Cuộc chiến thương mại toàn cầu nhìn từ các con số
Toàn cầu hóa có thể đã bị đình trệ trong bối cảnh địa chính trị căng thẳng trong những năm gần đây - nhưng nhiều người nghi ngờ điều đó sẽ ngược lại khi các chuỗi cung ứng đã được định vị lại và khối lượng thương mại tổng thể ít bị xáo trộn hơn lo ngại ban đầu. Thương mại song phương trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc rõ ràng đã bị rạn nứt trong 6 năm áp dụng thuế quan trả đũa lẫn nhau, những bất ổn sau đại dịch cũng như tất cả các cuộc cạnh tranh chính trị và đầu tư ngày càng gay gắt kể từ khi xảy ra chiến sự Ukraine. Và kể từ khi cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump phát động cuộc chiến thương mại thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc vào đầu năm 2018, thị phần xuất khẩu của Trung Quốc tại Mỹ thực sự đã giảm từ mức cao 21,6% trong năm 2017 xuống chỉ còn 14% vào năm ngoái.
Ảnh minh họa, nguồn RTS |
Chính quyền hiện tại của Tổng thống Joe Biden chỉ đơn thuần củng cố ác cảm thương mại với Trung Quốc bằng chiến lược 'giảm rủi ro' của riêng mình khi tình hình địa chính trị xung quanh Đài Loan và Ukraine trở nên tồi tệ hơn. Sự đổ vỡ đó có thể thấy rõ nhất ở chỗ sau 16 năm là nước xuất khẩu hàng hóa lớn nhất sang Mỹ, Trung Quốc đã nhường vị trí đó cho Mexico vào năm 2023. Và nếu ông Trump thành công trong nỗ lực quay trở lại Nhà Trắng trong cuộc bầu cử năm nay, lời hứa của ông về những điều tương tự - đưa ra mức thuế thậm chí cao hơn 60% đối với hàng hóa Trung Quốc - có nghĩa là bất kỳ việc sửa chữa liên kết thương mại trực tiếp nào cũng là một viễn cảnh xa vời.
Nghiên cứu thương mại thế giới hàng năm của Tập đoàn tư vấn Boston (BCG) dự đoán rằng rạn nứt giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ ngày càng sâu sắc và chứng kiến giá trị thương mại song phương giữa họ giảm gần 200 tỷ USD trong thập kỷ tới - gấp hơn ba lần so với 10 năm qua.
Tuy nhiên, những lo ngại rằng mối quan hệ rạn nứt sẽ gieo mầm mống cho sự 'phi toàn cầu hóa' thương mại rộng hơn vẫn chưa được xác nhận. Theo phân tích mới nhất của các chuyên gia Stephen Jen và Joana Freire tại Eurizon SLJ Capital, tổng thương mại xuyên biên giới tính theo tỷ lệ sản lượng toàn cầu hầu như không thay đổi và tỷ trọng 22% thương mại phi dầu mỏ trên GDP hiện nay là trong vòng 20 năm tới.
Hơn nữa, 15% thị phần xuất khẩu thế giới của Trung Quốc cũng không thay đổi - nước này vẫn là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới ở một khoảng cách nào đó. Trung Quốc được cho là đã thành công trong việc vượt qua thuế quan của Mỹ bằng cách đầu tư trực tiếp mạnh vào các nước thứ ba như Mexico và Việt Nam mà Mỹ vẫn sẵn lòng nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa trung gian sang các nước thứ ba này để lắp ráp cuối cùng nhằm tránh các rào cản thương mại của Mỹ.
Phân tích BCG cũng chỉ ra điều đó, cho thấy các tuyến đường quen thuộc xác định bản đồ thương mại thế giới đang được vẽ lại như thế nào, các khối đóng vai trò lớn hơn và các quốc gia "thứ ba" đóng vai trò là người trung gian cho những người ở vị trí bất đồng hoặc các công ty toàn cầu đang cố gắng di chuyển giữa hai bên.
Tuy nhiên, tổ chức này dự báo rằng tăng trưởng thương mại thế giới trong thập kỷ tới thực sự sẽ chậm hơn tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu. Thế giới của chuỗi cung ứng "tái chuyển giao" hoặc "kết nối đồng minh" với một số đặc điểm trong 10 năm tới. Đầu tiên là việc củng cố 'thành trì' Bắc Mỹ giữa Mỹ, Canada và Mexico - với thương mại của Mỹ sẽ tăng gần nửa nghìn tỷ đô la với các nước láng giềng này vào năm 2032.
Một xu hướng khác có thể sẽ chứng kiến các quốc gia Đông Nam Á trở thành những người hưởng lợi lớn nhất, với dự báo thương mại tích lũy của ASEAN sẽ tăng 1,2 nghìn tỷ USD trong thập kỷ tới - phần lớn là do các công ty áp dụng chiến lược đa dạng hóa "Trung Quốc + 1" tại những quốc gia được coi là nhìn chung không liên kết. Và, như nhiều phân tích đã chỉ ra, họ coi Ấn Độ là nước hưởng lợi lớn - với mức tăng trưởng thương mại trị giá 393 tỷ USD cho đến năm 2032, bao gồm mức tăng 180 tỷ USD với Mỹ và mức tăng thương mại với Trung Quốc là 124 tỷ USD.
Các chuyên gia cho rằng sự ổn định tương đối cho đến nay của thương mại toàn cầu nói chung đối với sự rung chuyển địa chính trị này có những hậu quả tiềm ẩn khác - một trong số đó là nhịp lạm phát đáng lo ngại từ các chuỗi cung ứng "tái đưa vào bờ" có thể rất khác biệt.
Nếu hoạt động sản xuất chỉ đơn thuần được chuyển từ Trung Quốc sang các nước đang phát triển có chi phí rẻ hơn - thường rẻ hơn so với Trung Quốc đang phát triển vào thời điểm này và không trở về 'quê hương' của các nền kinh tế giàu có đắt đỏ như một số giả định - thì lạm phát hàng hóa có thể tiếp tục giảm. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ đối với kịch bản tương đối lành tính đối với cả Trung Quốc và Mỹ.
Đầu tiên là thiệt hại đối với khả năng leo thang chuỗi giá trị sản xuất của Trung Quốc do sự sụt giảm gần đây về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nguồn 'bí quyết' và nghiên cứu ở nước ngoài vẫn được coi là rất cần thiết cho sự phát triển của nước này. Và đối với Mỹ, bất kỳ nhận thức nào về mối đe dọa thuế quan 60% của Trump đều có thể thúc đẩy lạm phát trong nước một cách khó tránh khỏi. Cho đến nay, Trung Quốc đã cố gắng duy trì vị thế thống trị của mình với tư cách là cơ sở sản xuất ưu việt của thế giới.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cũng cho rằng việc các nhà đầu tư nước ngoài rút lui khỏi Trung Quốc – một sự thay đổi trong toàn cầu hóa tài chính – có thể gây tổn hại nhiều hơn đến triển vọng tăng trưởng dài hạn của Trung Quốc. Chuyên gia Davide Oneglia của TS Lombard đã nghiên cứu sâu hơn về hoạt động “rút vốn về nước” hay chuyển vốn khỏi Trung Quốc và cho rằng nó chỉ mới ở giai đoạn sơ khai và có thể còn phải tiến hành thêm nữa.
Dòng vốn đang được chuyển hướng sang các thị trường phát triển và các thị trường mới nổi khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn được điều chỉnh theo rủi ro và tài trợ cho các chương trình nghị sự ‘giảm rủi ro’ và ‘bảo vệ các đồng minh mới của phương Tây - nhưng cũng để tài trợ cho những nỗ lực của chính Trung Quốc nhằm tăng cường chỗ đứng ở thị trường nước ngoài.