Ùn tắc hàng hóa (container) nhập khẩu tại cảng biển Cát Lái (TP Hồ Chí Minh) đã và đang diễn ra khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, giao nhận, vận chuyển hàng hóa, tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của việc thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống Covid-19. Việc Bộ Tài chính đang khẩn trương soạn thảo Thông tư để giải quyết tình trạng nêu trên, là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, theo đại diện của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tại bản Dự thảo, cơ quan soạn thảo đưa ra nhiều quy định có liên quan đến thủ tục hành chính, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể, nên cần phải được thiết kế thật cụ thể, rõ ràng, minh bạch, qua đó tạo cách hiểu thống nhất giữa các đối tượng áp dụng và thuận lợi khi triển khai, tránh phát sinh vướng mắc, phiền hà.
Chẳng hạn, tại Dự thảo Thông tư, cơ quan chức năng qui định “sản lượng hàng nhập tồn bãi vượt sức chứa thiết kế tối đa cho phép của cảng biển” là một trong những cơ sở để xác định hàng hóa nhập khẩu ùn tắc ở cảng biển. Quy định này chưa đủ rõ ràng, cần quy định sản lượng hàng nhập tồn bãi vượt sức chứa thiết kế tối đa cho phép của cảng biển, gây ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận hàng/giải phóng hàng từ cảng hoặc khai thác cảng biển.
Cảng biển Cát Lái - TP Hồ Chí Minh. Ảnh minh họa |
Dự thảo quy định văn bản của doanh nghiệp kinh doanh cảng biển về sản lượng hàng tồn bãi vượt sức chứa thiết kế tối đa cho phép, phải được cảng vụ hàng hải xác nhận, nhưng lại không có quy định về trình tự, thủ tục để doanh nghiệp có được sự xác nhận này. Theo VCCI, việc điều chuyển hàng hóa để giảm ùn tắc ở cảng biển cần phải thực hiện nhanh, thủ tục cần phải thuận lợi. Do vậy, nên cho phép doanh nghiệp kinh doanh cảng biển thông báo với cảng vụ hàng hải về sản lượng hàng vượt sức chứa thiết kế tối đa cho phép của cảng, mà không cần có sự xác nhận của cảng vụ hàng hải, doanh nghiệp cảng biển tự chịu trách nhiệm về việc này.
Tại Dự thảo Thông tư quy định, doanh nghiệp kinh doanh cảng biển “trong thời hạn 05 ngày làm việc sau thời gian thực hiện Thông tư này, phải báo cáo quyết toán tình hình thực hiện việc vận chuyển hàng hóa”. Quy định này vẫn không rõ thời điểm nào doanh nghiệp phải báo cáo quyết toán tình hình, bởi vì “sau thời gian thực hiện Thông tư này” là không biết thời gian nào? Doanh nghiệp sẽ phải báo cáo cho chi cục hải quan nào (nơi hàng đi hay nơi hàng đến)?
Liên quan đến trách nhiệm của chủ hàng, Dự thảo Thông tư qui định chủ hàng sẽ là một trong các chủ thể chấp thuận việc thực hiện vận chuyển hàng hóa nhập khẩu. Trong khi các chủ thể có liên quan (doanh nghiệp kinh doanh cảng biển, hãng tàu/đại lý hãng tàu; chi cục hải quan) đều có trách nhiệm về việc này, thì chủ hàng lại không có quy định nào đề cập tới. Cần bổ sung quy định trách nhiệm của chủ hàng.
Đối với việc thông báo kế hoạch vận chuyển hàng hóa, Dự thảo Thông tư đưa ra mẫu dưới dạng văn bản giấy, như vậy có thể kéo dài thời gian thực hiện thủ tục, cần thực hiện điện tử hóa việc này. Đồng thời, mẫu thông báo yêu cầu chữ ký của 3 bên, gồm: doanh nghiệp - hải quan nơi đi - hải quan nơi đến, là chưa phù hợp, bởi theo qui định doanh nghiệp chỉ phải xin phê duyệt thông báo kế hoạch này tại chi cục hải quan nơi đi, chi cục hải quan nơi đến chỉ tiếp nhận thông báo. Việc yêu cầu có cả hai chữ ký của chi cục hải quan nơi đến và đi có thể khiến doanh nghiệp hiểu là phải chờ chi cục hải quan hai nơi phê duyệt mới được vận chuyển. Do vậy, cần bỏ chữ ký của chi cục hải quan nơi đến để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.