Công nghệ sinh học giúp cải thiện nguồn cung thực phẩm và sức khỏe
Đưa ra các tranh luận và bằng chứng về tính an toàn, giá trị dinh dưỡng cũng như ảnh hưởng của cây trồng biến đổi gen lên sức khoẻ con người, PGs. Ts Phạm Văn Hoan - Phó Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam - cho hay, nhiều tổ chức lớn và uy tín trên thế giới như: Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO )… đều khẳng định thực phẩm biến đổi gen là an toàn, có giá trị dinh dưỡng tương tự như thực phẩm không biến đổi gen và chưa thấy có ảnh hưởng tiêu cực lên sức khoẻ con người. “Công nghệ sinh học đã được ứng dụng rộng rãi vào các ngành sản xuất và đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, y dược, thực phẩm và môi trường. Trong đó, nổi bật hơn cả là lĩnh vực y dược, tạo hiệu quả cao trong phục vụ chẩn đoán và điều trị. Riêng lĩnh vực dược phẩm, công nghệ sinh học được ứng dụng để sản xuất: Cytokine, enzyme, hormone, yếu tố đông máu, vaccine, kháng thể đơn dòng,…”, PGs. Ts Phạm Văn Hoan nhấn mạnh.
Công nghệ sinh học giúp cải thiện nguồn cung thực phẩm và sức khỏe |
Liên quan đến hiện trạng ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp trên toàn cầu, bà Rhodora R. Aldemita – Giám đốc trung tâm SEAsia – Giám đốc Trung tâm Kiến thức toàn cầu về công nghệ sinh học, Tổ chức Quốc tế về Tiếp thu các ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA) - khẳng định, công nghệ sinh học là một trong các lựa chọn để đảm bảo an ninh lương thực, ổn định kinh tế và môi trường bền vững. Công nghệ sinh học tiếp tục đóng vai trò quan trọng để đảm bảo mục tiêu đạt 50% nhu cầu thực phẩm vào năm 2050, có thể giúp giải quyết các thách thức như: Quá trình tăng dân số, đô thị hoá, già hoá; biến đổi khí hậu; năng suất nông nghiệp và sự đổi mới…
Tại Việt Nam, cây trồng biến đổi gen và những ứng dụng của công nghệ sinh học hiện còn chưa được nhiều người biết đến. Hiện Việt Nam nhập khoảng 7 -8 triệu tấn ngô, khoảng 5 - 7 triệu tấn đậu tương và sản phẩm đậu tương; trong khi đó năm 2017, Trung Quốc nhập 95 triệu tấn đậu tương và hàng chục triệu tấn ngô. GS. TS Lê Huy Hàm – Chủ tịch Hội đồng Khoa học, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam – nhận định, công nghệ gen đã giúp châu Mỹ sản xuất ra lượng lương thực lớn với giá cả hợp lý.
Tại Hội thảo, Ts. Nguyễn Xuân Cảnh - Phó Trưởng khoa Công nghệ sinh học – Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng đã trình bày báo cáo: “Ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng thế hệ mới: Ưu điểm và ứng dụng”. Cho tới nay, đã có 26 quốc gia trồng 191,7 triệu ha cây trồng công nghệ sinh học, tăng gần 113 lần so với năm 1996. Như vậy, công nghệ sinh học có tiềm năng và triển vọng vô cùng lớn đối với sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cần có các biện pháp đánh giá, quản lý nguy cơ và rủi ro của cây trồng công nghệ sinh học đối với con người và môi trường.
Theo các chuyên gia, công nghệ sinh học là một trong các lựa chọn để đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, ổn định kinh tế và môi trường bền vững. Đặc biệt, công nghệ sinh học có tiềm năng và triển vọng vô cùng to lớn trong phát triển nông nghiệp, được coi là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm toàn cầu. Bên cạnh đó, cây trồng biến đổi gen giúp giảm chi phí, tăng lợi nhuận, đem lại lợi ích kinh tế cao và đã được nhiều nghiên cứu và các tổ chức uy tín trên thế giới công bố là an toàn đối với sức khoẻ con người.
Để người tiêu dùng có cái nhìn đúng đắn, khoa học về công nghệ sinh học và thực phẩm biến đổi gen, các chuyên gia cho rằng, cần tiếp tục thông tin, giáo dục và truyền thông. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp đánh giá, quản lý nguy cơ và rủi ro của cây trồng công nghệ sinh học đối với con người và môi trường. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống quản lý, sản xuất cây trồng công nghệ sinh học an toàn, hiệu quả và bền vững, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.