Áp lực lạm phát năm 2022 và các đề xuất chính sách
Lạm phát gia tăng và suy giảm kinh tế tại nhiều quốc gia
Theo thông tin được đưa ra tại Tọa đàm, rủi ro suy giảm kinh tế và áp lực lạm phát gia tăng trên toàn cầu.
Áp lực lạm phát gia tăng tại nhiều quốc gia trên thế giới |
Cụ thể, nền kinh tế Mỹ đối mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm lại đáng kể trong Quý III/2022, thị trường hàng hóa bị giảm dần dưới tác động của lạm phát tăng cao và các điều kiện tài chính thắt chặt.
Trong khi đó, các nền kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề bởi tác động của căng thẳng Ukraine và lạm phát giá nhập khẩu năng lượng. Suy thoái kinh tế của Trung Quốc đáng kể hơn dự kiến do những tác động tiêu cực do sự lan rộng biến chủng Covid-19 cùng với việc duy trì các hạn chế, cộng thêm khủng hoảng thị trường bất động sản ngày càng sâu sắc, tiêu dùng nội địa và nhu cầu toàn cầu suy yếu.
Theo TS Nguyễn Quốc Việt – Phó Viện trưởng VEPR: Giai đoạn 2022-2023, triển vọng kinh tế toàn cầu xấu đi, tăng trưởng GDP thực tế toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống từ 1,7%-3,7% vào năm 2022 và 1,8-4,0% vào năm 2023.
“Lạm phát ở các quốc gia phát triển đang đạt đến mức chưa từng thấy từ những năm 1980. Lạm phát toàn cầu dự kiến tăng từ 7,2-9,4% vào năm 2022, trước khi giảm xuống 4,0-6,5% vào năm 2023” – TS Nguyễn Quốc Việt thông tin.
Áp lực lạm phát từ phía cầu đã thúc đẩy các ngân hàng trung ương các nước triển khai các chính sách tiền tệ thắt chặt và chạy đua lãi suất, tuy nhiên điều này đồng nghãi với việc nguy cơ suy thoái nền kinh tế toàn cầu đang gia tăng.
Theo các chuyên gia kinh tế, động thái gia tăng lãi suất của một số ngân hàng trung ương các quốc gia sẽ tạo hiệu ứng phụ, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, như: "Bóp ghẹt" sản xuất lẫn tiêu dùng dẫn đến suy thoái kinh tế, người lao động mất việc làm ảnh hưởng đến ổn định và an ninh. Trong trường hợp vòng xoáy đình đốn sản xuất, thiếu hụt nguồn cung khiến lạm phát không giảm đi trong bối cảnh đình trệ sản xuất-kinh doanh.
Các chính sách hỗ trợ, kích thích kinh tế giảm tác dụng so với dự kiến ban đầu. Tăng trưởng giảm, đình trệ sản xuất kéo dài làm nản lòng các nhà đầu tư khiến họ rút khỏi thị trường. Nợ xấu tăng khiến rủi ro hệ thống tài chính, ngân hàng tăng cao, kéo theo rủi ro nợ công.
Áp lực lạm phát từ phía cầu đã thúc đẩy các ngân hàng trung ương các nước triển khai các chính sách tiền tệ thắt chặt và chạy đua lãi suất |
Hàm ý chính sách cho Việt Nam
Theo VEPR, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 8 tháng đầu năm phục hồi mạnh mẽ, các chỉ số kinh tế vĩ mô tích cực, xuất khẩu tăng trưởng khá cao dù các nền kinh tế đối tác gặp khó khăn. Áp lực lạm phát trong nước hiện hữu trong bối cảnh tăng giá xăng dầu và nguyên, nhiên vật liệu đầu vào. Song, theo TS Nguyễn Quốc Việt: Việt Nam vẫn đang kiểm soát tốt tình hình lạm phát, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 8 tháng tăng 2,58% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,67% của bình quân 8 tháng năm 2021, nhưng thấp hơn mức bình quân 8 tháng của các năm 2018-2020.
Dự báo lạm phát cuối năm 2022, nhóm nghiên cứu VEPR cho rằng: Mặc dù hiện tại lạm phát vẫn chưa phải là vấn đề quá lớn, nhưng áp lực lạm phát đã được cảm nhận rõ hơn và sẽ tiếp tục kéo dài trong những tháng cuối năm. Theo đó, căng thẳng tại Ukraine vẫn là nguy cơ lớn nhất đối với lạm phát và giá cả hàng hóa của Việt Nam.
Trong khi đó, TS Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV - cho tằng, từ nay đến cuối năm, lạm phát rừng tháng sẽ tăng lên. Dự báo năm 2023, áp lực lạm phát sẽ còn lớn hơn, khó khăn hơn, điều này sẽ tạo áp lực cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, năm 2022, tăng trưởng GDP dự báo khoảng 7-7,5%, nhưng năm sau sẽ là 6,5-7%.
Dự báo năm 2023, áp lực lạm phát sẽ còn lớn hơn, khó khăn hơn năm 2022 |
Trên cơ sở đó, VEPR đưa ra 5 nhóm giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát những tháng cuối năm. Thứ nhất, cần kiên trì thực hiện các biện pháp ổn đinh kinh tế vĩ mô, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát như chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, cân nhắc có chọn lọc các biện pháp chính sách nhằm hỗ trợ các nhóm sản xuất hoặc người lao động gặp khó khăn do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng cao. Trong đó đặc biệt chú trọng rà soát và thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ cho các nhóm sản xuất và dịch vụ có tính đặc thù cao phụ thuộc vào giá nguyên phụ liệu đầu vào hoặc chi phí logistics tăng cao.
Thứ hai, Chính phủ vẫn phải linh hoạt và kiên trì các chính sách vừa hỗ trợ kiểm soát lạm phát vừa thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững như các Nghị quyết của Quốc hội đã đặt ra. Với tình hình kiểm soát đã rất khả quan như 8 tháng đầu năm, Việt Nam nên dần dần từng bước triển khai các nhóm giải pháp về chính sách bao gồm cả chính sách về tài khoá và tiền tệ mà đã có thể bị trì hoãn, do dự trong thời gian qua để tiếp tục hỗ trợ trong phục hồi kinh tế và phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
“Nếu dự báo cuối năm tình hình lạm phát có thể được kìm chế tốt, thì nên cân nhắc một số động thái nới lỏng hỗ trợ tăng trưởng như nới room tín dụng và đặc biệt triển khai gói hỗ trợ 2% lãi suất theo đúng Nghị quyết của Chính phủ” – TS Nguyễn Quốc Việt thông tin.
Thứ ba, khu vực kinh tế tư nhân qua đại dịch Covid-19 đã chứng tỏ sự linh hoạt và sức chống chịu, vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng đầu tư mạnh mẽ trong và sau dịch Covid-19. Do vậy, để phát triển kinh tế tư nhân, xây dựng một nền kinh tế tự chủ, tự lực và có khả năng hội nhập thì việc quan tâm và hỗ trợ, nhất là những hỗ trợ về vốn và tiếp cận thị trường (cả cung và cầu) cũng như tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nên là ưu tiên chính sách của nhà nước nhằm phục hồi tăng trưởng đồng thời góp phần ổn định thị trường, kìm chế lạm phát trong thời gian tới.
Thứ tư, khu vực kinh tế đối ngoại, nhất là khối sản xuất vẫn sẽ đóng vai trò chủ công đóng góp vào tăng trưởng kinh tế năm nay. Theo đó, cần tiếp tục quan tâm giải quyết những vướng mắc về môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn về thiếu lao động hoặc các yếu tố đứt gãy chuỗi cung ứng là điểm cần lưu ý để hỗ trợ cho khu vực kinh tế đối ngoại và thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong những tháng cuối của năm 2022.
Thứ năm, công tác dự báo và đánh giá chính sách cần làm thường xuyên, và có sự công khai, minh bạch và kịp thời hơn nữa. Các ngành và các cấp cần thường xuyên cập nhật các chính sách và đặc biệt công bố các dữ liệu để các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, tư vấn và phản biện chính sách cũng như báo chí có thể tham gia thực hiện đóng góp và dự báo tình hình kinh tế và có những góp ý điều chỉnh kịp thời các chính sách nhằm vừa ổn định kinh tế vĩ mô vừa đảm bảo mục tiêu phát triển và phục hồi tăng trưởng bền vững trong năm 2022 và 2023 đúng như mục tiêu đạt ra trong Nghị quyết đầu năm của Quốc hội và Chính phủ.