Cảnh báo sớm về điều tra phòng vệ thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp
Tính đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã đối diện với 234 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại tại 24 thị trường khác nhau; các mặt hàng bị điều tra ngày càng đa dạng. Để hỗ trợ các doanh nghiệp có sự chuẩn bị trước, chủ động hơn trong việc xử lý, ứng phó với các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, công tác cảnh báo sớm đóng vai trò hết sức quan trọng. Bà Nguyễn Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã trao đổi về vấn đề này.
Thông tin cảnh báo sớm sẽ giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó hiệu quả hơn trước các vụ kiện về phòng vệ thương mại. Ảnh: TTXVN |
Bà có thể nêu một số đặc điểm nổi bật về các vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua?
Tính từ năm 2017 - thời điểm xu hướng bảo hộ và phòng vệ trên thế giới tăng lên - đến bây giờ là khoảng 6 năm, thì các vụ việc phòng vệ thương mại trong giai đoạn này so với các vụ việc mà chúng ta đã đối mặt trước đây có ba đặc điểm chính khác biệt, mà ba đặc điểm này đều gây khó khăn, vất vả cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Thứ nhất, số lượng các vụ việc phòng vệ thương mại ở trong vài năm trở lại đây tăng nhanh hơn nhiều so với giai đoạn trước đây. Theo thống kê của chúng tôi, từ năm 2017 đến nay số lượng vụ việc phòng vệ thương mại mà hàng hóa xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt ở các thị trường nước ngoài chiếm tới trên 52% tổng số vụ việc phòng vệ thương mại mà chúng ta đã đối mặt trong hơn 30 năm qua. Trong đó, số vụ việc chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại mà chúng ta bị kiện từ năm 2017 đến nay chiếm tới gần 60% tổng số vụ kiện chống lẩn tránh mà chúng ta đã phải đối diện từ trước đến nay.
Thứ hai là về các mặt hàng. Ở giai đoạn cuối năm 90, đầu những năm 2000 thì những mặt hàng mà chúng ta bị kiện chủ yếu là những mặt hàng mà chúng ta có kim ngạch xuất khẩu lớn và có thế mạnh trong xuất khẩu hoặc là mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, như thủy sản hay giày dép. Nhưng ở giai đoạn gần đây thì số lượng các mặt hàng và lĩnh vực của các ngành hàng bị kiện phòng vệ thương mại đã mở rộng hơn nhiều. Thống kê của chúng tôi cho thấy, tính đến hiện nay, có tới gần 40 mặt hàng đã bị kiện phòng vệ thương mại, trong đấy có những mặt hàng mà chúng ta cũng chỉ mới khai phá thôi và kim ngạch không quá lớn.
Thứ ba là đặc điểm về mặt thị trường. Trước đây chỉ ở những thị trường xuất khẩu trọng điểm của chúng ta mới bị kiện phòng vệ thương mại, nhưng đến nay thì có thể thấy là các thị trường khác, kể cả những thị trường mới của chúng ta, có số vụ việc phòng vệ thương mại cũng chiếm tỷ lệ rất lớn. Trong tổng số 235 vụ việc tính đến thời điểm hiện tại thị trường Hoa Kỳ chiếm 23% số vụ việc, Ấn Độ chiếm 14%, Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 10%, sau đó là Canada, EU, Philippines, Indonesia. Chúng ta có thể thấy là ở khắp các thị trường thì chúng ta đều bị kiện phòng vệ thương mại và tổng số 24 thị trường đã từng kiện phòng vệ thương mại đối với Việt Nam.
Bà Nguyễn Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) |
Một số thị trường có truyền thống sử dụng công cụ phòng vệ thương mại như là một trong những giải pháp chống lại sức ép của hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài. Ngoài ra, trong giai đoạn này một số thị trường gặp biến động về kinh tế, họ cảm thấy bất lợi, cạnh tranh khó khăn thì cũng gia tăng việc kiện phòng vệ thương mại.
Về một số ngành hàng bị kiện nhiều hơn, tôi lấy ví dụ như trong so sánh với những sản phẩm khác thì sắt, thép hay nhôm dù không phải là nhóm mặt hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam, nhưng đây lại là nhóm mặt hàng tập trung nhiều nhất các vụ kiện phòng vệ thương mại trên thế giới. Vì thế mà chúng ta cũng bị kiện nhiều hơn.
Thêm vào đó, có những mặt hàng mà chúng ta đang gia tăng năng lực cạnh tranh và gây sức ép lên các ngành sản xuất nội địa ở các thị trường xuất khẩu, có thể là do chúng ta tận dụng được những ưu đãi về mặt thuế quan trong thông qua các hiệp định thương mại tự do, hoặc cũng có thể do chúng ta cũng đang cải thiện năng lực, vì thế những mặt hàng đó nó đang đứng trước nguy cơ bị kiện phòng vệ thương mại nhiều hơn.
Đến nay, bà đánh giá như thế nào về vai trò của thông tin cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện?
Kiện phòng vệ thương mại là một quy trình pháp lý, đấu tranh về mặt kỹ thuật rất phức tạp. Qua theo dõi của chúng tôi, phần lớn các trường hợp chúng ta kháng kiện chưa hiệu quả xuất phát do chúng ta bị động, thời gian chuẩn bị quá ít và bị bất ngờ trong việc ứng phó. Vì vậy, cơ chế cảnh báo sớm cho phép chúng ta nhìn thấy nguy cơ từ xa để chuẩn bị từ sớm và rõ ràng là nó đã giúp chúng ta giải quyết được một vấn đề mà phần lớn các doanh nghiệp gặp phải là không có đủ thời gian.
Đối với một số thị trường, chúng ta hiện nay vẫn đang phải chịu cơ chế “nền kinh tế phi thị trường” trong các cuộc điều tra về phòng vệ thương mại, nên ngoài những khó khăn chung giống như tất cả các nhà xuất khẩu ở các thị trường chúng ta còn khó khăn trong công tác ứng phó và tính toán nhiều vấn đề về mặt kỹ thuật, mà việc đó càng cần nhiều thời gian hơn nữa. Vậy nên, ở trong góc độ này, cơ chế cảnh báo sớm lại càng có ý nghĩa đối với chúng tôi.
Do đó, cảnh báo sớm giúp chúng ta biết nguy cơ từ sớm và có sự chuẩn bị từ rất sớm, từ khi mới chỉ bắt đầu có những dấu hiệu đầu tiên, qua đó giúp cho các doanh nghiệp có thêm điều kiện và chúng ta có thể hy vọng vào những kết quả tốt, giảm thiểu được thiệt hại. Tôi tin rằng, 18 mặt hàng cụ thể mà chúng ta đang cảnh báo, có những trường hợp cuối cùng vụ việc không xảy ra. Đấy là một điều rất đáng mừng, nhưng vụ việc không xảy ra cũng có thể là do chúng ta có cảnh báo và doanh nghiệp có điều chỉnh nhất định trong chiến lược kinh doanh để không xuất khẩu quá mạnh vào thị trường đấy, qua đó chúng ta tránh được việc bị khởi xướng điều tra.
Thời gian tới, theo bà cần có những giải pháp như thế nào cả từ phía cơ quan quản lý nhà nước và từ phía các doanh nghiệp, hiệp hội để chúng ta có thể chủ động hơn nữa trong việc ứng phó các biện pháp phòng vệ thương mại?
Thứ nhất, bản chất của những vụ kiện về phòng vệ thương mại ở nước ngoài là những cuộc đấu tranh pháp lý, cần có những người tham gia chuyên nghiệp và doanh nghiệp bắt buộc phải sử dụng các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp về mặt pháp lý, tư vấn về mặt kinh tế, từ các chuyên gia về phòng vệ thương mại, mà thường là sẽ phải sử dụng các dịch vụ ở chính các nước mà họ đang kiện chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta có hiểu vấn đề mới có cách hành xử đúng và mới phối hợp được tốt với các đơn vị, mới chủ động lựa chọn được đơn vị tư vấn để phối hợp tốt với đơn vị tư vấn cũng như các đơn vị liên quan.
Thứ hai, các vụ việc phòng vệ thương mại là cuộc tranh chấp về mặt lợi ích kinh tế giữa ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu với ngành sản xuất xuất khẩu của chúng ta. Vì thế ngoài câu chuyện mỗi doanh nghiệp phải tự chứng minh cho mình - bởi các tính toán kỹ thuật dựa trên dữ liệu của từng doanh nghiệp, từng lô hàng còn có phần đấu tranh chung mà các doanh nghiệp phải phối hợp với nhau, cùng với hiệp hội và các với cơ quan quản lý nhà nước để chúng ta phối hợp, đấu tranh chung.
Còn từ góc độ hỗ trợ của các cơ quan nhà nước cụ thể là Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương chúng tôi thấy rằng hỗ trợ đầu tiên mà doanh nghiệp cần là thông tin cảnh báo. Và khi vụ việc chẳng may xảy ra thông tin liên quan đến vụ việc cũng rất quan trọng. Khi nước nhập khẩu tiến hành điều tra họ có thể thông tin trực tiếp đến doanh nghiệp, cũng có thể không nhưng họ bao giờ cũng sẽ thông tin về cơ quan quản lý nhà nước của chúng ta là Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương.
Vì thế, tất cả những thông tin về vụ việc, tất cả các yêu cầu và các thời hạn đều có thể tìm được thông tin ở Cục Phòng vệ thương mại, nên khi vụ việc xảy ra các doanh nghiệp cần phải theo dõi rất chặt chẽ các thông tin và hướng dẫn từ Cục Phòng vệ thương mại liên quan đến vụ việc. Ngoài ra, sự hỗ trợ của Cục Phòng vệ thương mại với các hiệp hội, doanh nghiệp để tham gia từng bước trong quá trình kiện phòng vệ thương mại là rất quan trọng, đặc biệt trong những vụ việc mà vai trò của cơ quan nhà nước là không thể thiếu, như các vụ việc chống trợ cấp.
Xin cảm ơn bà!