Sáng nay (1/8), Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (Ipsard) (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi ngành nghề và tạo việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn vùng ĐBSCL”.
Phần lớn lao động trong ngành nông lâm thủy sản chưa qua đào tạo
Chia sẻ kết quả khảo sát của Ipsard trên địa bàn 7 tỉnh ĐBSCL gồm: An Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Long An và Bình Dương về chuyển đổi ngành nghề và tạo việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL, bà Trần Thị Thanh Nhàn – Phó trưởng Bộ môn nghiên cứu Thị trường và ngành hàng (Ipsard) – cho hay, lao động khu vực này đang có xu hướng già hóa, tỷ lệ lao động trong độ tuổi dưới 35 giảm từ 45,5% năm 2012 xuống còn 38,9% năm 2017, lao động từ 50 tuổi trở lên tăng từ 20,7% lên 26,8%. Trong ngành nông lâm thủy sản, lao động dưới 35 tuổi giảm 37,4% xuống 26,2% và lao động từ 50 tuổi trở lên tăng 24,1% lên 34,1%.
Lao động nông nghiệp nông thôn: Lực lượng lớn nhưng trình độ, kỹ năng còn nhiều hạn chế |
Phần lớn lao động trong ngành nông lâm thủy sản là chưa qua đào tạo, nhưng trình độ lao động nông nghiệp ngày càng được cải thiện khi tỷ lệ chưa qua đào tạo giảm từ 97,1% năm 2011 xuống còn 90,8% năm 2017. Năng suất lao động ngành dịch vụ và công nghiệp xây dựng cao hơn hẳn so với ngành nông lâm thủy sản. Lao động có xu hướng dịch chuyển từ nông lâm thủy sản sang công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
Trong nội ngành nông lâm thủy sản, lao động dịch chuyển từ ngành nông nghiệp sang ngành thủy sản. Lao động phi chính thức vùng ĐBSCL chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước, tuy nhiên có xu hướng giảm dần. Thu nhập bình quân lao động vùng ĐBSCL tăng dần, tuy nhiên, thu nhập lao động ngành nông lâm thủy sản thấp nhất, thấp hơn 1,6 lần so với công nghiệp - xây dựng và 1,1 lần so với dịch vụ. Tuy nhiên, khoảng cách này đang được thu hẹp dần.
Lao động nông lâm thủy sản chủ yếu là người già, kỹ năng kém, tình trạng thiếu lao động khi vào vụ. Lao động phi nông nghiệp tại tỉnh không có nhiều cơ hội việc làm trong tỉnh, tuy vậy, tình trạng tuyển lao động khó khăn, lương thấp, công việc đối với các doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản không ổn định…
Về rào cản trong chuyển đổi ngành nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn vùng ĐBSCL, bà Trần Thị Thanh Nhàn cho rằng đầu tiên xuất phát từ chính bản thân người lao động. Cụ thể, trình độ lao động thấp, thiếu kỹ năng, tính chuyên nghiệp, ý thức người lao động thấp… Cạnh đó, rào cản đến từ chính thị trường lao động tại địa phương. Theo đó, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp giảm, cơ cấu chuyển dịch chậm dẫn tới thu nhập người làm nông lâm thủy sản thấp. Việc phát triển của các doanh nghiệp khu vực này còn hạn chế. Điều tra của Ispard cũng chỉ ra, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp khu vực này thấp nhất cả nước - chỉ ở con số 8% so với con số 21% ở đồng bằng sông Hồng và 120% ở Đông Nam bộ. Phát triển hợp tác xã (HTX), liên kết còn khó khăn, chưa phát triển được các HTX chế biến, HTX nông lâm thủy sản giảm 8,8%/năm giai đoạn 2012-2017.
Thiếu sự kết nối giữa cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp
Tại hội thảo, kinh nghiệm, yếu tố thành công hay khó khăn thách thức đối với các địa phương trong vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu của tái cơ cấu nông nghiệp, trong vấn đề triển khai các chương trình, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn hay phát triển các làng nghề để giải quyết việc làm, giữ lao động ở lại nông thôn cũng được các chuyên gia chia sẻ và thảo luận.
Ông Trương Tiến Thọ - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh An Giang – cho rằng, trong lĩnh vực đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn thì sự phối hợp giữa các cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp chưa thực sự chặt chẽ. Điều này đã ảnh hưởng đến công tác đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động. Cạnh đó, hầu hết các cơ sở dạy nghề chưa tiếp cận với doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu tuyển dụng, ngược lại, các doanh nghiệp cũng chưa đạt ra tiêu chí người lao động phải có tay nghề trước khi tuyển dụng.
Liên quan đến vấn đề này, bà Trần Thị Thanh Nhàn cho hay, ĐBSCL là vùng được hỗ trợ đào tạo lớn nhất cả nước nhưng hiệu quả đào tạo lại thấp nhất, có 78,3% lao động được đào tạo có việc làm (trung bình cả nước là 81,3%). Thực tế, có 93,7% lao động được đào tạo nghề phải tự tạo việc làm; có 4,15% lao động được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm và chỉ có 0,98% lao động được doanh nghiệp tuyển dụng. Nguyên nhân do việc triển khai các chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn thiếu thực tế, tập trung vào lý thuyết quá nhiều. “Phần lớn các doanh nghiệp không tuyển được lao động đã được đào tạo ở khu vực phi nông nghiệp. Nguyên nhân do, nếu họ tuyển lao động có đào tạo thì phải trả mức lương cao hơn 7% so với lao động chưa qua đào tạo, trong khi họ vẫn phải đào tạo lại khi sử dụng lao động này”, bà Trần Thị Thanh Nhàn nhấn mạnh.
Câu hỏi đặt ra là giải pháp nào trong việc chuyển đổi ngành nghề và tạo việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn khu vực này? Ông Trần Công Thắng – Phó Viện trưởng Phụ trách Ipsard – nhận định, trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu, đất nông nghiệp đang thu hẹp dần đòi hỏi đặt ra các chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn để có năng lực cũng như kỹ năng mới để phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Ông Trần Công Thắng cho rằng, việc ưu tiên đào tạo các ngành nghề phù hợp với ngành lĩnh vực sản xuất chuyển đổi là vấn đề được đặt ra. Cạnh đó, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư doanh nghiệp tại các địa phương. Tích cực triển khai chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), hỗ trợ đầu tư khởi nghiệp đặc biệt cho lao động trẻ. Đồng thời, hướng đến xuất khẩu lao động nông nghiệp cũng là giải pháp được tính đến. Ông Trần Công Thắng kiến nghị, cần nghiên cứu thị trường lao động trọng điểm về phân khúc thị trường, chính sách nhập khẩu lao động, yêu cầu của từng thị trường. Tăng cường liên kết, hợp tác với các quốc gia sản xuất nông nghiệp tiên tiến trên thế giới; Khuyến khích và ưu tiên lao động trẻ có trình độ tham gia xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Tiếp tục đẩy mạnh chính sách tín dụng ưu đãi, linh hoạt đối với xuất khẩu lao động.