Sử dụng than nhập khẩu phối trộn với than nội địa là một trong những giải pháp căn cơ |
Nhu cầu than rất lớn
Việt Nam đang hướng đến phát triển các nguồn năng lượng mới, nhưng trong vài thập kỷ tới, nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất điện năng. Theo Quy hoạch điện VII (chưa hiệu chỉnh), năm 2020, nhiệt điện than sẽ chiếm khoảng 48% công suất và 46,8% sản lượng điện cả nước. Năm 2030, các tỷ lệ này dự kiến sẽ là 51,6% và 56,4%.
Vì vậy, lượng than tiêu thụ sẽ tăng mạnh. Nhu cầu than cho ngành điện năm 2015 là 33,3 triệu tấn; năm 2020 dự kiến là 79 triệu tấn và năm 2025 tới 116 triệu tấn. Trong khi đó, cung ứng than trong nước nhiều khả năng không thể tăng, chỉ khoảng 31- 32 triệu tấn/năm, nên lượng than nhập khẩu sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn (khoảng 50 triệu tấn năm 2020, trên 80 triệu tấn từ sau năm 2030).
Công nghệ đốt than trộn
Nghiên cứu công nghệ đốt than trộn (than khó cháy trộn với than dễ cháy), nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nhiên liệu tại các nhà máy điện đốt than được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu, ứng dụng thành công.
Rút kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam đã thử nghiệm đốt than trộn tại Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình, tỷ lệ trộn thay đổi là 5- 30% than á bitum của Indonesia- loại than có chất bốc cao, dễ cháy so với than antraxit của Việt Nam.
Nghiên cứu được tiến hành theo Đề tài KC.05.25/11-15 do PGS. TS. Trương Duy Nghĩa- Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam (VTA), thực hiện. Kết quả thu được bằng thực nghiệm đã tính toán được hiệu suất lò hơi tăng từ 1- 5%. Trong trường hợp này, độ mịn than cho phép giảm, do đó, năng suất của máy nghiền than tăng lên. Khi năng suất của máy nghiền than tăng lên thì điện năng tiêu thụ cho việc nghiền than giảm đi mà vẫn cháy tốt, đó là ưu điểm. Một điều nữa, khi khởi động đốt lò hơi có phụ tải tối thiểu, không kèm dầu giảm đi 10%, tức là trước đây thiết kế 65% thì bây giờ giảm xuống 55%, đó cũng là một ưu điểm của đốt trộn than.
Kết quả thực nghiệm cho thấy một ưu điểm nữa, các hệ thống máy nghiền, hệ thống nghiền than, hệ thống chất đốt có thể dùng than trộn mà không phải cải tạo thiết bị, công nghệ. Như vậy, về nguyên tắc, chúng ta có thể thực hiện được các kết quả nghiên cứu với trường hợp đốt đến 30% than á bitum và 70% than antraxit mà không cần thay đổi kết cấu thiết bị. Đây là một ưu điểm mà các nhà máy nhiệt điện của Việt Nam có thể ứng dụng. Đáng chú ý, trong quá trình đốt than trộn không xảy ra hiện tượng đóng xỉ, chảy xỉ, sập xỉ. Hệ thống thải xỉ tự động của lò hơi vận hành ổn định. Hệ thống khử bụi tĩnh điện làm việc tốt hơn do đã giảm được nồng độ bụi đầu vào xuống dưới định mức.
Như vậy, nếu tất cả các nhà máy nhiệt điện than trong nước đều áp dụng công nghệ trộn than như ở Ninh Bình thì hiệu suất toàn ngành Điện sẽ tăng đáng kể. Năm 2015, Việt Nam tiêu thụ khoảng 33,3 triệu tấn than cho sản xuất điện. Chỉ cần tiết kiệm 1% nhiên liệu thì sẽ giảm được 333.000 tấn than, tương đương gần 33 triệu USD (trung bình 100 USD/tấn), chưa kể còn giúp giảm 10% lượng tro thải, giảm 10% hàm lượng carbon trong tro, giảm 2-5% tổn thất do than chưa cháy hết.
PGS.TS Trương Duy Nghĩa: Trong thời gian tới, công nghệ trộn than cho các nhà máy nhiệt điện thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng ở Việt Nam. |