ có thêm nhiều đồng đội hy sinh ngay trước thềm hòa bình. Và họ đã hy sinh. Những người lính cuối cùng ngã xuống trên con đường dẫn đến Dinh Độc Lập, họ không kịp thấy lá cờ tung bay. Khi chúng tôi dựng lá cờ lên nóc Dinh, nước mắt tôi đã chảy. Tôi khóc cho đồng đội, cho những người mẹ, người vợ sẽ mãi chờ đợi những người không bao giờ trở về”.

Chiến dịch Hồ Chí Minh khép lại cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ, nhưng với Thượng tướng, đó không phải là dấu chấm hết. Ông nói: “Khi nhìn lá cờ, tôi chỉ ước rằng không bao giờ phải cầm súng nữa. Nhưng tôi biết, để giữ được hòa bình, chúng ta sẽ còn phải chiến đấu, chỉ là trên một mặt trận khác”.

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979: “Đứng ở đâu, đất nước ở đó”

Khi đất nước vừa thống nhất, tiếng súng đã lại vang lên ở biên giới phía Bắc. Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu khi ấy không ngần ngại bước vào cuộc chiến mới, bảo vệ từng tấc đất quê hương.

Chúng tôi đứng giữa mùa đông lạnh giá ở Lạng Sơn, trước mặt là hàng ngàn quân địch tràn xuống, sau lưng là làng mạc, là những người dân tay không tấc sắt. Đứng ở đâu, đất nước ở đó. Chúng tôi không cho phép mình lùi bước”.

Những trận chiến ác liệt ở Lạng Sơn, Cao Bằng đã ghi dấu những hy sinh to lớn. Ông kể: “Có người lính trẻ hỏi tôi: “Thủ trưởng, nếu tôi hy sinh, liệu đất nước có nhớ đến tôi không?". Tôi chỉ nhìn anh ấy và nói: “Đất nước không bao giờ quên ai đã giữ lấy nó”. Và hôm sau, anh ấy không còn nữa.

Chiến tranh biên giới phía Bắc kết thúc, nhưng với ông, đó là lời nhắc nhở rằng hòa bình không bao giờ là điều dễ dàng.

Người kể chuyện chiến tranh và khát vọng hòa bình

Hơn nửa đời người cầm súng, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu hiểu rõ giá trị của hòa bình hơn bất kỳ ai. Ở tuổi xế chiều, ông dành thời gian viết sách, ghi chép lại những câu chuyện chiến trường không chỉ để tưởng nhớ, mà còn để gửi gắm lời nhắn nhủ đến thế hệ mai sau.

undefined

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu. Ảnh: Quốc Chuyển

Hòa bình không tự nhiên mà có. Nó được đổi lấy bằng máu, nước mắt và cả tuổi trẻ của những người đã đi qua chiến tranh. Hãy sống sao cho xứng đáng với những gì họ đã hy sinh”.

Trong giọng kể của ông, không có sự tự hào cá nhân, không có ánh hào quang của chiến thắng, mà chỉ là nỗi day dứt, lòng trân trọng dành cho những người đã nằm lại trên những cánh rừng, con đường, dòng sông của Tổ quốc. Ông bảo: “Tôi may mắn hơn nhiều đồng đội vì được sống đến hôm nay, nhưng tôi luôn tự hỏi liệu mình đã làm đủ để trả ơn họ chưa”.

Vào ngày 22/12 – Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu thường dành thời gian lặng lẽ đặt hoa tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh. Với ông, đây không chỉ là ngày kỷ niệm, mà là dịp để tri ân, để nhắc nhở mỗi người Việt Nam rằng quân đội nhân dân không chỉ là lực lượng chiến đấu, mà là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

Ngày 22/12, tôi không chỉ nghĩ về quá khứ mà còn nghĩ về tương lai. Lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng một khi nhân dân đoàn kết, quân đội hết lòng vì dân, chúng ta có thể vượt qua mọi kẻ thù. Nhưng điều quan trọng hơn cả là phải giữ được hòa bình, để không một người mẹ nào còn phải mất con, không một người lính nào phải gục xuống giữa tuổi đôi mươi”.

Nhìn về cuộc đời binh nghiệp của mình, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu không coi mình là anh hùng. Với ông, mỗi vết sẹo trên cơ thể là một lời nhắc nhở, mỗi trận đánh là một câu chuyện khắc sâu trong tim. Và hòa bình, dù quý giá đến đâu, cũng luôn mong manh, cần được bảo vệ bằng cả trái tim và trí tuệ của mỗi thế hệ.

Chiến tranh là những ngày đen tối nhất của lịch sử, nhưng nó cũng làm sáng lên ánh sáng của lòng yêu nước. Tôi không kể chuyện để khơi dậy hận thù, mà để thế hệ trẻ hiểu rằng hòa bình là thứ không thể lãng quên, không thể xem thường. Đừng để những hy sinh ấy trở thành vô nghĩa”.

Câu chuyện đã tạm khép lại, nhưng ánh mắt tướng Hiệu vẫn trầm tư. Ông không nói thêm, chỉ nhìn ra ngoài cánh cửa, nơi bầu trời bình yên của mặt nước Hồ Tây êm ả, bình lặng trên phố Trấn Vũ hôm nay trải dài. Trong khoảnh khắc đó, ông lại đang nghĩ đến những đồng đội chưa từng trở về!. Và có lẽ, nếu có điều ước cuối cùng, ông sẽ ước rằng thế hệ mai sau sẽ không bao giờ phải nghe đến tiếng súng, chỉ còn lại tiếng cười của tự do và hạnh phúc trong hòa bình, độc lập

Hòa bình, độc lập vốn dĩ là món quà đắt giá và bi tráng nhất của lịch sử, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, cùng hàng triệu người lính khác, đã trao nó lại cho chúng ta bằng cả cuộc đời mình. Trong dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12 này, khi chúng ta cúi đầu tưởng nhớ những người lính đã ngã xuống, hãy tự hỏi bản thân: Liệu chúng ta đã sống xứng đáng với sự hy sinh ấy chưa? .

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam

“Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam”, kính thưa quý vị trên đây là nhan đề bài viết của Đại úy, Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Toán - Viện Lịch sử quân sự, được đăng tải trên báo Nhân dân điện tử tại trang web nhandan.vn. Trong tháng 12 này là dịp đặc biệt có ý nghĩa kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), thêm một lần nữa chúng ta cũng nhắc nhớ và hồi ức lại những câu chuyện về vị tướng huyền thoại của dân tộc Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tấm lòng trân trọng và biết ơn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - Người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, được nhân dân yêu mến, kính trọng, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ và là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Vị tướng huyền thoại của Việt Nam và thế giới; dù không trải qua trường lớp quân sự nào, nhưng dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh; đồng chí Võ Nguyên Giáp đã cùng Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy xây dựng Quân đội từ “con số không” nhanh chóng phát triển lực lượng, trình độ tổ chức, tác chiến, nâng cao sức mạnh chiến đấu, đánh bại nhiều viên tướng nổi tiếng của các quân đội đế quốc thực dân hùng mạnh trên thế giới, làm thay đổi dòng chảy lịch sử dân tộc và nhân loại.

Tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử dân tộc, vị tướng lừng danh trong lịch sử thế giới, góp phần làm phong phú nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần vào việc hình thành và phát triển học thuyết quân sự - đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Ông cũng là Tổng Tư lệnh đầu tiên và duy nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam, là Đại tướng đầu tiên, cũng là đại tướng đánh bại nhiều đại tướng nhất.

Tiểu sử Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, tại xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho giàu lòng yêu nước. Ông đã dấn thân vào con đường cách mạng từ khi tuổi đời còn rất trẻ dưới sự dìu dắt của các bậc đàn anh và những người thầy ở Trường Quốc học Huế, tham gia các tổ chức yêu nước và cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, trở thành Ủy viên Trung ương dự bị, phụ trách tuyên huấn và giao thông liên lạc của Tổng bộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Võ Nguyên Giáp đã góp phần to lớn thúc đẩy tổ chức Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn - là một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã bị thực dân Pháp kết án 2 năm tù vì tham gia ủng hộ phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh.

Tháng 4/1940 đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Võ Nguyên Giáp, ông và đồng chí Phạm Văn Đồng được đồng chí Hoàng Văn Thụ - Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp giao nhiệm vụ sang miền Nam Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu tháng 6/1940, tại Thúy Hồ - Côn Minh - Vân Nam (Trung Quốc), hai ông được gặp đồng chí Vương (tức lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc). Từ đây, Võ Nguyên Giáp được gần gũi, trở thành người học trò xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Nhận thấy ở Võ Nguyên Giáp có tài năng thiên bẩm về quân sự, cho nên sau thời gian thử thách, rèn luyện, tháng 12/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giao cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kể từ đây, Võ Nguyên Giáp giữ vai trò người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đội quân từ 34 chiến sĩ trở thành một đội quân cách mạng ngày càng lớn mạnh, từng bước đánh bại những quân đội nhà nghề, sừng sỏ, được trang bị những vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại thời bấy giờ, giành và giữ nền độc lập, tự do cho dân tộc, vẹn toàn lãnh thổ cho Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trên cương vị Bí thư Trung ương Quân ủy, Tổng Chính ủy, Bí thư Tổng Quân ủy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước lớn mạnh, trưởng thành, phát huy vai trò của quân đội cách mạng, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, từng bước đánh bại các kế hoạch quân sự của địch. Đại tướng đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng, đánh dấu sự phát triển của cuộc kháng chiến như Biên Giới, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,... Đặc biệt trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với tư duy quân sự sắc bén, với nhãn quan chiến lược sâu sắc, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đưa Đại tướng vào hàng danh tướng của thế giới.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Phó Thủ tướng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng chỉ đạo quân, dân trên cả hai miền Nam, Bắc lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh những cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ, ngụy, lập nên những chiến công vang dội, như thắng lợi trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và mùa khô 1966 - 1967, Chiến dịch đường 9 - Nam Lào năm 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, làm nên “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội vào tháng 12/1972. Đặc biệt đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã lập nên mốc son chói lọi, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, giành lại trọn vẹn độc lập cho dân tộc, thống nhất cho non sông.

Đất nước hòa bình, thống nhất, Đại tướng đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Năm 1991, Đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80.

Với những công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam suy tôn ông là người “Anh Cả” của quân đội. Bộ đội do ông lãnh đạo, chỉ huy được nhân dân yêu mến gọi là “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là niềm tự hào, là sự kiêu hãnh mà không phải quân đội nào trên thế giới cũng có được.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp với những chiến công hiển hách:

Đổi mục tiêu đánh Cao Bằng sang Đông Khê trong chiến dịch biên giới năm 1950.

Trong Chiến dịch Biên Giới 1950, trên cương vị là Bí thư Đảng ủy Mặt trận Biên Giới, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những đóng góp quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch, tạo bước ngoặt căn bản trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Theo kế hoạch tác chiến ban đầu vạch ra, quân ta sẽ bắt đầu chiến dịch bằng tập trung ưu thế binh lực, tiến công tiêu diệt địch trong thị xã Cao Bằng. Sau khi giải quyết xong Cao Bằng, sẽ chuyển xuống tiêu diệt địch ở Đông Khê, rồi tùy tình hình để định hướng phát triển tiếp theo của chiến dịch.

Nhưng trước khi lên đường đi chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để báo cáo tình hình và được Người căn dặn: Chiến dịch này quan trọng, chỉ được thắng, không được thua. Lời căn dặn đó, khiến đồng chí Tổng Tư lệnh trăn trở, suy nghĩ nhiều về tầm quan trọng của chiến dịch. Vậy, mục tiêu đặt ra cho chiến dịch có vượt quá sức của bộ đội hay không? Lấy thị xã Cao Bằng là điểm đột phá mở đầu chiến dịch có đúng không? Liệu ta có thể huy động đủ lương thực cho lực lượng lớn bộ đội, dân công trong chiến dịch dài ngày không?

Từ những trăn trở đó, đầu tháng 8 năm 1950, Bộ Chỉ huy Chiến dịch tổ chức trinh sát thực địa Cao Bằng. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, để thực hiện quyết tâm bảo đảm đánh chắc thắng trận đầu, trận đánh then chốt mở màn cho chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của Quân đội ta. Tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận ngày 16 tháng 8 năm 1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Chiến dịch kết luận: Đánh Cao Bằng trước, “ta chưa có thể nói chắc chắn bảo đảm thắng lợi”. Do vậy, đồng chí đưa ra phương án tác chiến mới, đó là đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch.

Bởi, nếu đánh Cao Bằng trước, ta sẽ gặp một số khó khăn như vấn đề tổ chức vượt sông, vấn đề đối phó với quân nhảy dù tăng viện lúc chiến đấu... Nếu đánh Cao Bằng không thắng lợi sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của bộ đội. Ngược lại, tiến công Đông Khê phù hợp với nguyên tắc bảo đảm chắc thắng trận đầu trong tác chiến chiến dịch, phù hợp với cách đánh của ta (đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính), thuận tiện cho ta triển khai binh, hoả lực, phù hợp với khả năng chiến đấu của bộ đội, có khả năng bảo đảm chắc thắng và có cơ hội đánh viện binh địch.

Hơn nữa, lực lượng địch ở Đông Khê yếu hơn so với các mục tiêu khác - là nơi địch tương đối sơ hở nhưng lại là nơi hiểm yếu, nếu Đông Khê bị đột phá, toàn bộ thế trận của địch sẽ bị chia cắt và uy hiếp. Do vị trí quân sự quan trọng của Đông Khê, là mắt xích quan trọng nối với thị xã Cao Bằng với thị trấn Thất Khê. Nếu mất Đông Khê, tuyến phòng thủ đường số 4 sẽ bị chia cắt, thị xã Cao Bằng trở nên cô lập, buộc địch phải đưa quân đến ứng cứu Đông Khê, hoặc rút quân từ Cao Bằng về hỗ trợ.

Phương án này, ngay sau đó, được báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh và được nhất trí thông qua.

Diễn biến của chiến dịch đúng như Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp dự đoán. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 16 tháng 9 năm 1950, quân ta nổ súng tiến công Đông Khê, đến sáng 18 tháng 9, quân địch rút chạy, ta làm chủ trận địa. Địch buộc phải điều lực lượng ứng cứu: Binh đoàn Lepager nhận lệnh tiến theo đường số 4 lên đón binh đoàn của Charton từ Cao Bằng rút về cùng hợp điểm tại Đông Khê. Sau đó, ta đã khéo léo “dụ” được hai binh đoàn thiện chiến nhất của quân Pháp rời bỏ những nơi đồn trú kiên cố, cô lập chúng không cho hợp điểm và buộc chúng cuối cùng phải sa vào thế trận “thiên la, địa võng” do ta bày sẵn ở Cốc Xá - Ðiểm cao 477 để tiêu diệt. Thắng lợi đó thể hiện tài năng thao lược thiên bẩm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh sang “Đánh chắc, tiến chắc” trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.

Sau khi Điện Biên Phủ được chọn làm điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và thực dân Pháp, ngày 14 tháng 01 năm 1954, tại Sở Chỉ huy chiến dịch ở Thẩm Púa, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch mở Hội nghị Cán bộ phổ biến Kế hoạch tác chiến chiến dịch theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” đã xác định và giao nhiệm vụ cho các đơn vị tiến hành công tác chuẩn bị đánh theo Quyết nghị của hội nghị. Nhưng với nhãn quan quân sự nhạy cảm, sắc bén, Đại tướng nhanh chóng phát hiện những điểm yếu của phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Bởi, “tình hình địch đã thay đổi nhiều. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc chưa từng có”, quan trọng hơn, những khó khăn đó chưa tìm được cách khắc phục. Mặc dù, “pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong”, nhưng với tinh thần kỷ luật cùng thái độ trách nhiệm trước Đảng, quân và dân, Đại tướng quyết định “Phải cho các đơn vị rút khỏi trận địa để nghiên cứu một cách đánh khác dù bộ đội có thắc mắc. Phải chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thời gian chuẩn bị sẽ kéo dài.

undefined

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch họp bàn kế hoạch tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Từ kinh nghiệm thực tiễn chiến trường những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và thiên bẩm quân sự, Đại tướng đã trình bày quan điểm về phương án tác chiến tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm, phân tích những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau Hội nghị Thẩm Púa, cùng những khó khăn chưa thể khắc phục của ta. Từ đó, Đại tướng khẳng định: Phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” không thể đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”. Đại tướng quả quyết ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đối cách đánh và phương châm tác chiến. Sau thời gian thảo luận nghiêm túc, thay mặt Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Mặt trận, Đại tướng kết luận: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới”.

Quyết định hoãn cuộc tiến công, thay đổi phương châm tác chiến là một quyết định quyết đoán, dũng cảm, thể hiện tầm cao trí tuệ, bản lĩnh chính trị của Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận trước Đảng, nhân dân và Quân đội. Quyết định đó kịp thời tránh được nguy cơ tổn thất cho quân và dân ta mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”.

Thực tiễn diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh quyết định của Đại tướng vào thời điểm lịch sử đó là hoàn toàn đúng đắn. Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ức có kể lại đó là “một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình

Ra mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa…’ trong trận đại thắng mùa xuân 1975

Với “hai đòn chiến lược gối đầu nhau” là Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi, ta đã loại khỏi vòng chiến một nửa lực lượng địch, giải phóng một vùng rộng lớn suốt từ Quảng Trị đến Khánh Hòa, tạo đột biến về cục diện
chiến tranh, khiến địch hoang mang, hoảng loạn, tìm cách co cụm để giữ Sài Gòn...

Nắm bắt thời cơ chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp mở rộng bàn về đòn chiến lược thứ ba tiến công Sài Gòn, đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến giải phóng Sài Gòn - Gia Định theo hướng bao vây chiến lược ở phía đông và phía tây Sài Gòn, sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch.

Ngày 1/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trên cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương điện cho Trung ương Cục miền Nam, xác định thời gian tiến công Sài Gòn, trong đó nêu rõ: “Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều. Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ... Thời gian hiện nay phải tính từng ngày. Phải thần tốc, thần tốc, toàn thắng, nhất định toàn thắng”.

Được sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Chính trị, quán triệt tinh thần tiến quân “thần tốc”, trên hướng Đường số 1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chính trị ký quyết định thành lập cánh quân Duyên hải (còn gọi là cánh quân phía Đông, 5/4/1975) và trực tiếp giao nhiệm vụ phải chọc thủng các phòng tuyến của địch từ Nha Trang trở vào Sài Gòn. Tổng Tư lệnh đặt ra yêu cầu đối với cánh quân phía Đông là phải tìm mọi phương án nâng cao tốc độ hành quân để kịp thời gian tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn; quá trình hành quân phải là quá trình bổ sung, sáp nhập và hiệp đồng chiến đấu liên tục, “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.

Đôn đốc, thúc giục các binh đoàn, lực lượng trên toàn mặt trận, ngày 7/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã tự tay thảo bức Điện số 157/ĐK, ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”

Cùng với việc chỉ đạo các cánh quân “thần tốc” giải phóng lãnh thổ trên đất liền, ngày 2/4, Đại tướng trực tiếp chỉ thị cho đồng chí Lê Trọng Tấn: Ngoài nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh cho Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân, tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Ngày 4/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký bức bức “mật điện” số 990B/TK “chỉ cán bộ có trách nhiệm biết”, sau đó tốc chuyển đến đồng chí Võ Chí Công - Chính ủy Quân khu 5 và đồng chí Chu Huy Mân - Tư Lệnh Quân khu 5: giao nhiệm vụ cho Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Khu V, Bộ Tư lệnh Hải quân khẩn trương nghiên cứu kế hoạch tác chiến và tiến hành mọi công tác chuẩn bị để khi có thời cơ kịp thời giải phóng Quần đảo Trường Sa, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng.

Mệnh lệnh được thi hành ngay tức khắc. Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân triển khai kế hoạch tác chiến. Sau khi Quân khu 5 báo cáo kế hoạch đánh chiếm các đảo, ngày 13/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện cho đồng chí Chu Huy Mân nêu ý kiến về thời cơ đánh chiếm các đảo. Ngày hôm sau, nhận được tin quân địch chuẩn bị rút khỏi Trường Sa, Đại tướng chỉ thị cho Quân khu 5: Thời cơ đánh chiếm các đảo lúc này rất thuận lợi. Các anh ra lệnh đánh chiếm ngay. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ và thường xuyên báo cáo về Bộ.

Ngày 28/4, quân ta hoàn thành giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa. Đến ngày 30/4 lá cờ giải phóng tung bay trước Dinh Độc lập báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, một thời khắc thiêng liêng của triệu triệu người Việt Nam khi đất nước được giải phóng, non sông thu về một mối.

Như vậy, suốt ba mươi năm chỉ đạo, điều hành cuộc chiến tranh cách mạng (1945-1975), trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Hình ảnh và những cống hiến đặc biệt xuất sắc của Đại tướng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc luôn sống mãi với non sông, đất nước, trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, đúng như khẳng định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta suy tôn đồng chí là Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của đồng chí in đậm trong lòng nhân dân, là vị tướng của nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc.

Những đánh giá về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các vị tướng ấy (tức tướng Pháp ở Đông Dương) cầm quân đánh trận ở Việt Nam đều thua ông Giáp thì ông Giáp phải trên họ một bậc”

Tổng bí thư Lê Khả Phiêu: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng văn, võ song toàn. Vừa võ vừa văn, cả hai lĩnh vực ấy quyện vào, hỗ trợ cho nhau, đều hay, đều giỏi: quân sự - chính trị - kinh tế - văn hóa; văn hóa – chính trị - kinh tế - quân sự”

Tướng De Castrier: “Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp chúng tôi là một đội quân nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Sự kiện tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông [...] tôi thừa nhận tướng Giáp rất sành sỏi binh nghiệp và khôn ngoan hơn tôi đã đành, mà còn hơn cả tướng Cônhi và Đại tướng Navarre. Tôi hân hạnh làm đối thủ của tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như tướng Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông.”

60 năm những người hùng châu Á, bình chọn của tạp chí Time, 2006: “Ngày nay, vẫn chỉnh tề trong bộ quân phục, tướng Giáp khiêm tốn từ chối nhận định rằng những chiến thắng quân sự đã khiến ông trở thành một người anh hùng. Ông khẳng định, chúng tôi đơn giản là bằng chứng rằng “nhân dân Việt Nam, với tinh thần yêu nước, có thể làm nên những điều phi thường”. Đúng vậy. Nhưng tướng Giáp đã chỉ cho họ con đường ấy

Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc Phòng Mỹ 1993: “Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao… Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử”

Bách Khoa toàn thư Pháp: “Là người tổ chức Quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết mácxít, kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh”

Những phát ngôn kinh điển của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:

Cuộc gặp đầu tiên của Đại tướng với cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mcnamara tháng 11/1995: “Từ lo sợ không có trong tư duy của chúng tôi. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Chúng tôi quyết đánh Mỹ và chúng tôi luôn tin tưởng là sẽ chiến thắng.”

Cuộc gặp lần thứ 2 - cũng là lần cuối cùng của cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mcnamara tháng 6/1997: “Vị tướng dù có công lao đến đâu cũng là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam mới là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ mình bình đẳng với những người lính của mình”

Chiến lược của tôi là chiến lược hòa bình, nhưng hòa bình trong độc lập, tự do” - Trả lời câu hỏi của cố vấn an ninh của Tổng thống Algieria

“Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” - Đại tướng nói khi được chúc mừng nhân dịp bước sang tuổi 100.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Tuyệt đối không bỏ trống, làm gián đoạn hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Tuyệt đối không bỏ trống, làm gián đoạn hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường

“Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Tuyệt đối không bỏ trống, làm gián đoạn hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết của nhóm phóng viên được đăng tải trên báo Công Thương điện tử tại trang web congthuong.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo, Quản lý thị trường cần nêu cao tinh thần, tuyệt đối không bỏ trống, làm gián đoạn hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường.

Bộ trưởng ghi nhận 5 kết quả nổi bật của lực lượng Quản lý thị trường

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025 của lực lượng Quản lý thị trường, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, đây không chỉ là tổng kết năm mà còn là hội nghị lịch sử, triển khai Nghị quyết 18 thực hiện chủ trương tinh gọn, sắp xếp lại bộ máy hoạt động của các bộ, ngành, đơn vị, trong đó có lực lượng Quản lý thị trường.

Hội nghị cũng nhằm tổng kết, đánh giá và nhìn lại hiệu quả của mô hình hoạt động Tổng cục Quản lý thị trường theo ngành dọc sau hơn 6 năm hoạt động kể từ tháng 10/2018. Tổng kết không phải là kết thúc mà mở ra chương mới hoạt động, dù ở đâu, Quản lý thị trường cũng phải phát huy hiệu lực, hiệu quả, xứng đáng là lực lượng tiên phong trong công tác phòng, chống hàng giả, bảo vệ người tiêu dùng.

Trong năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia và sự chỉ đạo, điều hành sát sao của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ, lực lượng Quản lý thị trường đã có nhiều nỗ lực, sáng tạo trong triển khai thực hiện nhiệm vụ và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên biểu dương, đánh giá cao công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường của toàn lực lượng.

Thứ nhất, toàn lực lượng đã tích cực, chủ động tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong hoạt động công vụ của lực lượng (như các đề án, công điện, chỉ thị và văn bản chỉ đạo về: Tăng cường kiểm tra, giám sát thị trường, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 và Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025; kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong kinh doanh xăng dầu và kinh doanh mặt hàng vàng; đấu tranh phòng chống hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ trên môi trường thương mại điện tử; thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử trong kinh doanh, bán lẻ xăng dầu; tăng cường kiểm tra, giám sát thị trường sau cơn bão Yagi…, góp phần lành mạnh hóa thị trường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước.

Thứ hai, lực lượng đã triển khai khá tốt nhiều đợt cao điểm kiểm tra, kiểm soát thị trường, thanh tra chuyên ngành đấu tranh với các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Nhiều vụ việc vi phạm lớn đã bị phát hiện và xử lý (thể hiện rõ qua số vụ thanh tra, kiểm tra, phát hiện xử lý, số tiền xử phạt và số vụ chuyển cơ quan điều tra đều tăng đáng kể so với năm trước). “Kết quả này chứng tỏ vai trò của lực lượng Quản lý thị trường ngày càng được khẳng định, phát huy”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên biểu dương.

Cũng theo Bộ trưởng, một số lĩnh vực nổi cộm, có diễn biến phức tạp trong thời gian qua đã được quan tâm chỉ đạo, như: Lĩnh vực thương mại điện tử, số vụ xử lý tăng 2,4 lần và số tiền xử phạt tăng gần 3 lần so với cùng kỳ năm 2023; lĩnh vực kinh doanh mặt hàng vàng, lực lượng Quản lý thị trường đã đồng loạt ra quân kiểm tra, xử lý trên 550 vụ vi phạm, xử phạt hành chính trên 15 tỷ đồng, góp phần thực hiện hiệu quả chỉ đạo của Chính phủ trong việc quản lý thị trường vàng.

Thứ ba, công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác Quản lý thị trường và sự phối hợp với các lực lượng chức năng trên địa bàn (như Sở Công Thương, Công an, Quân sự, Biên phòng, Hải quan, Thuế…) trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả… có sự chuyển biến tích cực. Nhiều vấn đề, vụ việc phức tạp đã được xử lý khá tốt, từ đó củng cố được niềm tin của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương đối với lực lượng Quản lý thị trường (như: Vụ triệt phá kho hàng thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, đồ gia dụng kinh doanh qua mạng xã hội với trị giá hàng hóa trên 20 tỷ đồng tại Hà Nội và vụ phát hiện đối tượng kinh doanh vàng trang sức không rõ nguồn gốc, xuất xứ, trị giá hàng hóa trên 7,3 tỷ đồng tại TP. Hồ Chí Minh...).

Những kết quả này là minh chứng điển hình cho sự nỗ lực của toàn lực lượng trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, kiến tạo thị trường lành mạnh, đảm bảo quyền lợi cho cộng đồng doanh nghiệp, người tiêu dùng.

undefined
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên ghi nhận, lực lượng Quản lý thị trường đã có nhiều nỗ lực, sáng tạo trong triển khai thực hiện nhiệm vụ và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận

Thứ tư, kỷ cương hành chính, nề nếp công tác (từ Tổng cục đến các đơn vị trực thuộc) đã được chấn chỉnh và có chuyển biến khá tích cực. Công tác cán bộ trong toàn lực lượng được kiện toàn đồng bộ, tạo được sự đồng thuận trong tổ chức thực hiện; đặc biệt Tổng cục đã thực hiện khá tốt chủ trương bổ nhiệm nhiều cấp trưởng không phải là người địa phương và đã triển khai nghiêm túc quy định về luân chuyển, điều động công chức các cấp.

Thứ năm, công tác thông tin truyền thông, đối ngoại, hợp tác quốc tế của Tổng cục và các đơn vị trực thuộc được chú trọng và có nhiều chuyển biến rõ nét, giúp nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức thực thi và góp phần tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh.

“Thay mặt Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ, tôi ghi nhận, biểu dương và nhiệt liệt chúc mừng những kết quả mà Tổng cục và toàn lực lượng Quản lý thị trường đã đạt được trong 6 năm qua, đặc biệt là trong năm 2024” - Bộ trưởng ghi nhận và đánh giá cao một lần nữa.

Những hạn chế cần khắc phục, chấn chỉnh

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động Quản lý thị trường vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Nổi lên trong đó là hiệu quả công tác Quản lý thị trường, đấu tranh phòng chống các vi phạm, gian lận thương mại (nhất là trong thương mại điện tử) vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra; tình trạng hàng giả, hàng lậu, không rõ nguồn gốc, xuất xứ vẫn bày bán công khai ở nhiều nơi, thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, có hệ thống. Các vi phạm về hàng hóa trong thương mại điện tử có xu hướng gia tăng. Số vụ phát hiện và xử lý tuy có tăng so với năm trước nhưng so với thực tế vi phạm thì còn rất nhỏ, chưa phản ánh đúng thực tế tình trạng vi phạm đang diễn ra trên thị trường.

Thứ hai, kiểm tra, kiểm soát địa bàn của các tổ, đội, cơ sở chưa thực sự sâu sát; công tác thanh tra, kiểm tra tại một số đơn vị mới chỉ tập trung chủ yếu vào những hành vi vi phạm đơn giản (như ở khâu giấy phép kinh doanh và niêm yết giá); áp dụng chế tài xử phạt không đủ sức răn đe.

Thứ ba, công tác quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức công vụ cho cán bộ công chức ở nhiều đơn vị chưa tốt; sức ì trong đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là ở cấp cơ sở) còn lớn; công chức vi phạm quy định của ngành (thậm chí vi phạm quy định pháp luật) vẫn tiếp tục xảy ra; việc xử lý sai phạm ở một số nơi chưa nghiêm túc. Tình trạng nhũng nhiễu (thậm chí có dấu hiệu bảo kê) của một số cán bộ trong lực lượng khi thi hành công vụ.

Chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, Bộ trưởng cho rằng có cả khách quan và chủ quan; trong đó các nguyên nhân chủ quan chủ yếu đến từ việc nghiên cứu, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, quy định của Nhà nước và của ngành ở nhiều đơn vị chưa tốt; công tác quản lý, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng (cả về lý luận, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, nghiệp vụ) cho cán bộ trong lực lượng chưa đạt yêu cầu đề ra.

Chưa kể, công tác kiểm tra, giám sát của cấp trên với cấp dưới và việc đấu tranh với tinh thần xây dựng giữa các bộ phận cùng cấp chưa thường xuyên, kém hiệu quả; việc xử lý vi phạm của tổ chức, cá nhân chưa thật nghiêm túc nên không đủ sức răn đe.

Thêm vào đó, vai trò của các cấp uỷ, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo ở nhiều đơn vị chưa được phát huy; tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu một số đơn vị chưa rõ nét; kỷ cương, nề nếp trong nhiều đơn vị cơ sở không nghiêm.

Ngoài ra, việc phối hợp với các ngành, các cấp, các lực lượng (nhất là ở cấp địa phương) trong triển khai thực hiện nhiệm vụ có lúc, có việc còn chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp, chưa tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương. Không những vậy, năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm của một bộ phận công chức Quản lý thị trường (kể cả đội ngũ lãnh đạo, quản lý) ở một số đơn vị còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.

Tuyệt đối không để gián đoạn hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường

Năm 2025, tình hình kinh tế - xã hội nói chung và ngành Công Thương nói riêng được dự báo tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức. Khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi. Nền kinh tế mở cùng với tốc độ gia tăng cao của thương mại điện tử (nhất là thương mại điện tử xuyên biên giới) sẽ ngày càng đặt ra nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp hơn cho công tác Quản lý thị trường. Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng bùng phát và ngày càng tinh vi hơn. Bên cạnh đó, kinh tế nước ta đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với việc tham gia nhiều các Hiệp định thương mại sẽ mang lại nhiều thời cơ, thuận lợi cho hoạt động ngoại thương nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề về quản lý hàng hóa nhập khẩu, nhất là hàng tạm nhập, tái xuất.

Từ bối cảnh trên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, mục tiêu chung của công tác Quản lý thị trường năm tới là tập trung đấu tranh, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, phấn đấu tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất trong nước.

Để thực hiện tốt mục tiêu trên và kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém thời gian qua, Bộ trưởng đề nghị toàn lực lượng tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, thực hiện thắng lợi, toàn diện các nhiệm vụ năm 2025 được giao, thông qua các nhiệm vụ:

Một là, tiếp tục quán triệt thật sâu sắc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia và của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ (qua các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Công điện…), cùng với khuyến nghị của các Bộ, ngành liên quan và chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các địa phương để thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Quản lý thị trường, tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, qua thực tiễn quản lý, thực thi công vụ, lực lượng Quản lý thị trường cần tiếp tục chủ động, tích cực tham mưu cho Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương ban hành mới (hoặc sửa đổi, bổ sung) các quy định, cơ chế chính sách bảo đảm đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của toàn lực lượng.

Hai là, tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thị trường (đặc biệt là trong các dịp Tết, Lễ) nhằm kịp thời phát hiện và xử lý thật nghiêm các sai phạm, nhất là những sai phạm có tính phổ biến trong sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Chú trọng kiểm tra, xử lý các sai phạm trong các ngành hàng thiết yếu như: xăng dầu, phân bón; các loại thực phẩm, đồ uống, thuốc lá (nhất là thuốc lá thế hệ mới); thực phẩm chức năng, thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm, hàng thời trang, hàng điện tử...

Trong bối cảnh mới, cả nước đang tích cực và khẩn trương thực hiện Nghị quyết 18, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đặc biệt nhắc lại tinh thần, không có khoảng trống, không bị đứt đoạn trong công tác triển khai, thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thị trường của lực lượng Quản lý thị trường.

Đồng thời, tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn với các lực lượng trong đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại trong thương mại điện tử, đặc biệt là thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết của UBTV Quốc hội về giám sát chuyên đề Thương mại điện tử và các chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương trong lĩnh vực thương mại điện tử (như Đề án chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025; Chỉ thị số 18 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệ; tăng cường công tác hậu kiểm trong quản lý hoạt động thương mại điện tử).
Ba là, tập trung chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong chỉ đạo điều hành và ý thức chấp hành pháp luật của công chức trong toàn lực lượng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ; kiên quyết xử lý nghiêm, kịp thời, đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân sai phạm, nhất là đối với hành vi bảo kê, tham nhũng, tiêu cực trong thực thi công vụ.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức, sự đồng thuận trong hành động và sự chia sẻ, ủng hộ của xã hội đối với các hoạt động của ngành; đồng thời, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong mọi hoạt động, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn trên các mặt công tác trong toàn lực lượng.

Năm là, về sắp xếp tổ chức bộ máy của lực lượng Quản lý thị trường thời gian tới.

Liên quan đến nhiệm vụ này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và yêu cầu, định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo Chính phủ về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo kết thúc mô hình tổ chức của Tổng cục Quản lý thị trường và chuyển các Cục Quản lý thị trường ở địa phương về UBND các tỉnh, thành phố quản lý, kiến nghị mô hình Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở.

"Đây là là việc khó, phức tạp, nhạy cảm nhưng không thể không làm và không thể làm chậm trễ hơn. Do đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, tôi đề nghị cấp uỷ, Lãnh đạo Tổng cục Quản lý thị trường và các Cục Quản lý thị trường địa phương cần quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc chủ trương của Bộ Chính trị và yêu cầu, định hướng của Ban Chỉ đạo Chính phủ và của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Công Thương về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị cần phát huy cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, quyết liệt trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này" - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên thông tin và chỉ đạo, toàn lực lượng cần làm thật tốt công tác chính trị tư tưởng, công tác cán bộ (nhất là việc bố trí, sắp xếp và thực hiện chính sách cán bộ), tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động trong toàn lực lượng và từng cơ quan, đơn vị.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng đề nghị, toàn lực lượng xác định việc sắp xếp tổ chức bộ máy là việc cần làm và phải làm ngay nhưng phải làm khách quan, dân chủ, khoa học, bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả (chứ không phải là sự sắp xếp cơ học) nhằm giảm thiểu sự chồng chéo, không rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ giữa các đơn vị (tổ, đội).

"Tuyệt đối không để phát sinh tư tưởng, mất đoàn kết nội bộ; không để xảy ra tình trạng so bì, bê trễ, lơ là trong thực thi công vụ, nhất là trong bối cảnh năm mới và Tết nguyên đán Ất Tỵ 2025 đang đến gần, thị trường hàng hoá sẽ rất sôi động, dễ phát sinh những sai phạm trong sản xuất, kinh doanh nếu công tác kiểm tra, giám sát thị trường bị buông lỏng" - Bộ trưởng chỉ đạo và đặc biệt nhấn mạnh thêm một lần nữa về nhiệm vụ không để gián đoạn, không tạo khoảng trống trong công tác quản lý thị trường.

Đặc biệt, Bộ trưởng yêu cầu, cần tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả các tháng cuối năm 2024; dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025 đã được ban hành, bảo đảm ổn định thị trường, phục vụ tốt nhu cầu nhân dân vui Xuân đón Tết.

Trong quá trình tổ chức thực hiện việc sắp xếp, tổ chức bộ máy bên trong, Tổng cục và các Cục Quản lý thị trường địa phương phải bám sát yêu cầu, định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Ban Chỉ đạo Chính phủ và Ban Chỉ đạo của Bộ để bảo đảm chất lượng, tiến độ triển khai và chỉ tiêu sắp xếp tối thiểu được giao; đồng thời, cần lưu ý các vấn đề liên quan đến xử lý tài chính, ngân sách, tài sản công và chuyển tiếp quản lý dự án đầu tư công trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy. Bên cạnh đó, cần chủ động rà soát, tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung các quy định, cơ chế chính sách phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới để bảo đảm mô hình bộ máy mới phải tốt hơn mô hình cũ và phải đi vào hoạt động ngay, không để ngắt quãng công việc, không để khoảng trống về thời gian, bỏ trống địa bàn phụ trách.

Về phía Bộ Công Thương, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Công Thương sẽ chủ động kiến nghị với cấp có thẩm quyền, cũng như trao đổi, làm việc với các Bộ, ngành liên quan và cấp uỷ, chính quyền địa phương để có chính sách cán bộ hợp lý, tạo thuận lợi cho cán bộ công chức trong lực lượng Quản lý thị trường khi thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo mô hình mới.

Tiếp thu những ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Tổng Cục trưởng Trần Hữu Linh cho biết, toàn lực lượng sẽ nghiêm túc triển khai các ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng và dù ở đơn vị nào lực lượng Quản lý thị trường cũng thể hiện bản lĩnh của người lính trung kiên, phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ, trở thành lực lượng chủ công, nòng cốt trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường.

“Các đồng chí phải quyết liệt thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ Công Thương. Tổng cục Quản lý thị trường vẫn phải cùng Cục Quản lý thị trường các địa phương quán triệt thực hiện nhiệm vụ cho đến khi có quy định mới" - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo.

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Cách mạng tinh gọn bộ máy: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng

Cách mạng tinh gọn bộ máy: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng

“Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết được đăng tải trên báo Nhân dân điện tử tại trang web nhandan.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đồng thời, cũng đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Việc đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng không chỉ là đòi hỏi tất yếu mà còn là mục tiêu trọng tâm, mang tính quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển toàn diện kinh tế-xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong bài viết “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Việc tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền và khẳng định sức chiến đấu của Đảng, không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng mà còn là sứ mệnh cao cả để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, phồn vinh, hạnh phúc.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Ảnh: Đăng Khoa

Khẳng định sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền giúp Đảng thực hiện tốt vai trò định hướng chiến lược và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền không chỉ thể hiện ở việc xây dựng các chủ trương, đường lối đúng đắn mà còn ở khả năng tổ chức thực hiện hiệu quả, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, nhân dân và mọi chủ thể trong xã hội. Điều này đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo, tránh bảo thủ, trì trệ và sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc những mô hình quản trị hiện đại phù hợp thực tiễn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra yêu cầu “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.

Tiếp đó, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục bổ sung nhiều điểm mới và quan trọng, trong đó có thuật ngữ “năng lực cầm quyền” vào mục tiêu tổng quát “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”; từ đó, nêu lên quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”.

Sức chiến đấu của Đảng là yếu tố cốt lõi để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền trước các thách thức nội tại và ngoại lực. Đảng không chỉ phải đối mặt với nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ mà còn phải đứng vững trước sự chống phá từ các thế lực thù địch. Sức chiến đấu mạnh mẽ được thể hiện ở sự đoàn kết nội bộ, tính kỷ luật cao và khả năng hành động đồng bộ của từng tổ chức đảng. Mỗi đảng viên, cán bộ cần không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân.

Để hiện thực hóa tinh thần “Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả” - kim chỉ nam cho việc cải cách và đổi mới năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức của Đảng và Nhà nước, chúng ta cần làm rõ nội dung trọng tâm và áp dụng các phương pháp cụ thể trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện. Đây không chỉ là một yêu cầu về cải cách bộ máy, mà còn là nguyên tắc cốt lõi nhằm tối ưu hóa tổ chức bộ máy, bảo đảm sự gọn nhẹ nhưng vẫn giữ được sức mạnh toàn diện, từ đó nâng cao hiệu quả trong mọi hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước để bước vào kỷ nguyên mới.

Tinh thần “Tinh-Gọn” đề cao việc tổ chức bộ máy một cách khoa học, hợp lý, loại bỏ những đầu mối, tầng nấc trung gian không cần thiết, giảm thiểu tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Một tổ chức tinh gọn giúp cải thiện khả năng ra quyết định, giảm bớt thủ tục hành chính, đồng thời tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đối với hệ thống chính trị, tinh gọn không chỉ là sắp xếp lại cơ cấu mà còn là cải cách mạnh mẽ về tư duy và phương pháp làm việc. Bộ máy tinh gọn tạo điều kiện để các cấp lãnh đạo tập trung vào nhiệm vụ chiến lược, thúc đẩy sự sáng tạo, hiệu quả trong chỉ đạo và thực thi.

Tinh thần “Mạnh” chú trọng sức mạnh nội tại của bộ máy tổ chức, được xây dựng từ chất lượng của đội ngũ cán bộ và sự thống nhất trong hành động. Một tổ chức mạnh mẽ phải có đội ngũ nhân sự tinh hoa, được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Sự mạnh mẽ còn thể hiện ở khả năng thích ứng nhanh trước các thay đổi, giải quyết hiệu quả các thách thức và tận dụng tốt các cơ hội phát triển. Đây là yếu tố quan trọng để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự ổn định và phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Tinh thần “Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả” hướng đến mục tiêu cao nhất là mang lại giá trị thực tiễn rõ rệt, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế-xã hội và cải thiện toàn diện chất lượng đời sống nhân dân. Hiệu năng thể hiện ở khả năng vận hành trơn tru, nhịp nhàng của hệ thống, tối ưu hóa các nguồn lực để đạt kết quả tốt nhất; hiệu lực là khả năng thực thi các quyết định một cách khoa học, nhanh chóng, đúng mục tiêu; còn hiệu quả chính là thước đo kết quả thực tế đạt được. Để hiện thực hóa các giá trị này, cần áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, đổi mới công tác giám sát và kiểm tra, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo và không ngừng cải tiến quy trình hoạt động của tổ chức.

Những đòi hỏi, thách thức từ thực tiễn

Trải qua hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền đối với hệ thống chính trị mà còn đóng vai trò trung tâm trong việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, cùng với những khó khăn, thách thức nội tại đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Thứ nhất, về tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay

Trong những năm qua, tổ chức bộ máy của Đảng đã có những cải cách mạnh mẽ hướng tới tinh gọn, hiệu quả, khoa học hơn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước phù hợp tình hình thực tiễn. Các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương được sắp xếp lại theo hướng giảm bớt tầng nấc trung gian, loại bỏ các khâu chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, kịp thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy. Tuy nhiên, một số cơ quan còn cồng kềnh, hoạt động chồng chéo, làm giảm hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Tại một số địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan Đảng và chính quyền chưa thật sự chặt chẽ, dẫn đến tình trạng xử lý công việc chậm trễ, không đồng bộ, vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa nắm bắt được yêu cầu đổi mới và hội nhập, thậm chí còn có trường hợp vi phạm đạo đức, pháp luật, làm giảm uy tín của Đảng.

Thứ hai, về hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay

Hiệu quả lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nét qua những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã và đang duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực lan tỏa trong xã hội. Hàng loạt vụ án lớn đã được xử lý nghiêm minh, nhiều cán bộ cấp cao bị kỷ luật, truy tố, cho thấy quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần sớm được khắc phục để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng: Một số chủ trương, nghị quyết quan trọng của Đảng triển khai xuống cơ sở còn chậm, thiếu sự đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong khâu tổ chức thực hiện. Việc xây dựng chính sách ở một số lĩnh vực chưa thật sự bám sát thực tiễn, gây ra tình trạng lãng phí nguồn lực hoặc không đạt được kết quả như kỳ vọng.

Thứ ba, về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền, là lực lượng duy nhất tiếp nối vai trò và sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc dự báo và ứng phó với các tình huống phức tạp, đặc biệt là những vấn đề về an ninh phi truyền thống, còn gặp nhiều khó khăn; một số nơi vẫn còn tồn tại tình trạng xa rời quần chúng, thiếu lắng nghe ý kiến từ nhân dân, dẫn đến sự giảm sút niềm tin ở một bộ phận người dân.

Ngoài ra, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đang trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Việc rèn luyện đạo đức, tư tưởng và năng lực chuyên môn cho cán bộ cần được quan tâm hơn nữa, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang tích lũy đủ thế và lực khẩn trương bước vào kỷ nguyên mới.

Giải pháp đồng bộ, quyết liệt, đổi mới phương thức lãnh đạo

Theo tinh thần “Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả”, Đảng Cộng sản Việt Nam cần triển khai các giải pháp đồng bộ, quyết liệt để tiếp tục khẳng định năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn diện, bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Một là, cải cách tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”.

Xuất phát từ tinh thần đó, quá trình cải cách bắt đầu từ thực hiện rà soát, tổ chức lại các đơn vị có chức năng, nhiệm vụ trùng lặp nhằm loại bỏ các tầng nấc trung gian, từ đó tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường hiệu quả thực thi chính sách. Quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan, tránh tình trạng lạm quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong quản lý và điều hành là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu suất làm việc, gia tăng tính minh bạch và hạn chế các tiêu cực trong quá trình thực thi công vụ nhằm xây dựng bộ máy tối ưu phục vụ người dân và mọi chủ thể trong xã hội.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên

Đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm hiệu quả năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Để xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa tinh gọn vừa mạnh mẽ, đội ngũ này cần được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên, qua đó hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy đổi mới sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Mỗi cán bộ cần được trang bị kiến thức chuyên sâu, khả năng nắm bắt và ứng dụng công nghệ hiện đại, đồng thời nắm chắc các vấn đề chiến lược trong nước và quốc tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Việc đánh giá định kỳ hiệu quả công tác sẽ giúp nhận diện đúng, trúng những cán bộ không đạt yêu cầu, từ đó mạnh dạn thay thế và bổ sung nguồn lực mới, bảo đảm đội ngũ cán bộ luôn ở trạng thái sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ được giao phó.

Hơn nữa, cần xây dựng môi trường làm việc thuận lợi để cán bộ, đảng viên được phát huy tối đa năng lực, trình độ, sở trường và đề xuất các giải pháp kịp thời xử lý tốt các vấn đề phát sinh từ thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng

Hiệu quả lãnh đạo của Đảng phụ thuộc lớn vào việc duy trì kỷ luật và thực thi nghiêm minh các nguyên tắc tổ chức. Để bảo đảm tính minh bạch, sự tin tưởng của nhân dân và sự vững mạnh của Đảng, cần thực hiện kiểm tra thường xuyên, toàn diện ở mọi cấp, từ Trung ương đến cơ sở, nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các dấu hiệu tiêu cực hoặc sai phạm trong tổ chức và đội ngũ cán bộ. Công tác này cần được tiến hành đồng bộ, thường xuyên để không xảy ra tình trạng “vùng cấm”, “lấn sân”, “vô hiệu hóa” lẫn nhau, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy.

Đại hội XIII chỉ rõ: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả”.

Việc này nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm đạo đức, pháp luật của cán bộ, đảng viên đều được xử lý công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong quản lý tài chính-ngân sách, đất đai... Việc xây dựng cơ chế giám sát từ sớm, từ xa, nhất là ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm cho mọi hoạt động của tổ chức công khai, minh bạch hơn.

Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng

Phương thức lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng cần được đổi mới để phù hợp yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Thay vì áp đặt các chỉ thị cứng nhắc, Đảng cần tập trung vào định hướng chiến lược, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân phát huy tính tự chủ, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, từ đó nâng cao hiệu quả và tính linh hoạt trong quản lý.

Trước khi đưa ra các quyết định lớn, cần lấy ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học, người dân và mọi chủ thể trong xã hội. Điều này bảo đảm chính sách không chỉ mang tính thực tiễn mà còn khả thi trong việc triển khai. Việc tổ chức các buổi đối thoại, diễn đàn sẽ giúp Đảng lắng nghe trực tiếp ý kiến và nguyện vọng của nhân dân. Những thông tin thực tế này là cơ sở để Đảng điều chỉnh chính sách phù hợp, kịp thời.

Năm là, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân

Mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là nền tảng quan trọng để giữ vững sức mạnh lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Nhằm củng cố và thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đòi hỏi tất cả các chính sách của Đảng và Nhà nước cần đặt lợi ích của nhân dân ở trung tâm, bảo đảm sự công bằng, minh bạch và hiệu quả. Chính sách cần phản ánh đúng nhu cầu thực tế của nhân dân, mang lại lợi ích thiết thực và tạo niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết Đại hội XIII nêu rõ phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đó chính là quyền làm chủ thật sự của Nhân dân, vì Nhân dân, đồng thời cũng là điểm quan trọng trong phương pháp, phương thức lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo, cầm quyền bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ chính là cách thức cầm quyền bền vững nhất, dựa trên việc đem lại lợi ích và hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.

Với tinh thần đó, cán bộ, đảng viên cần gần gũi hơn với nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng để giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội. Đảng cần tạo điều kiện để người dân tham gia tích cực vào các hoạt động quản lý nhà nước và giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền.

Khẳng định rằng, chủ trương “Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực- Hiệu quả” không chỉ là kim chỉ nam cho việc nâng cao vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, mà còn là nền tảng để xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân và đổi mới phương thức lãnh đạo là những bước đi chiến lược để Đảng phát huy hiệu quả năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn diện. Với sự quyết tâm, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Đảng sẽ tiếp tục dẫn dắt đất nước bắt kịp xu hướng phát triển của thời đại, đưa đất nước ta vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hùng cường, thịnh vượng của dân tộc.

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bài 1: Trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ

Bài 1: Trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ

“Trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề Bài viết 1 của tác giả Thế Duy, nhân chuỗi sự kiện 80 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam - Hành trình vươn mình cùng đất nước, trong chuyên mục Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn. Sau đây là nội dung bài viết, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Trong suốt 80 năm, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ghi dấu ấn đậm nét với những chiến công lẫy lừng và tinh thần chiến đấu quả cảm vì độc lập, tự do của dân tộc.
Trong hành trình lịch sử dài 80 năm, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã ghi dấu ấn đậm nét với những chiến công lẫy lừng và tinh thần chiến đấu quả cảm vì độc lập, tự do của dân tộc. Được thành lập vào ngày 22/12/1944, QĐNDVN không chỉ là lực lượng vũ trang chủ lực mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, sự kiên cường và trí tuệ Việt Nam. Từ một tổ chức với 34 chiến sĩ ban đầu, lực lượng đã phát triển thành một quân đội hùng mạnh và hiện đại, luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.

Quân đội trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và chống Mỹ (1954 - 1975)

Bắt đầu với chỉ 34 chiến sĩ cùng trang bị vũ khí đơn sơ, nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, QĐNDVN đã dần lớn mạnh và trở thành lực lượng quân sự quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là minh chứng rõ nét cho sự trưởng thành của QĐNDVN, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc và trở thành niềm tự hào không chỉ của người Việt Nam mà còn của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam thời kỳ đó. Trong quá trình chuẩn bị và triển khai chiến dịch, QĐNDVN đã thể hiện sự sáng tạo và linh hoạt trong chiến lược. Điều này đã khiến quân đội Pháp và cả thế giới phải ngỡ ngàng về một dân tộc nhỏ bé nhưng có tinh thần quật cường, ý chí sắt đá.
Sau khi chiến thắng Pháp, Việt Nam tiếp tục đối mặt với một kẻ thù mới - đế quốc Mỹ. Trong suốt hai mươi năm sau đó, QĐNDVN đã phải chiến đấu trong một cuộc chiến tranh quy mô lớn và phức tạp, không chỉ đòi hỏi sức mạnh quân sự mà còn cả khả năng tư duy chiến lược và sự linh hoạt trong mọi tình huống. Trong thời gian này, QĐNDVN đã triển khai hàng loạt chiến dịch lớn như Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971 và đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước.

Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, QĐNDVN tiếp tục đối mặt với hai cuộc chiến đấu quan trọng nhằm bảo vệ chủ quyền và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Trước hành động xâm lược của quân Pol Pot trên biên giới Tây Nam, đáp lời kêu gọi từ Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã phát động cuộc phản công quyết liệt. Đỉnh cao là chiến thắng ngày 7/1/1979, giải phóng Thủ đô Phnom Penh và toàn bộ đất nước Campuchia khỏi chế độ diệt chủng tàn bạo. Trong suốt 10 năm (1979 - 1989), quân tình nguyện Việt Nam sát cánh cùng Campuchia truy quét tàn quân, củng cố chính quyền cách mạng và hồi sinh quốc gia này.

undefined
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng). Ảnh: Tư liệu

Cũng trong năm 1979, quân và dân Việt Nam đã kiên cường bảo vệ biên giới phía Bắc trước sự tấn công xâm lược. Dù thời gian chiến sự trực tiếp ngắn (17/2 - 6/3/1979) nhưng căng thẳng biên giới kéo dài đến cuối thập niên 80. Qua những trận chiến cam go, lực lượng vũ trang đã giữ vững chủ quyền lãnh thổ.
Thắng lợi trên cả hai mặt trận không chỉ bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ mà còn tạo nền tảng hòa bình cho phát triển đất nước, khẳng định tình đoàn kết quốc tế cao cả của dân tộc Việt Nam.
Các chiến dịch trong giai đoạn này không chỉ là những cuộc giao tranh quyết liệt mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của QĐNDVN. Bên cạnh đó, quân đội còn nhận được sự ủng hộ lớn lao từ nhân dân trong cả nước, với tinh thần “hậu phương vững chắc”, đóng góp nhân lực, vật lực để cung cấp cho tiền tuyến. Chiến thắng 30/4/1975 là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh đoàn kết toàn dân và là biểu tượng của sự thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì chính nghĩa.
Giai đoạn đổi mới và hội nhập (từ năm 1986 đến nay)
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, vai trò của QĐNDVN không chỉ giới hạn trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, QĐNDVN đã không ngừng cải tiến và hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ quân sự và huấn luyện. Các nhiệm vụ quân sự thường xuyên, đặc biệt là công tác huấn luyện và nâng cao năng lực sẵn sàng chiến đấu, luôn được quân đội duy trì và phát triển.
QĐNDVN hiện nay đang tập trung vào quá trình hiện đại hóa để trở thành một lực lượng quân sự tinh nhuệ và chuyên nghiệp. Với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, QĐNDVN đang dần tiếp cận với những trang bị, vũ khí tiên tiến từ các nước có nền công nghiệp quốc phòng phát triển. Các hoạt động diễn tập, huấn luyện thường xuyên được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo, qua đó tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ lãnh thổ.
Việc xây dựng quân đội hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế còn nhằm mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước trước những thách thức an ninh khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, QĐNDVN cũng chú trọng phát triển các lực lượng phòng thủ an ninh mạng và khả năng phòng vệ trước các thách thức an ninh phi truyền thống, nhằm đảm bảo sự ổn định của đất nước.
Những thách thức và định hướng phát triển trong tương lai
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, QĐNDVN đối diện với những thách thức trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và đối phó với những nguy cơ an ninh phi truyền thống như tội phạm mạng, buôn lậu, và thảm họa môi trường. Để ứng phó với các thách thức này, QĐNDVN đã có những định hướng phát triển cụ thể, bao gồm việc đầu tư vào công nghệ quốc phòng hiện đại, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ và cải thiện khả năng tác chiến.
Việc hiện đại hóa quân đội không chỉ dừng lại ở mua sắm trang bị mới mà còn chú trọng vào việc xây dựng đội ngũ quân nhân có kiến thức, có phẩm chất đạo đức và khả năng ứng phó với các tình huống khó khăn.
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, QĐNDVN đã thể hiện vai trò to lớn và quan trọng không chỉ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc mà còn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ những chiến thắng vang dội trong cuộc chiến giành độc lập đến những đóng góp thiết thực trong thời bình, QĐNDVN luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Với những thách thức hiện tại và trong tương lai, quân đội sẽ không ngừng phấn đấu và phát triển, tiếp tục là trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ.
(Tài liệu tham khảo - Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12/1944 - 22/12/2024) và 35 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024)


Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 5 - Xây dựng nguồn nhân lực tự chủ - cách nào?

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 5 - Xây dựng nguồn nhân lực tự chủ - cách nào?

“Bài 5 - Xây dựng nguồn nhân lực tự chủ - cách nào?” - Kính thưa quý vị, tiếp nối hai kỳ trước theo tuyến bài với chủ đề - Đánh thức giấc mơ "ngủ đông” điện hạt nhân, trên đây là nhan đề bài viết của PGS.TS Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực và tác giả Trần Lê An, được đăng tải trên Báo Công Thương điện tử trong mục Ngành Công Thương và kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Để đánh thức giấc mơ điện hạt nhân, việc đào tạo nguồn nhân lực vẫn là vấn đề hàng đầu. Các chuyên gia khuyến nghị gì?

Xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu thực tiễn

Ngày 5/12 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khảo sát địa điểm xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện để tái khởi động dự án điện hạt nhân. Trước đó một ngày, tại phiên họp chuyên đề pháp luật, Chính phủ cũng đã xem xét đề nghị xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Có thể nói, Việt Nam đã bước qua được những e dè trước đó và thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trong báo cáo trước Tổng Bí thư và trả lời các ý kiến của tỉnh Ninh Thuận về lộ trình tái khởi động dự án điện hạt nhân cũng đề cập rất rõ vấn đề đào tạo nguồn nhân lực.

Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), sự phát triển điện hạt nhân tại các quốc gia trên thế giới rất khác nhau. Trên cơ sở, bài học kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển như Mỹ, Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc..., Việt Nam cần tham khảo, học hỏi và thực hiện nghiên cứu chi tiết, vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tiễn của mình.

Trong đó, một bài học cần lưu ý là kết hợp vốn kiến thức và kinh nghiệm của các quốc gia có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển với việc đảm bảo nguồn nhân lực trong nước có khả năng thực hiện thành công chương trình điện hạt nhân. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên nên theo hình thức "chìa khóa trao tay" và dần dần tăng cường vai trò của công nghiệp nội địa dưới dạng làm nhà thầu phụ cho nhà thầu chính nước ngoài, tiếp cận quá trình chuyển giao công nghệ.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm quan sát vị trí quy hoạch Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Ảnh: Nguyễn Cường

Mặt khác, cần có chiến lược nhằm đảm bảo nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo hạt nhân quốc gia Chiến lược phát triển nguồn nhân lực bao gồm ngắn hạn và dài hạn. Theo đó, chiến lược ngắn hạn nhằm đảm bảo nhân lực ban đầu chất lượng cao cho dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Chiến lược dài hạn nhằm đảm bảo nhân lực cho cả chương trình hạt nhân quốc gia trong tương lai.

"Việc phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển các giai đoạn của dự án nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam và cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của chương trình điện hạt nhân của Việt Nam. Trước đây, ngày 18/8/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1558/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Trong trường hợp có định hướng phát triển điện hạt nhân, cần thiết rà soát lại chương trình phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử để đảm bảo đầy đủ nhân lực xây dựng, vận hành nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam" - Viện Năng lượng đánh giá.

Trong 7 giải pháp đề xuất, Viện Năng lượng đề cập vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở vị trí thứ 4: "Về giải pháp về phát triển nguồn nhân lực: Rà soát, xây dựng kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực điện hạt nhân. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào tạo về năng lượng hạt nhân đi đôi với đào tạo nâng cao".
Vườn ươm nhân lực điện hạt nhân thuần Việt

Với truyền thống lâu đời trong đào tạo nhân lực thuộc lĩnh vực năng lượng, Trường Đại học Điện lực là một trong 5 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực điện hạt nhân. Nhà trường đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú, có thể áp dụng linh hoạt vào việc đào tạo ngành điện hạt nhân. Nhà trường đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân và an toàn bức xạ. Đồng thời, sở hữu chương trình đào tạo ngành công nghệ kỹ thuật hạt nhân theo quyết định số 221/QĐ- ĐHĐL ngày 9/2/2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực, với chuyên ngành điện hạt nhân đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng.

Trong các kỳ tuyển sinh năm 2014, ngành điện hạt nhân tại Trường Đại học Điện lực có mức điểm trúng tuyển là 19, nằm trong Top 3 ngành có mức điểm chuẩn cao nhất của trường. Thí sinh dự thi vào ngành này được đánh giá là có chất lượng tốt, đồng đều. Ngành điện hạt nhân "hút" sinh viên là do khi theo học ngành này, sinh viên sẽ được nhận nhiều ưu đãi, học bổng giá trị. Đồng thời, các em có nhiều cơ hội để du học, hay tham gia các chương trình giao lưu đào tạo tại Nga, Nhật Bản…

Theo thống kê, từ năm 2011 đến năm 2021, Trường Đại học Điện lực đã đào tạo các thế hệ kỹ sư điện hạt nhân, đóng góp tích cực vào sự chuẩn bị cho dự án. Nhà trường đã tuyển sinh và đào tạo chuyên ngành điện hạt nhân từ khóa D5 (lớp D5DHN) đến D11 (lớp D11DHN) với khoảng gần 200 sinh viên. Tuy nhiên, do dự án điện hạt nhân Ninh Thuận tạm dừng vào năm 2016 nên hoạt động đào tạo cũng tạm dừng.

Đại diện Khoa Năng lượng mới (Trường Đại học Điện lực) cho biết, nhà trường đã và đang chủ động thiết lập các mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với những đơn vị đầu ngành về năng lượng nguyên tử như: Viện Khoa học và Công nghệ hạt nhân, Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, Trung tâm Đào tạo hạt nhân và Bệnh viện 108. Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường thường xuyên mời các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này đến giảng dạy và chia sẻ kinh nghiệm.

Nền tảng hợp tác với nhiều cường quốc năng lượng hạt nhân

Với bề dày lịch sử đào tạo nhân lực cho các nhà máy điện trên cả nước, nhà trường đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú, có thể áp dụng linh hoạt vào việc đào tạo ngành điện hạt nhân. Nhà trường đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại, đồng thời sở hữu chương trình đào tạo chuyên sâu và đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực vật lý hạt nhân và năng lượng nguyên tử.
Bên cạnh đó, nhiều hệ thống trong nhà máy điện hạt nhân có cấu trúc tương tự các nhà máy nhiệt điện, giúp nhà trường tận dụng đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm từ các ngành nhiệt điện, hệ thống điện, điều khiển tự động để giảng dạy các môn học liên quan. Nhà trường hiện có hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ cho các ngành điện, nhiệt điện, thủy điện... có thể được tận dụng để đào tạo thực hành cho sinh viên ngành điện hạt nhân.

Một điểm lợi thế nữa, Trường Đại học Điện lực đã và đang duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các đối tác quốc tế uy tín như Viện Nghiên cứu hạt nhân - Đại học Fukui (Nhật Bản), Đại học Công nghệ Nagaoka (Nhật Bản), Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi, Hitachi (Nhật Bản), Trường Đại học Năng lượng Moscow (Nga), Trường Đại học Saclay - Paris (Pháp)... Qua đó, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.

Tuy nhiên, hiện tại, nhà trường cũng gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất. Để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị liên quan đến ngành kỹ thuật hạt nhân, cần nguồn vốn lớn hơn nhiều so với các ngành nghề khác. Ngoài ra, hiện nay, giáo trình và bài giảng còn nặng về lý thuyết, chủ yếu dạy nguyên lý, kỹ năng thực hành, năng lực ứng dụng còn rất hạn chế, đặc biệt là chưa được tiếp cận với công nghệ mới đang diễn ra ở các nước tiên tiến trên thế giới, đòi hỏi phải cập nhật chương trình đào tạo.

Trên cơ sở những lợi thế sẵn có, khắc phục khó khăn, Trường Đại học Điện lực cũng cam kết tiếp tục đào tạo ngành điện hạt nhân. Trong đó, chú trọng Chương trình luôn được cập nhật theo các nội dung đào tạo thịnh hành trên thế giới và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Đồng thời, chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy nhằm đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về số lượng và chất lượng nhân lực chất lượng cao cho dự án điện hạt nhân sắp tới.

Tiềm năng từ đội ngũ nhân lực điện hạt nhân Việt Nam

Để đảm bảo sự ổn định từ giai đoạn tái khởi động cho đến khi nhà máy điện hạt nhân đi vào vận hành, nguồn nhân lực phục vụ nhà máy là yếu tố mang tính chiến lược, đặc biệt quan trọng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố then chốt, quyết định thành công của chương trình điện hạt nhân quốc gia. Đặc biệt, trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, yêu cầu về kỹ thuật và an toàn rất khắt khe, đòi hỏi một chiến lược dài hạn và toàn diện để xây dựng đội ngũ nhân lực có đủ năng lực đáp ứng mọi yêu cầu trong các giai đoạn phát triển nhà máy điện hạt nhân.

Thực tế, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1558/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án "Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử". Đây là bước đầu quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho chương trình điện hạt nhân. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho việc tái khởi động các dự án điện hạt nhân, Việt Nam cần rà soát và điều chỉnh Chương trình đào tạo nhân lực để đáp ứng nhu cầu thực tế dựa trên các hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) và kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển.

Chương trình đào tạo cần tập trung cho các chủ thể chính trong Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, bao gồm: Chủ đầu tư/tổ chức vận hành nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và Cơ quan pháp quy hạt nhân để quản lý toàn bộ các hoạt động của dự án gồm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm và pháp quy, tổ chức phê duyệt địa điểm, thiết kế, cấp phép xây dựng, cấp phép vận hành và tổ chức hoạt động thanh tra trong các quá trình triển khai dự án. Đồng thời, xây dựng năng lực đào tạo cho các cơ sở trong nước để phục vụ việc triển khai các dự án tiếp theo trong chương trình điện hạt nhân dài hạn của quốc gia.

Về vấn đề nguồn nhân lực, PGS.TS Vương Hữu Tấn - nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, người có nhiều ý kiến mang tính xây dựng, tích cực về lĩnh vực điện hạt nhân Việt Nam - cho biết: "Không có một quốc gia nào phải đào tạo đủ đội ngũ cán bộ mới bắt đầu triển khai dự án điện hạt nhân".

Vì vậy, để xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng, Việt Nam không thể chỉ dựa vào nguồn lực trong nước mà cần mở rộng hợp tác quốc tế. Các chương trình hợp tác với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và các quốc gia có nền điện hạt nhân phát triển là cần thiết. Việc cử cán bộ, kỹ sư sang học tập và thực hành tại các trung tâm đào tạo và nhà máy điện hạt nhân của các nước có nền công nghiệp hạt nhân tiên tiến sẽ giúp chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn.

PGS.TS Vương Hữu Tấn thông tin, Việt Nam đã đào tạo hơn 300 người phục vụ cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận thông qua các chương trình hợp tác với Nga và Nhật Bản trong khuôn khổ Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Ông cũng khẳng định rằng, nước ta cũng đã đào tạo khá nhiều cán bộ cho Cơ quan pháp quy hạt nhân và các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật thông qua hợp tác với IAEA, Liên minh châu Âu và các nước công nghiệp điện hạt nhân.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt!

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 4 - Viện Năng lượng khuyến nghị gì?

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 4 - Viện Năng lượng khuyến nghị gì?

“Viện Năng lượng khuyến nghị gì?” - Kính thưa quý vị, tiếp nối hai kỳ trước theo tuyến bài với chủ đề - Đánh thức giấc mơ "ngủ đông” điện hạt nhân, trên đây là nhan đề bài viết 4 của tác giả Trần Đình - Thế Duy được đăng tải trên báo Công Thương điện tử trong mục Ngành Công Thương và kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Những 'bước đi' năng động, sáng tạo, có lộ trình sẽ góp phần thành công khi tái khởi động chương trình điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng.
Sau gần một thập kỷ tạm hoãn, chương trình phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam đang đứng trước cơ hội được tái khởi động trong bối cảnh năng lượng sạch trở thành ưu tiên toàn cầu.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa tham vọng này, cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng và đồng bộ từ nhiều phía. Từ xây dựng sự đồng thuận xã hội, phát triển nguồn nhân lực, củng cố cơ sở hạ tầng đến hoàn thiện khung pháp lý. Những hành động ngay từ bây giờ sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào kỷ nguyên điện hạt nhân với niềm tin và sự ủng hộ rộng rãi từ toàn xã hội.

Tiếp nhận kinh nghiệm quốc tế

Trong những năm gần đây, xu thế phát triển điện hạt nhân vẫn được duy trì ở các thị trường hàng đầu, đặc biệt trong bối cảnh chống biến đổi khí hậu, gia tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, thay thế các nguồn điện có phát thải lớn. Nhóm các quốc gia tiếp tục coi trọng điện hạt nhân trong chính sách năng lượng của mình bao gồm Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Một số quốc gia có sự thay đổi chính sách đối với điện hạt nhân như Đức, Thụy Điển. Bên cạnh đó, một số quốc gia mới nổi, lần đầu tiên xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân như UAE, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh. Một số quốc gia quan tâm đến điện hạt nhân ở khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan.
Điển hình, trong nhóm các quốc gia tiếp tục coi trọng điện hạt nhân, Mỹ là nước có số tổ máy điện hạt nhân nhiều nhất thế giới, 94 tổ máy đang vận hành với tổng công suất khoảng 96,9 GWe, đóng góp khoảng 20% tổng sản lượng điện hàng năm. Tuy là quốc gia dẫn đầu về điện hạt nhân, nhưng việc phát triển xây dựng điện hạt nhân đã chững lại sau tai nạn hạt nhân đảo Three Mile (1979, Pennsylvania). Gần đây, Mỹ bắt đầu xây dựng các lò mới tiên tiến thế hệ III+ là AP1000 tại Vogtle và VC Summer, trong đó, tổ máy số 3 Vogtle bắt đầu vận hành từ tháng 7/2023.
Về Liên bang Nga, Liên Xô (cũ) là quốc gia vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào ngày 27/6/1954 (năm nay Nga kỷ niệm 70 năm nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới). Hiện nay, Nga đang vận hành 36 tổ máy với tổng công suất 26,8 GWe, chiếm 19,6% sản lượng điện quốc gia. Nga hiện có ngành công nghiệp hạt nhân toàn diện từ khai thác, chế tạo nhiên liệu, thiết kế xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong nước cũng như xuất khẩu điện hạt nhân ra nước ngoài. Thiết kế VVER của Nga an toàn và hiệu quả đã được chứng minh mấy chục năm nay, đặc biệt thiết kế VVER-1200 (thế hệ III+) đáp ứng các yêu cầu an toàn hậu sự cố Fukushima. Cho đến nay, chính phủ Nga thực hiện chiến lược giảm nhiên liệu hoá thạch, tăng tỷ lệ năng lượng hạt nhân từ 20% hiện nay lên 37% trong tương lai gần, nhằm đảm bảo phát thải carbon thấp hơn châu Âu vào năm 2050.
Tại châu Á, sau sự cố Fukushima, hiện nay Nhật Bản đang cố gắng tái khởi động các tổ máy điện hạt nhân sau khi nâng cấp các hạng mục theo yêu cầu của cơ quan pháp qui. Hai lò phản ứng đầu tiên đã khởi động lại vào tháng 8 và tháng 10/2015, với 10 lò phản ứng khác đã khởi động lại kể từ đó.
Kế hoạch năng lượng cơ bản lần thứ 5 được phê duyệt vào tháng 7/2018 duy trì tỷ lệ điện giống như đã thỏa thuận vào giữa năm 2015. Vào tháng 10/2021, kế hoạch sản xuất điện đến năm 2030 được phê duyệt tại Nhật Bản. Mục tiêu hạt nhân cho năm 2030 là 20-22%, không thay đổi so với mục tiêu trong kế hoạch năm 2015 nhưng năng lượng tái tạo tăng đáng kể lên 36-38%, bao gồm địa nhiệt và thủy điện. Hydro và amoniac được đưa vào ở mức 1%. Kế hoạch sẽ yêu cầu khởi động lại 10 lò phản ứng khác.

undefined
Một nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản. Ảnh: Nippon

Hay như Trung Quốc khởi động chương trình điện hạt nhân vào năm 1970. Khi đó, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc dưới 70 USD/người, điện tiêu thụ trên đầu người cũng chỉ 126 kWh/năm (năm 2007 điện bình quân đầu người của Trung Quốc là 2483 kWh/năm). Quốc gia này khá giàu tài nguyên năng lượng, nhất là than đá.
Một trong những nguyên nhân để Trung Quốc xây dựng điện hạt nhân là tài nguyên than tập trung phần lớn ở khu vực Tây Bắc, trong khi khu vực năng động phát triển kinh tế lại phân bố ở miền Nam và Đông Nam, rất xa các vùng mỏ than. Hiện nay, Trung Quốc đã tự phát triển được công nghệ lò nước nhẹ tiên tiến thế hệ III+ (Hualong One), đang được Cơ quan Pháp quy hạt nhân của Anh (ONR) đánh giá để cấp phép an toàn.
Tiếp đến, trong nhóm quốc gia có sự thay đổi chính sách đối với điện hạt nhân, Đức là một ví dụ điển hình. Mặc dù đến năm 2009, Chính phủ nước này tuyên bố thực hiện chính sách không xây dựng mới nhà máy điện và dự kiến 20 năm sau, đến 2022 nhà máy điện hạt nhân cuối cùng sẽ ngừng hoạt động. Tuy nhiên, Đức vẫn tiếp tục cộng tác với Pháp để nghiên cứu các loại lò phản ứng tiên tiến có độ an toàn cao hơn. Vấn đề tuyên bố dừng phát triển điện hạt nhân của Đức cũng mang yếu tố chính trị. Mặt khác, Đức hiện nhập khẩu điện từ các nhà máy điện hạt nhân của Pháp dễ dàng để đáp ứng nhu cầu của nước mình. Nguyên nhân chính dừng phát triển điện hạt nhân ở Đức là do Đảng Xanh lúc đó đang thắng thế, và Đức đẩy mạnh chương trình phát triển năng lượng tái tạo: điện gió, điện mặt trời.
Tuy nhiên, vào tháng 10/2022, Thủ tướng Đức đã quyết định 3 lò phản ứng điện hạt nhân còn lại của Đức sẽ tiếp tục hoạt động để bù đắp cho nguồn cung cấp khí đốt giảm từ Nga cho đến tháng 4/2023.
Về một số quốc gia mới nổi, lần đầu tiên xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, UAE đã xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Barakah đầu tiên với 4 tổ máy APR1400 của Công ty Điện lực Hàn Quốc (Kepco). Tổ máy 1 được hòa lưới vào năm 2020, tiếp theo là tổ máy 2 vào năm 2021 và tổ máy 3 vào năm 2022. Tổ máy 1 bắt đầu vận hành thương mại vào tháng 4/2021, tổ máy 2 vào năm 2022 và tổ máy 3 vào năm 2023. Khi cả 4 tổ máy đều hoạt động hết công suất, Nhà máy Barakah sẽ tạo ra 40 TWh điện mỗi năm và cung cấp tới 25% lượng điện của UAE, đóng góp tới 25% đóng góp do quốc gia tự quyết định của UAE cho Net Zero và là nguồn cung cấp điện sạch lớn nhất.
Đáng chú ý, nhiều quốc gia tại Đông Nam Á cũng đang quan tâm tới điện hạt nhân. Tại Philippines, vào tháng 3/2022, cựu Tổng thống Rodrigo Duterte đã ký sắc lệnh đưa điện hạt nhân vào cơ cấu năng lượng của nước này. Tiếp đó, sau khi đắc cử vào tháng 5/2022, Tổng thống Ferdinand Marcos Junior đã tuyên bố có kế hoạch mở cửa trở lại Nhà máy điện hạt nhân Bataan (dự án điện hạt nhân đầu tiên tại Đông Nam Á) đã hoàn thành vào năm 1984 nhưng chưa được đưa vào hoạt động.
Tại Singapore, mặc dù quy mô lưới điện khá nhỏ, tháng 3/2022 cũng tuyên bố đã xác định điện hạt nhân là nguồn năng lượng tiềm năng vào năm 2050. Thái Lan cũng đã đưa điện hạt nhân vào quy hoạch điện quốc gia từ những năm 2000, nhưng kế hoạch xây dựng lò phản ứng đã bị hoãn lại do sự cố Fukushima. Tại Diễn đàn APEC ở Bangkok tháng 11/2022, Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris thông báo Chính phủ Mỹ sẽ hỗ trợ cho Thái Lan triển khai công nghệ lò SMR.
Những thông tin đã đề cập cho thấy, xu hướng phát triển điện hạt nhân là tất yếu trên thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển điện hạt nhân tại các quốc gia trên thế giới rất khác nhau. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhận định rằng Việt Nam cần tham khảo, học hỏi và thực hiện nghiên cứu một cách chi tiết, vận dụng một cách linh hoạt vào điều kiện thực tiễn của mình, để có thể phát triển nhà máy điện hạt nhân. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm phát triển nhà máy điện hạt nhân của các quốc gia trên thế giới có thể được rút ra như sau:
Một là, có sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về việc phát triển điện hạt nhân vì mục đích hoà bình. Việc thực hiện một chương trình điện hạt nhân quốc gia đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ của các tổ chức trong nước và quốc tế.
Hai là, có sự phối hợp giữa chương trình điện hạt nhân và chương trình phát triển quốc gia. Chương trình điện hạt nhân cần được coi là một phần trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia, việc nội địa hóa công nghệ điện hạt nhân khó thành công nếu không có cơ sở nền tảng của công nghiệp nặng như cơ khí, hóa chất...
Ba là, kết hợp vốn kiến thức và kinh nghiệm của các quốc gia có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển với việc đảm bảo nguồn nhân lực trong nước có khả năng thực hiện thành công chương trình điện hạt nhân.
Bốn là, công tác tuyên truyền điện hạt nhân cần phải tiến hành với cách thức về cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Năm là, đầu tư liên tục cho phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. Việc phát triển dự án điện hạt nhân không chỉ phục vụ mục đích phát điện để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ của quốc gia, phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật quốc gia trên tất cả các lĩnh vực.
Sáu là, cần phải chủ động sớm có lộ trình xây dựng khuôn khổ hệ thống pháp quy về an toàn hạt nhân trong cả nước, để kiểm soát an toàn hạt nhân một cách chặt chẽ. Cần chủ động xây dựng hệ thống kiểm soát an toàn hạt nhân, sớm xây dựng một khuôn khổ pháp quy về an toàn hạt nhân cho điện hạt nhân.
Bảy là, có chiến lược nhằm đảm bảo nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo hạt nhân quốc gia. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực bao gồm ngắn hạn và dài hạn; chiến lược ngắn hạn nhằm đảm bảo nhân lực ban đầu chất lượng cao cho dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, chiến lược dài hạn là nhằm đảm bảo nhân lực cho cả chương trình hạt nhân quốc gia trong dài hạn.
Tám là, hợp tác quốc tế tích cực kết hợp với việc tiếp thu ý kiến phản hồi, đánh giá của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia cần tuân thủ hướng dẫn của IAEA cũng như xây dựng tiêu chuẩn theo đặc thù của quốc gia. Vì thế, hợp tác quốc tế chặt chẽ và nghiên cứu công nghệ thế giới nhằm đảm bảo an toàn là rất quan trọng, nhất là khi bắt đầu khởi động chương trình điện hạt nhân.

Đẩy mạnh sự đồng thuận xã hội

Một trong những "rào cản" lớn nhất đối với điện hạt nhân là tâm lý e ngại của công chúng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự đồng thuận của xã hội đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chương trình điện hạt nhân.
Về vấn đề này, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết rằng, với lịch sử hơn 70 năm phát triển, ngành năng lượng hạt nhân đã có những đóng góp to lớn tới nền kinh tế quốc dân nhiều nước. Nhưng bên cạnh đó, năng lượng hạt nhân có những đặc thù riêng có ảnh hưởng tâm lý của công chúng nên không ít các quốc gia đã phát triển điện hạt nhân khó đẩy mạnh phát triển điện hạt nhân, cũng như các nước mới bắt đầu điện hạt nhân cũng gặp không ít khó khăn.
Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhận định, thông tin tuyên truyền đại chúng là những thông tin được cung cấp phải dễ hiểu, tổng hợp và phù hợp với tuỳ từng đối tượng. Công tác thông tin tuyên truyền phải được tiến hành đem lại cho công chúng một cái nhìn công bằng với ngành hạt nhân, không nên thái quá đưa tin một chiều, hoặc ngược lại che đậy các sự thật, sẽ gây ra mất lòng tin, dẫn tới sự phản đối việc phát triển điện hạt nhân.

Nâng tầm chất lượng kỹ thuật

Việc phát triển cơ sở hạ tầng hạt nhân tại Việt Nam cần thực hiện theo ba giai đoạn, kéo dài từ 10 đến 15 năm, dựa trên hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Hiện tại, Việt Nam phải rà soát lại toàn bộ các tiêu chí liên quan đến cơ sở hạ tầng hạt nhân, đặc biệt chú trọng đến 19 yếu tố then chốt, trong đó có các cơ sở hạ tầng về an toàn và an ninh hạt nhân theo hướng dẫn của IAEA (NG-G-3.1 và SSG-16). Các cơ sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm, và cơ sở đào tạo phải được đầu tư xây dựng đồng bộ, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển ngành năng lượng hạt nhân tại Việt Nam.
An toàn cho nhà máy điện hạt nhân cũng là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với các quốc gia sở hữu công nghệ này mà còn đối với cộng đồng quốc tế. Theo các nguyên tắc quốc tế, các nhà máy điện hạt nhân phải được bảo vệ khỏi các cuộc tấn công trong thời gian chiến tranh và chống lại các mối đe dọa khủng bố.
Trong bối cảnh thế giới căng thẳng về địa chính trị như hiện nay, PGS.TS Vương Hữu Tấn, nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam cho rằng, an toàn tuyệt đối là không thể có trong bất kỳ lĩnh vực nào, nhưng có thể thiết lập những tiêu chuẩn an toàn chấp nhận được. Chính vì vậy, các công nghệ mới trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân ngày nay đã được cải tiến để ngăn ngừa các sự cố nghiêm trọng như nóng chảy vùng hoạt của lò phản ứng mà vẫn không gây phát tán phóng xạ.
Về việc làm chủ công nghệ nhà máy điện hạt nhân, ông Vương Hữu Tấn khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ công nghệ này. Dù có sự khác biệt giữa điện hạt nhân và các loại nhiệt điện truyền thống, Việt Nam đã có kinh nghiệm trong việc quản lý và vận hành các nhà máy nhiệt điện, đặc biệt là nhiệt điện khí. Với đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm từ việc vận hành các lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, Việt Nam có thể nhanh chóng làm chủ công nghệ điều khiển các nhà máy điện hạt nhân, như đã chứng minh trong quá trình vận hành lò phản ứng Đà Lạt.
Ngoài ra, để thúc đẩy phát triển ngành điện hạt nhân, cần triển khai các giải pháp chiến lược và quy hoạch đồng bộ. Cụ thể, việc lập Quy hoạch phát triển điện hạt nhân sẽ làm rõ tiềm năng của các loại hình nhà máy điện hạt nhân, bao gồm quy mô lớn, quy mô nhỏ (SMR) và siêu nhỏ (mSMR). Đồng thời, cần xác định các vị trí tiềm năng và khả thi để xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Một bước quan trọng nữa là cập nhật và điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, nhằm xác định rõ quy mô và thời điểm triển khai các tổ máy điện hạt nhân, cũng như các quy hoạch liên quan. Những nỗ lực này sẽ là nền tảng quan trọng trong việc phát triển bền vững nguồn năng lượng hạt nhân tại Việt Nam.
Củng cố khung pháp lý

Theo thông tin từ Viện Năng lượng, cơ quan pháp quy hiện nay đang được hiểu là Cục an toàn bức xạ và hạt nhân (VARANS) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, để trở thành Cơ quan Pháp quy hạt nhân cũng cần phải kiện toàn bộ máy, nhiều quốc gia có điện hạt nhân đã xây dựng Cơ quan pháp quy hạt nhân độc lập, không trực thuộc bộ nào, đảm bảo tính khách quan.
Việt Nam đã có Luật Năng lượng nguyên tử (ban hành năm 2008) và đã xây dựng được hệ thống 5 nghị định và 30 thông tư hướng dẫn. Tiếp đó, các văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh xây dựng phục vụ giai đoạn chuẩn bị Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1-2. Tuy nhiên, sau khi có chủ trương dừng dự án, các hoạt động liên quan đến xây dựng văn bản pháp luật đã không được ưu tiên. Trong trường hợp khởi động lại phát triển điện hạt nhân, cần ưu tiên rà soát, cập nhật, xây dựng các văn bản pháp luật liên quan nhà máy điện hạt nhân.
Hiện nay, đang có nhiều ý kiến liên quan đến lò nhỏ SMR, nhưng lại thiếu vắng những tài liệu hướng dẫn, quy định về yêu cầu địa điểm đối với lò SMR. Như vây, việc lựa chọn địa điểm cho điện hạt nhân SMR vẫn cần tuân thủ Thông tư số 13/2009/TT-BKHCN hướng dẫn đánh giá sơ bộ về an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân trong giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư, Thông tư số 28/2011/TT-BKHCN quy định yêu cầu về an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân. Cơ quan hữu quan nên nghiên cứu sớm ban hành thông tư, quy định về lựa chọn địa điểm cho lò SMR.
Các nhà máy điện hạt nhân nổi cũng đang chưa có các Công ước quốc tế về di chuyển qua biên giới quốc tế, quá cảnh qua vùng biển nước thứ 3. Do đó, cần sớm nghiên cứu phối hợp với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) trong trường hợp phát triển điện hạt nhân nổi.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt!

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam

“Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của Đại úy, Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Toán - Viện Lịch sử Quân sự, được đăng tải trên báo Nhân Dân điện tử tại trang web nhandan.vn. Trong tháng 12 này là dịp đặc biệt có ý nghĩa Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), thêm một lần nữa chúng ta cũng nhắc nhớ và hồi ức lại những câu chuyện về vị tướng huyền thoại của dân tộc Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - với tấm lòng trân trọng và biết ơn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, được nhân dân yêu mến, kính trọng, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ và là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Vị tướng huyền thoại của Việt Nam và thế giới; dù không trải qua trường lớp quân sự nào, nhưng dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh; đồng chí Võ Nguyên Giáp đã cùng Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy xây dựng Quân đội từ “con số không” nhanh chóng phát triển lực lượng, trình độ tổ chức, tác chiến, nâng cao sức mạnh chiến đấu, đánh bại nhiều viên tướng nổi tiếng của các quân đội đế quốc thực dân hùng mạnh trên thế giới, làm thay đổi dòng chảy lịch sử dân tộc và nhân loại.

undefined
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch họp bàn kế hoạch tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ảnh tư liệu

Tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử dân tộc, vị tướng lừng danh trong lịch sử thế giới, góp phần làm phong phú nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần vào việc hình thành và phát triển học thuyết quân sự - đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Ông cũng là Tổng Tư lệnh đầu tiên và duy nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam - Đại tướng đầu tiên, cũng là đại tướng đánh bại nhiều đại tướng nhất.

Tiểu sử Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, tại xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho giàu lòng yêu nước. Ông đã dấn thân vào con đường cách mạng từ khi tuổi đời còn rất trẻ dưới sự dìu dắt của các bậc đàn anh và những người thầy ở Trường Quốc học Huế, tham gia các tổ chức yêu nước và cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, trở thành Ủy viên Trung ương dự bị, phụ trách tuyên huấn và giao thông liên lạc của Tổng bộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Võ Nguyên Giáp đã góp phần to lớn thúc đẩy tổ chức Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn - là một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã bị thực dân Pháp kết án 2 năm tù vì tham gia ủng hộ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tháng 4/1940 đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Võ Nguyên Giáp, ông và đồng chí Phạm Văn Đồng được đồng chí Hoàng Văn Thụ - Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp giao nhiệm vụ sang miền Nam Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu tháng 6/1940, tại Thúy Hồ - Côn Minh - Vân Nam (Trung Quốc), hai ông được gặp đồng chí Vương (tức lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc). Từ đây, Võ Nguyên Giáp được gần gũi, trở thành người học trò xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Nhận thấy ở Võ Nguyên Giáp có tài năng thiên bẩm về quân sự, cho nên sau thời gian thử thách, rèn luyện, tháng 12/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giao cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kể từ đây, Võ Nguyên Giáp giữ vai trò người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đội quân từ 34 chiến sĩ trở thành một đội quân cách mạng ngày càng lớn mạnh, từng bước đánh bại những quân đội nhà nghề, sừng sỏ, được trang bị những vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại thời bấy giờ, giành và giữ nền độc lập, tự do cho dân tộc, vẹn toàn lãnh thổ cho Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trên cương vị Bí thư Trung ương Quân ủy, Tổng Chính ủy, Bí thư Tổng Quân ủy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước lớn mạnh, trưởng thành, phát huy vai trò của quân đội cách mạng, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, từng bước đánh bại các kế hoạch quân sự của địch. Đại tướng đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng, đánh dấu sự phát triển của cuộc kháng chiến như Biên Giới, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào... Đặc biệt trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với tư duy quân sự sắc bén, với nhãn quan chiến lược sâu sắc, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đưa Đại tướng vào hàng danh tướng của thế giới.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Phó Thủ tướng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng chỉ đạo quân, dân trên cả hai miền Nam, Bắc lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh những cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ, ngụy, lập nên những chiến công vang dội, như thắng lợi trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và mùa khô 1966 - 1967, Chiến dịch đường 9 - Nam Lào năm 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, làm nên “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội vào tháng 12/1972. Đặc biệt đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã lập nên mốc son chói lọi, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, giành lại trọn vẹn độc lập cho dân tộc, thống nhất cho non sông.

Đất nước hòa bình, thống nhất, Đại tướng đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Năm 1991, Đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80.

Với những công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam suy tôn ông là người “Anh Cả” của quân đội. Bộ đội do ông lãnh đạo, chỉ huy được nhân dân yêu mến gọi là “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là niềm tự hào, là sự kiêu hãnh mà không phải quân đội nào trên thế giới cũng có được.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp với những chiến công hiển hách

Đổi mục tiêu đánh Cao Bằng sang Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới năm 1950.

Trong Chiến dịch Biên giới 1950, trên cương vị là Bí thư Đảng ủy Mặt trận Biên giới, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những đóng góp quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch, tạo bước ngoặt căn bản trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Theo kế hoạch tác chiến ban đầu vạch ra, quân ta sẽ bắt đầu chiến dịch bằng tập trung ưu thế binh lực, tiến công tiêu diệt địch trong thị xã Cao Bằng. Sau khi giải quyết xong Cao Bằng, sẽ chuyển xuống tiêu diệt địch ở Đông Khê, rồi tùy tình hình để định hướng phát triển tiếp theo của chiến dịch.

Nhưng trước khi lên đường đi chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để báo cáo tình hình và được Người căn dặn: Chiến dịch này quan trọng, chỉ được thắng, không được thua. Lời căn dặn đó, khiến đồng chí Tổng Tư lệnh trăn trở, suy nghĩ nhiều về tầm quan trọng của chiến dịch. Vậy, mục tiêu đặt ra cho chiến dịch có vượt quá sức của bộ đội hay không? Lấy thị xã Cao Bằng là điểm đột phá mở đầu chiến dịch có đúng không? Liệu ta có thể huy động đủ lương thực cho lực lượng lớn bộ đội, dân công trong chiến dịch dài ngày không?

Từ những trăn trở đó, đầu tháng 8 năm 1950, Bộ Chỉ huy Chiến dịch tổ chức trinh sát thực địa Cao Bằng. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, để thực hiện quyết tâm bảo đảm đánh chắc thắng trận đầu, trận đánh then chốt mở màn cho chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của Quân đội ta. Tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận ngày 16 tháng 8 năm 1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Chiến dịch kết luận: Đánh Cao Bằng trước, “ta chưa có thể nói chắc chắn bảo đảm thắng lợi”. Do vậy, đồng chí đưa ra phương án tác chiến mới, đó là đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch.

Bởi:

Nếu đánh Cao Bằng trước, ta sẽ gặp một số khó khăn như vấn đề tổ chức vượt sông, vấn đề đối phó với quân nhảy dù tăng viện lúc chiến đấu... Nếu đánh Cao Bằng không thắng lợi sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của bộ đội. Ngược lại, tiến công Đông Khê phù hợp với nguyên tắc bảo đảm chắc thắng trận đầu trong tác chiến chiến dịch, phù hợp với cách đánh của ta (đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính), thuận tiện cho ta triển khai binh, hoả lực, phù hợp với khả năng chiến đấu của bộ đội, có khả năng bảo đảm chắc thắng và có cơ hội đánh viện binh địch.

Hơn nữa, lực lượng địch ở Đông Khê yếu hơn so với các mục tiêu khác - là nơi địch tương đối sơ hở nhưng lại là nơi hiểm yếu, nếu Đông Khê bị đột phá, toàn bộ thế trận của địch sẽ bị chia cắt và uy hiếp. Do vị trí quân sự quan trọng của Đông Khê, là mắt xích quan trọng nối với thị xã Cao Bằng với thị trấn Thất Khê. Nếu mất Đông Khê, tuyến phòng thủ đường số 4 sẽ bị chia cắt, thị xã Cao Bằng trở nên cô lập, buộc địch phải đưa quân đến ứng cứu Đông Khê, hoặc rút quân từ Cao Bằng về hỗ trợ.

Phương án này, ngay sau đó, được báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh và được nhất trí thông qua.

Diễn biến của chiến dịch đúng như Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp dự đoán. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 16 tháng 9 năm 1950, quân ta nổ súng tiến công Đông Khê, đến sáng 18 tháng 9, quân địch rút chạy, ta làm chủ trận địa. Địch buộc phải điều lực lượng ứng cứu: Binh đoàn Lepager nhận lệnh tiến theo đường số 4 lên đón binh đoàn của Charton từ Cao Bằng rút về cùng hợp điểm tại Đông Khê. Sau đó, ta đã khéo léo “dụ” được hai binh đoàn thiện chiến nhất của quân Pháp rời bỏ những nơi đồn trú kiên cố, cô lập chúng không cho hợp điểm và buộc chúng cuối cùng phải sa vào thế trận “thiên la, địa võng” do ta bày sẵn ở Cốc Xá - Ðiểm cao 477 để tiêu diệt. Thắng lợi đó thể hiện tài năng thao lược thiên bẩm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh sang “Đánh chắc, tiến chắc” trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.

Sau khi Điện Biên Phủ được chọn làm điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và thực dân Pháp, ngày 14 tháng 01 năm 1954, tại Sở Chỉ huy chiến dịch ở Thẩm Púa, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch mở Hội nghị Cán bộ phổ biến Kế hoạch tác chiến chiến dịch theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” đã xác định và giao nhiệm vụ cho các đơn vị tiến hành công tác chuẩn bị đánh theo Quyết nghị của hội nghị. Nhưng với nhãn quan quân sự nhạy cảm, sắc bén, Đại tướng nhanh chóng phát hiện những điểm yếu của phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Bởi, “tình hình địch đã thay đổi nhiều. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc chưa từng có”, quan trọng hơn, những khó khăn đó chưa tìm được cách khắc phục. Mặc dù, “pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong”, nhưng với tinh thần kỷ luật cùng thái độ trách nhiệm trước Đảng, quân và dân, Đại tướng quyết định “Phải cho các đơn vị rút khỏi trận địa để nghiên cứu một cách đánh khác dù bộ đội có thắc mắc. Phải chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thời gian chuẩn bị sẽ kéo dài.

Từ kinh nghiệm thực tiễn chiến trường những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và thiên bẩm quân sự, Đại tướng đã trình bày quan điểm về phương án tác chiến tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm, phân tích những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau Hội nghị Thẩm Púa, cùng những khó khăn chưa thể khắc phục của ta. Từ đó, Đại tướng khẳng định: Phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” không thể đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”. Đại tướng quả quyết ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đối cách đánh và phương châm tác chiến. Sau thời gian thảo luận nghiêm túc, thay mặt Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Mặt trận, Đại tướng kết luận: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới”.

Quyết định hoãn cuộc tiến công, thay đổi phương châm tác chiến là một quyết định quyết đoán, dũng cảm, thể hiện tầm cao trí tuệ, bản lĩnh chính trị của Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận trước Đảng, nhân dân và Quân đội. Quyết định đó kịp thời tránh được nguy cơ tổn thất cho quân và dân ta mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”.

Thực tiễn diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh quyết định của Đại tướng vào thời điểm lịch sử đó là hoàn toàn đúng đắn. Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ức có kể lại đó là “một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình

Ra mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa…’ trong trận đại thắng mùa xuân 1975

Với “hai đòn chiến lược gối đầu nhau” là Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi, ta đã loại khỏi vòng chiến một nửa lực lượng địch, giải phóng một vùng rộng lớn suốt từ Quảng Trị đến Khánh Hòa, tạo đột biến về cục diện chiến tranh, khiến địch hoang mang, hoảng loạn, tìm cách co cụm để giữ Sài Gòn...

Nắm bắt thời cơ chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp mở rộng bàn về đòn chiến lược thứ ba tiến công Sài Gòn, đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến giải phóng Sài Gòn - Gia Định theo hướng bao vây chiến lược ở phía đông và phía tây Sài Gòn, sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch.

Ngày 1/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trên cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương điện cho Trung ương Cục miền Nam, xác định thời gian tiến công Sài Gòn, trong đó nêu rõ: “Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều. Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ... Thời gian hiện nay phải tính từng ngày. Phải thần tốc, thần tốc, toàn thắng, nhất định toàn thắng”.

Được sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Chính trị, quán triệt tinh thần tiến quân “thần tốc”, trên hướng Đường số 1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chính trị ký quyết định thành lập cánh quân Duyên hải (còn gọi là cánh quân phía Đông, 5/4/1975) và trực tiếp giao nhiệm vụ phải chọc thủng các phòng tuyến của địch từ Nha Trang trở vào Sài Gòn. Tổng Tư lệnh đặt ra yêu cầu đối với cánh quân phía Đông là phải tìm mọi phương án nâng cao tốc độ hành quân để kịp thời gian tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn; quá trình hành quân phải là quá trình bổ sung, sáp nhập và hiệp đồng chiến đấu liên tục, “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.

Đôn đốc, thúc giục các binh đoàn, lực lượng trên toàn mặt trận, ngày 7/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã tự tay thảo bức Điện số 157/ĐK, ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”

Cùng với việc chỉ đạo các cánh quân “thần tốc” giải phóng lãnh thổ trên đất liền, ngày 2/4, Đại tướng trực tiếp chỉ thị cho đồng chí Lê Trọng Tấn: Ngoài nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh cho Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân, tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Ngày 4/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký bức bức “mật điện” số 990B/TK “chỉ cán bộ có trách nhiệm biết”, sau đó tốc chuyển đến đồng chí Võ Chí Công - Chính ủy Quân khu 5 và đồng chí Chu Huy Mân - Tư Lệnh Quân khu 5: giao nhiệm vụ cho Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Khu V, Bộ Tư lệnh Hải quân khẩn trương nghiên cứu kế hoạch tác chiến và tiến hành mọi công tác chuẩn bị để khi có thời cơ kịp thời giải phóng Quần đảo Trường Sa, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng.

Mệnh lệnh được thi hành ngay tức khắc. Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân triển khai kế hoạch tác chiến. Sau khi Quân khu 5 báo cáo kế hoạch đánh chiếm các đảo, ngày 13/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện cho đồng chí Chu Huy Mân nêu ý kiến về thời cơ đánh chiếm các đảo. Ngày hôm sau, nhận được tin quân địch chuẩn bị rút khỏi Trường Sa, Đại tướng chỉ thị cho Quân khu 5: Thời cơ đánh chiếm các đảo lúc này rất thuận lợi. Các anh ra lệnh đánh chiếm ngay. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ và thường xuyên báo cáo về Bộ.

Ngày 28/4, quân ta hoàn thành giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa. Đến ngày 30/4 lá cờ giải phóng tung bay trước Dinh Độc lập báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, một thời khắc thiêng liêng của triệu triệu người Việt Nam khi đất nước được giải phóng, non sông thu về một mối.

Như vậy, suốt ba mươi năm chỉ đạo, điều hành cuộc chiến tranh cách mạng (1945-1975), trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Hình ảnh và những cống hiến đặc biệt xuất sắc của Đại tướng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc luôn sống mãi với non sông, đất nước, trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, đúng như khẳng định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta suy tôn đồng chí là Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của đồng chí in đậm trong lòng nhân dân, là vị tướng của nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc.

Những đánh giá về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các vị tướng ấy (tức tướng Pháp ở Đông Dương) cầm quân đánh trận ở Việt Nam đều thua ông Giáp thì ông Giáp phải trên họ một bậc”

Tổng bí thư Lê Khả Phiêu: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng văn, võ song toàn. Vừa võ vừa văn, cả hai lĩnh vực ấy quyện vào, hỗ trợ cho nhau, đều hay, đều giỏi: quân sự - chính trị - kinh tế - văn hóa; văn hóa – chính trị - kinh tế - quân sự”

Tướng De Castrier: “Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp chúng tôi là một đội quân nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Sự kiện tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông [...] tôi thừa nhận tướng Giáp rất sành sỏi binh nghiệp và khôn ngoan hơn tôi đã đành, mà còn hơn cả tướng Cônhi và Đại tướng Navarre. Tôi hân hạnh làm đối thủ của tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như tướng Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”.

60 năm những người hùng châu Á, bình chọn của tạp chí Time, 2006: “Ngày nay, vẫn chỉnh tề trong bộ quân phục, tướng Giáp khiêm tốn từ chối nhận định rằng những chiến thắng quân sự đã khiến ông trở thành một người anh hùng. Ông khẳng định, chúng tôi đơn giản là bằng chứng rằng “nhân dân Việt Nam, với tinh thần yêu nước, có thể làm nên những điều phi thường”. Đúng vậy. Nhưng tướng Giáp đã chỉ cho họ con đường ấy

Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc Phòng Mỹ 1993: “Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao… Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử”

Bách Khoa toàn thư Pháp: “Là người tổ chức Quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết mácxít, kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh”

Những phát ngôn làm nên tên tuổi vị Đại tướng huyền thoại

Cuộc gặp đầu tiên của Đại tướng với cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mcnamara tháng 11/1995: “Từ lo sợ không có trong tư duy của chúng tôi. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Chúng tôi quyết đánh Mỹ và chúng tôi luôn tin tưởng là sẽ chiến thắng.”

Cuộc gặp lần thứ 2 - cũng là lần cuối cùng của cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mcnamara tháng 6/1997: “Vị tướng dù có công lao đến đâu cũng là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam mới là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ mình bình đẳng với những người lính của mình”

Chiến lược của tôi là chiến lược hòa bình, nhưng hòa bình trong độc lập, tự do” - Trả lời câu hỏi của cố vấn an ninh của Tổng thống Algieria

“Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” - Đại tướng nói khi được chúc mừng nhân dịp bước sang tuổi 100.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình

Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình

"Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình" - Bài viết của tác giả Quang Lộc được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình

Quyết định tái khởi động điện hạt nhân là bằng chứng mạnh mẽ cho quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước để tạo những tiền đề cần thiết cho kỷ nguyên mới.

Từ quyết định tạm dừng hai dự án nhà máy điện hạt nhân 8 năm trước…

Cách đây đúng 10 năm, trên một bản tin điện tử xuất hiện bài báo với cái tít đầy hy vọng: “Năm 2023, Việt Nam sẽ có nhà máy điện hạt nhân”. Khi đó nhiều người đã bày tỏ kỳ vọng vào bước đột phá mới trong không gian năng lượng của đất nước, nhưng cũng có người, tuy không nói ra nhưng đã cho thấy những khía cạnh còn phân vân, thậm chí là lo lắng.

Câu chuyện phát triển điện hạt nhân thời điểm đó không còn là câu chuyện mới mẻ và đã được cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước là Quốc hội ra quyết sách. Theo đó, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 41/2009/QH12, ngày 25/11/2009, xác định quy hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam và nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải.

Đó là thời điểm cách sự cố hạt nhân Chernobyl của Liên Xô đã 23 năm nhưng sau đó 2 năm là sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima của Nhật Bản.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm và đoàn công tác Trung ương thị sát địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận.

Quyết định triển khai các dự án điện hạt nhân tại Việt Nam khi đó là kết quả của những khảo sát, tham vấn hết sức kỹ lưỡng về địa điểm, về công nghệ của loại hình lò phản ứng. Các đối tác của Việt Nam cũng là các cường quốc về điện hạt nhân khi đó cũng đã khẳng định sẵn sàng chung tay với Việt Nam để dòng điện từ những nhà máy dự định xây dựng tại Ninh Thuận hòa lưới điện quốc gia, góp phần đem lại một hình ảnh mới cho năng lượng của Việt Nam.

Ai cũng biết những lợi ích to lớn về môi trường, về kinh tế mà điện hạt nhân đem lại cho phát triển năng lượng, phát triển quốc gia. Nhưng điện hạt nhân là một dạng thức năng lượng không giống như các dạng thức năng lượng khác, đòi hỏi những công nghệ hết sức khe khắt, đội ngũ vận hành là những nhân lực trình độ cao. Còn có cả những đòi hỏi cao về sự đồng thuận, thấu hiểu của người dân, của cộng đồng.

Chương trình phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam được manh nha vào những năm 1970, nhưng tới giai đoạn 1996-2009, loại năng lượng này mới được nghiên cứu một cách nghiêm túc, sau khi cấp có thẩm quyền cho chủ trương, với mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và nhu cầu điện rất cao.

Trong quá trình triển khai cụ thể quyết sách của Quốc hội về phát triển điện hạt nhân, những yếu tố cần thiết được đẩy nhanh như kết cấu hạ tầng, lựa chọn nhân lực quản lý, lựa chọn công nghệ được đặc biệt quan tâm. Còn những gì cần thận trọng như loại hình công nghệ, phương thức vận hành, nhân lực quản lý, cơ chế huy động vốn để xây dựng nhà máy cũng được tiến hành ở mức cao nhất trong điều kiện Việt Nam.

Cho đến tháng 11/2016, cân nhắc tất cả các điều kiện, Quốc hội đã ra quyết định dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Giải thích việc dừng khi đó, Chính phủ cho biết không phải do vấn đề công nghệ, an toàn mà điều kiện phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều thay đổi so với lúc quyết định đầu tư dự án. Khi đó, Việt Nam cũng cần nguồn vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng, các dự án trọng điểm tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội...

Nghĩa là phương án như dự định ban đầu đã không còn tính khả thi. Nhưng chỉ là dừng chứ không phải là nói lời tạm biệt với loại hình năng lượng tiên tiến này. Và tỉnh Ninh Thuận, một địa phương tràn đầy nắng gió thay vì là nơi đặt các nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam, vẫn là một trung tâm năng lượng của Việt Nam với các loại hình năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời.

Ninh Thuận vẫn giữ lời hẹn với điện hạt nhân như Quyết định số 1319/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tại quyết định này có nêu: “Giữ các vị trí đã quy hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận (vị trí Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2) làm đất dự trữ chiến lược lâu dài cho năng lượng, đảm bảo thuận lợi để thu hồi sau này khi có yêu cầu thực hiện các dự án quan trọng quốc gia. Quy hoạch để khai thác, sử dụng đất dự trữ chiến lược này hiệu quả, phù hợp quy định pháp luật và đảm bảo lợi ích của người dân... quan tâm đầu tư nâng cấp, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, cấp bách phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân trong vùng quy hoạch địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân”.

… đến việc tái khởi động ở thời điểm “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”

Sau đúng 8 năm tạm dừng, sau khi Trung ương Đảng quyết định chủ trương tái khởi động, tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV, việc quyết định "đánh thức" dự án điện hạt nhân đã được Quốc hội ra nghị quyết để làm cơ sở cho việc đẩy nhanh dự án.

8 năm là một giai đoạn không dài trong lộ trình phát triển đất nước nhưng không khó để nhận ra trong thời gian đó, tiềm năng, thế và lực của đất nước đã tiến rất nhanh. Đặc biệt đất nước đang ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của cả dân tộc, hướng tới những mục tiêu của các thời điểm 100 thành lập Đảng, 100 năm thành lập nước. Nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phát triển một nước Việt Nam hùng cường từ nội lực kết hợp với cơ hội của thời đại đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi mới về không gian cho năng lượng.

Điện đã tạm đủ, nhưng đó là chuyện của ngắn hạn và nhiều thách thức. Yêu cầu phát triển không thể chỉ bằng lòng với những gì có trước mắt mà còn không thể không tính kế lâu dài. Với các yếu tố phát triển tư duy đó đã là cần thiết, với năng lượng, trong đó có điện hạt nhân lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta không tự cho phép mình bỏ lỡ các cơ hội phát triển khi các điều kiện về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cho kỷ nguyên mới của dân tộc, của đất nước đã hội đủ, đã chín muồi.

Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị đã đặt việc phát triển năng lượng hạt nhân trong tổng thể phát triển năng lượng của đất nước trong vài chục năm tới. Theo Quy hoạch điện VIII, tổng công suất hệ thống điện hiện nay vào khoảng 80 GW sẽ phải tăng lên 150 GW vào năm 2030 và lên đến khoảng 570 GW vào năm 2050. Tuy nhiên, các nguồn năng lượng tái tạo và các nguồn điện nền hiện nay đang không ổn định và đang gặp khó. Về cơ bản, nguồn điện than sẽ hạn chế không phát triển với lý do là giảm phát thải. Nguồn điện khí chúng ta sẽ phát triển quy mô phù hợp. Tuy nhiên, điện khí chúng ta phải nhập khẩu từ quốc tế.

Bởi vậy, quyết định tái khởi động dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và nói rộng hơn là triển khai chương trình điện hạt nhân là một chủ trương đúng đắn và hết sức cần thiết nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững. Đây cũng là yếu tố rất quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài với các nguồn vốn tỷ USD vào Việt Nam.

Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, điện hạt nhân chính là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Trong lịch sử có một số sự cố về các nhà máy điện hạt nhân nhưng xét về xác suất là vô cùng thấp. Hơn nữa, những công nghệ hạt nhân hiện nay đã tiến bộ rất xa, trải qua rất nhiều thế hệ mới so với những công nghệ cũ trước đây.

“Việc phát triển nguồn điện hạt nhân sẽ đa dạng nguồn cung, bảo đảm an ninh năng lượng và chuyển dịch năng lượng xanh, giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào 2050 theo cam kết tại COP26. Bên cạnh đó, làm dự án điện hạt nhân còn là cơ hội để nước ta phát triển nhân lực chất lượng cao, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, tham gia vào chuỗi cung ứng công nghiệp điện hạt nhân toàn cầu”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Phát triển điện hạt nhân: Bác bỏ những luận điệu sai trái

Thực tiễn đã chỉ ra, vẫn còn có những thế lực thù địch không muốn thấy một đất nước Việt Nam phát triển bền vững, hùng cường. Chúng không ngừng tung ra những luận điệu xuyên tạc, thậm chí không từ một thủ đoạn, một cơ hội nào để cố tính bôi nhọ, đánh tráo khái niệm để mưu cầu việc chống phá việc phát triển.

Lĩnh vực năng lượng cũng nằm trong số các lĩnh vực mà các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, bôi nhọ. Xuyên tạc tác động môi trường của các dự án thủy điện, chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo gây ngộ nhận, hiểu nhầm phát triển điện gió dưới danh nghĩa tác động đến đời sống địa phương, cộng đồng, tạo dựng hình ảnh tiêu cực của các dự án điện than, dĩ nhiên là trong các luận điệu sai trái thù địch đó, không thể thiếu việc chống đối các dự án năng lượng hạt nhân với “lý do an toàn”

Luận điệu thường thấy của các thế lực phản động là ra sức tuyên truyền rằng “năng lượng hạt nhân là không an toàn” trong khi cố tình gắn với câu chuyện xảy ra với nhà máy điện hạt nhân Fukushima của Nhật Bản. Rồi rằng, “điện hạt nhân là ngoài tầm với của Việt Nam”, là “xài sang khi dân còn đói khổ”.

Tuy nhiên, khi tung ra các luận điệu này, các thế lực thù địch đã cố tình bất chấp một thực tế là công nghệ hạt nhân đã có những tiến bộ đáng kể những năm qua trong việc đảm bảo an toàn và hiệu quả năng lượng, đặc biệt là với thiết kế của các lò phản ứng thế hệ mới cũng như xử lý rác thải hạt nhân.

Để phản bác các quan điểm sai trái và thù địch liên quan đến chính sách năng lượng quốc gia có hiệu quả, cần thiết phải áp dụng một chiến lược đa diện, kết hợp giữa giáo dục, truyền thông và pháp luật. Mục tiêu là không chỉ minh bạch hóa thông tin mà còn tăng cường sự hiểu biết và đồng thuận trong cộng đồng về tầm quan trọng của các chính sách năng lượng.

Cần khẳng định, việc phát triển điện hạt nhân là mối quan tâm không chỉ của các quốc gia phát triển mà còn cả của các quốc gia đang phát triển. Công nghệ hạt nhân hiện đại đã cho phép rút ngắn khoảng cách tiếp cận về công nghệ, về khả năng huy động vốn cũng như trình độ quản lý.

Việt Nam phát triển điện hạt nhân hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn không chỉ cả trước mắt mà lâu dài. Phát triển điện hạt nhân là để tạo ra những bảo đảm cho an ninh năng lượng, an ninh quốc gia, đây là điều mà bất cứ một quốc gia nào cũng phải tính đến.

Những thông tin về quá trình triển khai các dự án điện hạt nhân đều được lan tỏa tới cộng đồng để tạo sự hòa quyện ý Đảng, lòng dân, tạo sự đồng thuận thống nhất cao trong triển khai.

Việc các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, tung các luận điệu sai trái về phát triển điện hạt nhân nói riêng và chính sách năng lượng nói chung đã cho thấy bộ mặt thật đáng lên án của những kẻ tự tách mình ra khỏi dòng chảy phát triển chung của dân tộc, của đất nước. Cùng với thời gian, những luận điệu đó đã không còn thuyết phục được ai, không còn có sức nặng, có chỗ đứng trong tâm tưởng, ý thức và hành động ở một đất nước mà ở đó trình độ nhận thức của người dân, của cộng đồng ngày càng cao như Việt Nam.

(Còn nữa)

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư. Bài viết của tác giả Nguyên Minh - Nguyễn Cường được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư

Chiều 5/12/2024, ngay sau buổi làm việc với tỉnh Ninh Thuận, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới thị sát địa điểm làm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Chuyến thăm sau một thập kỷ

Buổi chiều cuối năm nắng nhẹ, biển Phước Dinh xanh ngắt một màu trước những cánh đồng điện gió chong chóng quay tít. Nhịp sống thường nhật ở thủ phủ năng lượng miền Nam bây giờ là vậy. Ít người biết có một điều đặc biệt, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới trực tiếp thị sát nơi được chọn xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 tại thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm thị sát địa điểm khảo sát xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1

Điều đó phần nào cho thấy sự quan tâm, sâu sát của người lãnh đạo cao nhất trước một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta.

Buổi sáng khi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắc đến chi tiết tròn 10 năm sau chuyến thăm Ninh Thuận của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông mới trở lại Ninh Thuận và rất xúc động trước những đổi thay ở vùng đất “vượt lên nghịch cảnh này”.

Một trong những điều mà Tổng Bí thư quan tâm nhất là lắng nghe tâm tư nguyện vọng của Ninh Thuận, triển khai chủ trương lớn, tạo đột phá phát triển nhưng an toàn cho dân vẫn phải đặt lên hàng đầu. Có lẽ vì thế trong phát biểu của mình, Tổng Bí thư nhiều lần đề cập vấn đề này. Ông khẳng định, điện hạt nhân là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Trong lịch sử có một số sự cố về các nhà máy điện hạt nhân nhưng xét về xác suất là vô cùng thấp. Hơn nữa, những công nghệ hạt nhân hiện nay đã tiến bộ rất xa, trải qua rất nhiều thế hệ mới so với những công nghệ cũ trước đây.

Ý Đảng lòng dân thống nhất

Tổng Bí thư Tô Lâm cũng rất quan tâm tới cuộc sống người dân vùng dự án khi nêu rõ, người dân Ninh Thuận và các địa phương lân cận chia sẻ, dành nguồn lực (đất đai, tài nguyên) để phát triển dự án năng lượng phục vụ sự phát triển cho cả nước, chắc chắn sẽ phải được tái phân phối, thụ hưởng những thành quả xứng đáng của sự phát triển. “Đảng và Nhà nước sẽ phải đảm bảo lựa chọn những công nghệ hạt nhân tốt nhất, chọn những đối tác tư vấn tốt nhất, đào tạo nhân lực quản lý tốt nhất để bảo đảm vận hành an toàn và hiệu quả dự án năng lượng này của quốc gia, không chỉ vì thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ con cháu mai sau” - Tổng Bí thư khẳng định.

Đứng hồi lâu ngắm khu vực ven bờ biển Phước Dinh đẹp như một bức tranh, Tổng Bí thư chăm chú lắng nghe báo cáo của ông Trịnh Minh Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận về dự án. Dõi theo đường chỉ của ông Hoàng trên bản đồ về tuyến đường kết nối ven biển, về triển vọng các khu công nghiệp, dịch vụ, trung tâm năng lượng và đổi mới sáng tạo tương lai, các khu tái định cư cho người dân không xa gần đó, Tổng Bí thư gật đầu hài lòng.

"Nếu làm sớm, làm tốt thì cả vùng biển này sẽ cất cánh. Không chỉ điện hạt nhân mà công nghiệp, dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản lân cận đây vẫn phát huy rất tốt"- Tổng Bí thư nói.

Tại buổi làm việc trước đó, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận báo cáo với Tổng Bí thư Tô Lâm sự đồng thuận cao của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.

Trước đó, trả lời báo chí, ông Trần Quốc Nam – Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận khẳng định, cùng với người dân cả nước, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Ninh Thuận đồng thuận cao về việc xây dựng dự án điện hạt nhân.

Nói về chủ trương tái khởi động điện hạt nhân, ông Trần Quốc Nam nhấn mạnh Ninh Thuận rất vinh dự được gánh một trọng trách quan trọng, là nơi đảm bảo an ninh năng lượng trong kỷ nguyên mới của đất nước.

Đối với tâm tư của người dân tại xã Phước Dinh (huyện Thuận Nam) và xã Vĩnh Hải (huyện Ninh Hải) – nơi từng quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, ông Trần Quốc Nam cho biết bà con mong muốn ổn định đời sống sản xuất, sinh hoạt.

“Ổn định ở đây có nghĩa là không phải bà con ổn định tại vị trí quy hoạch nhà máy điện hạt nhân cũ, mà hiểu là nếu bà con được về nơi tái định cư, nơi di dời mới để nhà nước làm nhà máy, phải là tốt nhất”.

Thật ra sự đồng thuận của người dân đã rõ từ hơn 10 năm trước, khi dự án đang chuẩn bị. Các phóng viên Báo Công Thương ngày ấy từng nhiều lần về vùng biển này ghi nhận ý kiến người dân. Báo Công Thương số ra ngày 29/10/2010 đăng bài “Lòng dân đã thuận” thuật lại chuyện đoàn đại diện nhân dân địa phương đi thăm nhà máy điện hạt nhân ở Nhật Bản. Ông Nguyễn Thành Du - trưởng thôn Vĩnh Trường, huyện Thuận Nam khi ấy kể: “Ở bển nhà máy sạch lắm, ít người làm. Tôi được đi cạnh các lò “hạt nhân” đang hoạt động mà có làm sao. Giáp nhà máy dân vẫn ở sinh hoạt bình thường. Được đi thăm quan, nhìn tận nơi, hiểu cặn kẽ tui về tuyên truyền trong xóm, bà con vui, quyết tâm ủng hộ chủ trương xây dựng nhà máy của Đảng và Chính phủ. Chỉ mong dự án sớm triển khai thôi”.

Trong xóm của ông Du, được đi Nhật còn có già làng Nguyễn Văn Lậy khen nhà máy họ đẹp, nhiều khách du lịch tham quan nên dân quanh vùng sống khỏe. Khi phóng viên hỏi vui: Thế nhà máy xây dựng xong, bác sẽ làm gì? Ông trả lời ngay: Tôi sẽ làm dịch vụ cho khách”.

Báo Nhân Dân số ra ngày 14/11/2010 cũng trích lời già làng Nguyễn Văn Lậy: “Hồi đầu, khi mới nghe tin xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dân trong thôn cũng hoang mang lắm. Nhưng rồi, sau nhiều cuộc hội thảo, nhiều cuộc tiếp xúc với cán bộ Ban chuẩn bị đầu tư dự án và các cán bộ của huyện, tỉnh, nhất là sáu người của thôn được đi tham quan thực tế nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản cuối tháng 7, đầu tháng 8 vừa qua thì bây giờ dân đã thông hết rồi. Ðược giới thiệu đồ án di dân tái định cư rộng 85 ha chỉ cách nơi ở cũ có 5 đến 7 km, đầy đủ các khu chức năng để có thể chuyển đổi nghề, có trường học cho con em, rồi trạm y tế, khu vui chơi... do Sở Xây dựng lập, bà con đều thấy ưng ý lắm”.

10 việc cần làm ngay, thời gian không chờ đợi

Phát biểu tại khu vực Tổng Bí thư thị sát, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên báo cáo với Tổng Bí thư, mọi việc được đồng thuận, Bộ Công Thương sẽ vào cuộc nhanh nhất, tốt nhất có thể để những chỉ đạo của Tổng Bí thư sớm thành hiện thực.

Trước đó, tại cuộc làm việc buổi sáng, Bộ trưởng đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm chắc vấn đề, trình bày rõ 10 “việc cần làm ngay” để giải đáp ý kiến, kiến nghị của địa phương đề nghị làm rõ lộ trình triển khai tái khởi động các dự án điện hạt nhân, gồm:

Thứ nhất, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các địa phương, EVN để rà soát và bổ sung quy hoạch liên quan đến 2 dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận vào Quy hoạch điện VIII. Dự án này dự kiến sẽ được khởi động lại từ tháng 1/2025 và chúng ta cần hoàn thành các công đoạn này trước tháng 3/2025, dự kiến phát điện trước 2035. Đây là một công việc rất quan trọng, bởi trước đó dự án đã bị đóng băng do nhiều lý do, nhưng việc tái khởi động là hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.

Thứ hai, Bộ Công Thương sẽ chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tham mưu xây dựng và ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Điện lực sửa đổi theo qui trình rút gọn, có hiệu lực cùng với hiệu lực của Luật Điện lực sửa đổi (1/1/2025) kèm theo đó là các cơ chế, chính sách cụ thể cho các dự án điện lực.

"Điều đáng mừng là Luật Điện lực sửa đổi đã có các chương quy định về điện hạt nhân, trong đó có các cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư và khuyến khích đầu tư", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Thứ ba, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo, rà soát các công việc và triển khai để giao EVN làm chủ đầu tư các dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Việc này sẽ làm và phải hoàn thành xong trước ngày 1/2/2025 để trùng với thời điểm các quy định có hiệu lực.

Thứ tư, Chính phủ báo cáo cấp có thẩm quyền để xin chủ trương tái đàm phán, ký Hiệp định với Nga hoặc Nhật Bản theo cam kết cũ là vừa hỗ trợ về mặt kỹ thuật, vừa hỗ trợ về tài chính, ưu đãi. Hiện nay công nghệ đã thay đổi, chúng ta cũng cần rà soát đàm phán lại để xem áp dụng công nghệ nào? Vốn vay ra sao? Lộ trình thực hiện thế nào? Công nghệ hiện nay rất tốt, rất rẻ và rất an toàn. Việc này muộn nhất trong quý I/2025, khi có chủ trương là lên đường đàm phán ngay.

Thứ năm, chủ đầu tư (EVN) phải khẩn trương thuê tư vấn để rà soát, cập nhật các thông tin, điều chỉnh dự án để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt lại chủ trương đầu tư hoàn chỉnh dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Theo quy chế các dự án đầu tư lớn 10 tỷ USD phải đưa ra Quốc hội phê chuẩn. Dự kiến sẽ trình Quốc hội muộn nhất là vào đầu quý II/2025.

Thứ sáu, sau khi có chủ trương đầu tư dự án mới theo quyết định của cấp có thẩm quyền, chủ đầu tư sẽ chọn tư vấn xây dựng dự án để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt FS. Dự kiến muộn nhất là đầu quý III/2025.

Thứ bảy, chủ đầu tư EVN rà soát lại nguồn nhân lực đã được đào tạo. Nếu còn điều kiện và có nguyện vọng tiếp tục phối hợp với các đối tác đào tạo lại; đồng thời lập kế hoạch đào tạo mới, chú trọng các đối tác có hỗ trợ về mặt kỹ thuật, công nghệ. Việc này hoàn thành trong quý II/2025.

Thứ tám, EVN khẩn trương rà soát, điều chỉnh, bổ sung (nếu cần) và tiếp tục triển khai xây dựng các dự án hạ tầng điện, nước, khu quản lý vận hành, khu chuyên gia, nhà điều hành… Tất cả những gì chuẩn bị cho dự án này là phải triển khai ngay, không chần chừ, không chờ đợi, không có bất kỳ sự trì hoãn nào.

Thứ chín, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục triển khai dự án di dân tái định cư. Vướng việc gì cần báo cáo Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan hỗ trợ;

Thứ mười, phải làm thật tốt công tác truyền thông để tạo sự đồng thuận trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, 7 nội dung đầu tiên sẽ hoàn thành theo lộ trình đã báo cáo. 3 nội dung cuối là phải triển khai luôn.

Chăm chú lắng nghe phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Tổng Bí thư Tô Lâm rất tâm đắc. Ông nói: "Nếu giải quyết tốt vấn đề năng lượng thì đời sống của nhân dân Ninh Thuận sẽ rất tốt. Đối với điện hạt nhân thì không phải ở đâu cũng làm được, vì vậy, Bộ Công Thương cần phải tham mưu cụ thể về vấn đề truyền tải điện. Chúng ta không sợ dư thừa, phải huy động mọi nguồn lực, thậm chí cả tư nhân để phát huy hết tiềm năng, lợi thế của Ninh Thuận. Điện hạt nhân thì phải là điện công nghệ số, biến đây trở thành trung tâm. Tương lai ở đây là rất sáng, phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương rất ủng hộ việc phát triển này” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Tổng Bí thư đánh giá cao phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên. Những nội dung đó theo Tổng Bí thư là sát thực tiễn và gợi mở nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế, xã hội. “Những ý kiến, kiến nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương rất hay, rất sáng”- Tổng Bí thư Tô Lâm nói.

Hành trình 30 năm đi tìm ‘vùng đất hứa’

Tình cờ bên bờ biển Phước Dinh, chúng tôi gặp TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, người đã gắn bó với hành trình hơn 30 năm hiện thực hoá ước mơ điện hạt nhân.

Anh tâm sự: Chương trình phát triển điện hạt nhân được ấp ủ vào những năm 1970, nhưng tới giai đoạn 1996-2009 mới được nghiên cứu một cách nghiêm túc, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và nhu cầu điện rất cao.

Tại thời điểm 2008 khi lập đề án, Chính phủ tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế được dự báo tăng 9-10%, kéo theo nhu cầu tăng trưởng điện 17-20%, tương tự như hiện nay.

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Vinatom), Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chuẩn bị nguồn chuyên gia kỹ thuật, gần 100 người được Viện cử đi học thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài thông qua xin học bổng, sang Liên bang Nga, Nhật, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ. Ngoài nhóm này, còn có khoảng 450 sinh viên, kỹ sư đi học ở Nga và Nhật Bản theo chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đào tạo chuyên của EVN, gồm đào tạo đại học về điện hạt nhân, nâng cao trình độ, đào tạo cán bộ chủ chốt về công nghệ và an toàn nhà máy điện hạt nhân...

Trở lại với vấn đề tìm nơi đặt nhà máy điện hạt nhân, để hỗ trợ các nước thành viên trong công tác lựa chọn địa điểm, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đã xây dựng và ban hành một Quy trình chặt chẽ về tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn địa điểm xây dựng với 3 công đoạn sau:

Công đoạn 1: Thăm dò địa điểm.

Công đoạn 2: Đánh giá địa điểm.

Công đoạn 3: Nghiên cứu bổ sung trước và sau khi vận hành.

Trong giai đoạn 1996-2000, dự án "Nghiên cứu tổng quan phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam" triển khai và giai đoạn 2001-2007, tiếp tục dự án "Nghiên cứu tiền khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam".

Trong giai đoạn 2011-2015, các đối tác là ROSATOM (Liên bang Nga) và Jined (Nhật Bản) triển khai thực hiện trong dự án "Nghiên cứu khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam".

Ban đầu, các nghiên cứu tìm ra được 20 địa điểm tiềm năng xây dựng nhà máy trên hàng chục tỉnh, thành. Trên cơ sở 20 địa điểm tiềm năng này, lựa chọn ra được 10 địa điểm có xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận và Xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

Mười địa điểm tiềm năng này đã được đưa vào "Báo cáo quy hoạch địa điểm xây dựng các dự án nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam" và trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.

Tại Quyết định số 906/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chinh phủ về quy hoạch định hướng phát triển điện hạt nhân, sau khi xem xét và đánh giá, chỉ có 8 địa điểm được đưa vào quy hoạch.

Như vậy, quá trình tìm kiếm địa điểm để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam đã được triển khai từ gần 30 năm trước. Quá trình nghiên cứu tìm kiếm, phân loại, đánh giá địa điểm đã được triển khai công phu, bài bản trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và xuyên suốt thời gian dài theo đúng các quy định, hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và kinh nghiệm của các nước là đối tác của Việt Nam và cũng đã tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng.

Với các phương án khác nhau, địa điểm Phước Dinh luôn đứng đầu, có điểm cách biệt và thực sự đã được lịch sử lựa chọn cho tới hôm nay.

Điều đất nước cần trong kỷ nguyên vươn mình

Trong câu chuyện chia sẻ với chúng tôi về điều Tổng Bí thư Tô Lâm tâm huyết, sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân, TS. Trần Chí Thành kể về lần tham dự lễ kỷ niệm 70 năm Nhà máy điện hạt nhân Obninsk (LB Nga) gần đây. Năm nay thế giới kỷ niệm 70 năm điện hạt nhân ra đời và nhà máy này nay đã trở thành một bảo tàng, một chứng tích lịch sử về sự phát triển vĩ đại và an toàn của điện hạt nhân trong thế giới đương đại.

Obninsk ngày nay là một thành phố khá thịnh vượng của nước Nga, với nhiều tiềm lực công nghệ và các nhà máy của Công ty Máy tính Kraftway, Công ty Xây dựng Kỹ thuật Luyện kim Rautaruukki, Công ty Dược phẩm Hemofarm, Công ty Lotte Confectionery… Nhưng vào những năm 1940, khi nhà máy mới ra đời và cả sau này vào đầu những năm 1950, không chỉ nỗi nghi ngờ xuất hiện khắp nơi nơi, khiến các chuyên gia cũng thận trọng trước hạt nhân.

Khi Liên Xô tổ chức họp báo, công bố về nhà máy điện hạt nhân, ngay cả Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) cũng rất ngạc nhiên, không nghĩ Nhà máy Obninsk có thể nối lưới điện.

Suốt mấy chục năm, trong quá trình vận hành của mình, Obninsk chưa khi nào gây ra những sự cố rò rỉ ảnh hưởng đến môi trường và người dân sống ở thành phố này. Cả một hệ sinh thái khoa học đã được xây dựng ở Thành phố, với 12 cơ sở nghiên cứu gồm: Viện Kỹ thuật Điện hạt nhân Obninsk, Viện Nghiên cứu Phóng xạ Nông nghiệp và Thú y Nga, Viện Nghiên cứu Khí tượng Nông nghiệp Nga, cùng chi nhánh của các viện nghiên cứu liên bang. Nhà máy không chỉ để cung cấp thêm những hiểu biết hỗ trợ Obninsk và cả ngành năng lượng hạt nhân Nga, mà còn phục vụ nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội thiết yếu (như y học, khí tượng khí hậu, nông nghiệp…).

Tạm biệt biển Phước Dinh với niềm tin và khí thế mới có thể giúp dự án điện hạt nhân đang tăng tốc “một ngày bằng nhiều năm”, tôi ấn tượng mãi với câu nói Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhắc đi nhắc lại trong buổi làm việc tại Ninh Thuận: “Thời gian không chờ đợi ai!”. Tôi cũng suy ngẫm và liên hệ tới bài học từ bảo tàng điện hạt nhân, nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới mà TS Trần Chí Thành chia sẻ.

Khi nhìn lại thành công của nền khoa học hạt nhân cho chúng ta rất nhiều bài học quý giá. Nó khiến mọi người thấy rằng, một nhà máy điện hạt nhân như ở Obninsk hay Phước Dinh có nhiều vai trò lớn đối với một quốc gia, không chỉ là việc cung cấp nguồn điện ổn định và tin cậy mà hơn thế là bước lên những tầm cao hơn của khoa học, công nghệ và quản lý cùng những năng lực khác mà đất nước rất cần trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam!

(Còn nữa)

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

    Trước         Sau    
Mobile VerionPhiên bản di động