Các cam kết từ EVFTA: Động lực đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam
Tác động của EVFTA đến quá trình chuyển đổi số của Việt Nam
Hiệp định EVFTA dành riêng Chương 8 để thảo luận về tự do hóa đầu tư, thương mại dịch vụ và thương mại điện tử. Trong đó, mục F của Chương 8 tập trung vào các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử với nội dung: “Các Bên ghi nhận rằng thương mại điện tử làm gia tăng cơ hội thương mại trong nhiều lĩnh vực, sẽ thúc đẩy phát triển thương mại điện tử giữa các Bên, cụ thể là thông qua việc hợp tác đối với các nội dung về thương mại điện tử theo các quy định của Chương này”.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, Hiệp định EVFTA đã và đang góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về chuyển đổi số, cụ thể là thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử giữa EU và Việt Nam. Mục tiêu này được thực hiện thông qua đối thoại thường xuyên về các vấn đề pháp lý liên quan đến thương mại điện tử. Thông qua đối thoại, các tiêu chuẩn, chính sách và khuôn khổ pháp lý liên quan đến thương mại điện tử tại Việt Nam sẽ được nâng cấp từng bước, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình chuyển đổi số quốc gia đang được triển khai trong những năm qua.
Hiệp định EVFTA đã và đang góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về chuyển đổi số, cụ thể là thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử giữa EU và Việt Nam. Ảnh minh họa |
Theo đó, nhằm thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam và EU tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA, nhiều quy định liên quan đến thương mại và đầu tư tại Việt Nam đã và đang được cải cách. Điển hình là việc ban hành các quy định về chứng nhận xuất xứ hoặc truy xuất nguồn gốc điện tử, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trong nước.
Không những vậy, Hiệp định EVFTA cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ dòng vốn đầu tư từ châu Âu vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. EVFTA cùng Hiệp định Bảo hộ Đầu tư giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVIPA) đã góp phần đưa EU lên vị trí thứ 6 trong số các nhà đầu tư FDI nhiều nhất vào Việt Nam với 2,450 dự án, tổng số vốn đầu tư hơn 28 tỷ euro trong năm 2023. Bên cạnh đó, EU hiện là đối tác kinh tế rất quan trọng của Việt Nam, là đối tác viện trợ không hoàn lại lớn nhất, thị trường xuất khẩu lớn thứ 3, thị trường nhập khẩu lớn thứ 5.
Trong chuyến công tác châu Âu vào tháng 1/2024 tham dự Hội nghị thường niên lần thứ 54 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới(WEF) tại Davos, Thụy Sĩ của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã định vị Việt Nam là điểm đến hàng đầu cho giới đầu tư công nghệ cao. Hơn 30 hoạt động và các tọa đàm về hợp tác phát triển trí tuệ nhân tạo, công nghiệp ô tô, chip bán dẫn và hệ sinh thái do Thủ tướng chủ trì trong hai ngày làm việc tại WEF Davos 2024 cho thấy Việt Nam đang tạo điều kiện thuận lợi để thu hút thêm đầu tư vào các ngành này.
Ông Leif Dustin Schineider - Phó Chủ tịch Tiểu ban pháp luật (Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam - Eurocham) nhận định: "Châu Âu vốn rất nổi tiếng với lĩnh vực ô tô, chip bán dẫn hay trí tuệ nhân tạo. Do đó, Việt Nam và EU hoàn toàn có thể trở thành đối tác để phát triển những ngành này trong tương lai''. Đại diện của Eurocham cho rằng việc hợp tác với các đối tác EU sẽ giúp Việt Nam sớm đạt được mục tiêu trở thành trung tâm mới của ngành công nghiệp bán dẫn trong khu vực Đông Nam Á.
"Điều này càng có ý nghĩa hơn khi các nước EU đang nỗ lực tăng khả năng cạnh tranh với các nền kinh tế hàng đầu khác ở châu Á, đặc biệt là trong ngành công nghiệp bán dẫn và ô tô. Với những điều kiện trên, Việt Nam có tiềm năng trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất của EU, vì Việt Nam có thể đáp ứng những mảnh ghép còn thiếu cho bài toán kinh tế hiện tại của châu Âu" - ông Leif Schneider khẳng định.
Đầu tư FDI từ châu Âu sẽ tác động tích cực và lâu dài đến quá trình chuyển đổi số quốc gia. Ảnh minh họa |
Bên cạnh đó, đầu tư FDI từ châu Âu sẽ tác động tích cực và lâu dài đến quá trình chuyển đổi số quốc gia. Các nhà đầu tư hàng đầu châu Âu như Ericsson, ABB, Bosch… đang đóng góp lớn vào việc chuyển giao kiến thức, đổi mới, phát triển công nghệ và thúc đẩy tiến trình số hóa tại Việt Nam. Nhờ chính sách ưu đãi đầu tư, Việt Nam có thể trở thành điểm đến lý tưởng cho các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) về các giải pháp số hóa và chuyển đổi số. Việt Nam hoàn toàn có thể hưởng lợi từ kiến thức, công nghệ và bí quyết chuyên môn mà các nhà đầu tư châu Âu mang lại.
Có thể kể tới trường hợp của Ericsson và Nokia với công nghệ 5G tiên tiến đã và đang hợp tác với các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam như Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) để triển khai và phát triển hạ tầng viễn thông thế hệ mới. Hơn nữa, thông qua quá trình hợp tác với các công ty FDI châu Âu, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội học hỏi và nâng cao kỹ năng quản lý, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý chất lượng.
Nỗ lực chuyển đổi số từ các doanh nghiệp trong nước
Được thúc đẩy bởi tiềm năng to lớn từ EVFTA, các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực nâng cấp và chuyển đổi kỹ thuật sản xuất, kinh doanh để đáp ứng các tiêu chuẩn và quy chuẩn khắt khe của thị trường châu Âu. Để đạt được các yêu cầu tiêu chuẩn châu Âu, các nhà sản xuất Việt Nam cần áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả kiểm soát chất lượng sản phẩm.
Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần tối ưu hóa quy trình hoạt động hiện tại, mang đến trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Một trong những thách thức chính mà EVFTA mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam là chứng minh xuất xứ hàng hóa đối với sản phẩm xuất khẩu sang EU.
Theo quy định của EVFTA, nhà xuất khẩu Việt Nam cần thực hiện thủ tục xin cấp chứng nhận xuất xứ theo phương thức điện tử (giấy chứng nhận EUR.1) và cung cấp đầy đủ các tài liệu liên quan theo yêu cầu. Nhằm giải quyết thách thức này, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam đã bắt đầu ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ blockchain, vào hệ thống truy xuất nguồn gốc hàng hóa.
Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến trong truy xuất nguồn gốc hàng hóa xuất khẩu cần được đẩy mạnh hơn nữa, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông, thủy sản.
Trong những năm qua, nhiều trang trại và doanh nghiệp chế biến nông sản tại các khu vực Duyên hải, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc đã áp dụng thành công công nghệ số vào hệ thống truy xuất nguồn gốc và kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quy trình sản xuất, chế biến. Nhờ vậy, họ đã đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường EU và xuất khẩu sản phẩm thành công sang thị trường này. Đây là những ví dụ điển hình cho thấy tiềm năng và hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ số trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Lợi ích này sẽ ngày càng được nhân rộng ra nhiều địa phương và lĩnh vực khác trong thời gian tới.
Không chỉ vậy, nhu cầu ngày càng cao từ các nhà nhập khẩu và người mua châu Âu về tiêu chuẩn lao động, môi trường, và tiêu chuẩn kỹ thuật buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với môi trường kinh doanh số. Để tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vào các lĩnh vực chuyển đổi số trọng tâm, liên quan tới nội dung tối ưu hóa hoạt động giao nhận và thanh toán, hợp đồng điện tử và hoạt động hậu mãi số.
Tuy nhiên, việc triển khai các giải pháp chuyển đổi số vẫn còn nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong việc tuân thủ các phong tục và văn hóa trên nền tảng số của người mua châu Âu. Việc áp dụng các quy định về giao dịch điện tử cũng cần được đẩy mạnh hơn nữa để tạo môi trường kinh doanh số minh bạch và an toàn.
Ngoài ra, sự tác động của EVFTA không chỉ giới hạn trong khu vực doanh nghiệp mà còn lan rộng sang khu vực công, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa quản trị nhà nước tại Việt Nam. Một chính phủ hiệu quả phụ thuộc vào khả năng lãnh đạo xây dựng một hệ thống quản trị mạnh mẽ và phát huy tối đa vai trò của công nghệ thông tin thông qua chuyển đổi số và các dịch vụ chính phủ điện tử. Trong những năm tới, người dân có thể mong đợi những biện pháp quyết liệt và mạnh mẽ từ phía Chính phủ Việt Nam nhằm đẩy mạnh nỗ lực số hóa các dịch vụ công, đặc biệt là các dịch vụ phục vụ doanh nghiệp, nhà đầu tư, và trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại, đầu tư, hải quan và các lĩnh vực khác.