Chủ nhật 24/11/2024 04:14

Thành tựu kinh tế song hành phát triển quyền con người ở Việt Nam: Dấu ấn tự hào sau gần 40 năm

Trong nhiều năm qua, vấn đề "nhân quyền" và "phát triển con người" ở Việt Nam thường xuyên bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc, chống phá.

Trong nhiều năm qua, vấn đề "nhân quyền" và "phát triển con người" ở Việt Nam thường xuyên bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng làm chiêu bài để xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, tấn công và chống phá sự nghiệp cách mạng của đất nước ta.

Thành tựu về sự phát triển "quyền con người" và "phát triển con người" ở Việt Nam là lời đáp trả thích đáng đối với những thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch (Ảnh minh họa)

Một thủ đoạn được các thế lực thù địch và cơ hội chính trị dùng đi dùng lại là luôn tìm cách lợi dụng những vụ việc phức tạp nảy sinh từ quá trình phát triển ở nước ta hòng bóp méo tình hình thực tế để vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, quyền con người, hạn chế phát triển con người... nhằm kích động các hoạt động chống phá. Thậm chí, chúng còn kêu gọi các tổ chức quốc tế hoặc các cường quốc có biện pháp cấm vận, "trừng phạt" kinh tế, chính trị đối với Việt Nam (!). Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước cũng triệt để lợi dụng các tin tức công khai của báo chí trong nước về những vấn đề tham nhũng, khiếu kiện, tội phạm, tệ nạn xã hội, tình hình dịch bệnh Covid-19; hay việc các đối tượng vi phạm pháp luật, chống phá Nhà nước Việt Nam bị bắt giữ, xử lý... để rêu rao, vu khống về cái gọi là "tình trạng vi phạm nhân quyền".

Bên cạnh đó, thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, đặc biệt là các nền tảng mạng xã hội, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm cách đề cao, cổ súy cho những giá trị về quyền con người, chỉ số phát triển con người ở phương Tây, coi phương Tây là "khuôn vàng, thước ngọc" đối với toàn thế giới. Thậm chí, có những luận điệu hết sức quái gở, nói lấy được như “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, "lợi ích cá nhân là tối thượng"... chỉ để nhằm mục tiêu coi quyền con người là sản phẩm của riêng tư bản phương Tây; và cũng chỉ ở phương Tây mới có thể đảm bảo sự phát triển con người (?).

Những luận điệu này không có gì mới và cũng hầu như không thuyết phục được ai, bởi thực tế ở Việt Nam đã cho thấy cùng với tốc độ phát triển kinh tế, tất cả những giá trị tốt đẹp thuộc về quyền lợi cơ bản của con người đang được tôn trọng, bảo vệ. Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người của nước ta cũng có bước tiến vượt bậc. Tất cả những thành công này đều được cộng đồng khu vực và quốc tế công nhận, đánh giá rất cao.

Quyền con người - giá trị thiêng liêng trong cương lĩnh phát triển đất nước của Đảng

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đây cũng có thể được xem là bản tuyên ngôn về quyền con người của Chính phủ Việt Nam. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới những giá trị bất biến, phổ quát của nhân loại về "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" để khẳng định mục tiêu mà toàn thể Chính phủ và Nhân dân Việt Nam hướng tới sau khi đập tan gông xiềng nô lệ.

Cũng ngay từ khi lập nước và trong khói lửa của hai cuộc kháng chiến, cũng như trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ tổ quốc, từ các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1990 của Nhà nước ta đã thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ, bảo đảm quyền con người.

Nhưng ở góc độ khách quan, cũng cần phải nói thêm rằng, do phải trải qua nhiều chục năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc; nhiều năm bị bao vây cấm vận, nên có một số khía cạnh quyền con người ở Việt Nam mặc dù luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm nhưng do thiếu nguồn lực nên việc thực thi vẫn còn hạn chế.

Từ khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, Việt Nam có bước phát triển vượt bậc về kinh tế. Do đó, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đồng thời, cũng đặt ra nhu cầu công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 quy định bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân… Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 1, Điều 2, Điều 3, Hiến pháp năm 2013).

Kế thừa các quan điểm trong các văn kiện của Đảng từ năm 1991, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) nêu rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là sự nhất quán trong cách tiếp cận vấn đề quyền con người của Đảng ta, theo đó khẳng định chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt Nam.

Như trên đã đề cập, muốn chăm lo, bảo đảm tất cả các khía cạnh về quyền con người thì phải có nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất để thực thi các chính sách. Với những quyết sách đúng đắn, sau gần 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng vượt bậc, từ quy mô 14 tỷ USD năm 1985, đến năm 2022 đạt 409 tỷ USD (theo IMF là 413 tỷ USD).

Song hành với những thành tựu to lớn kinh tế, Đảng và Nhà nước vẫn luôn khẳng định và thực thi phương châm nhất quán: "không để ai bị bỏ lại phía sau", và "không đánh đổi môi trường, an sinh xã hội lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần" như tinh thần Văn kiện của Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển kinh tế”. Có thể thấy rõ qua một số ví dụ sau:

Hiện nay, mạng lưới an sinh xã hội của Việt Nam không ngừng mở rộng diện bao phủ các đối tượng an sinh xã hội và ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của các đối tượng an sinh xã hội. Điều này phản ánh rõ nét qua những chuyển biến tích cực trên các phương diện như: Hệ thống bảo hiểm xã hội; hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm; hệ thống trợ giúp xã hội; hệ thống chính sách ưu đãi cho người có công và hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin, giao thông, nước sạch... ngày càng được cải thiện về chất lượng cũng như quy mô dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư tại các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn.

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vừa qua, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách chưa có tiền lệ về bảo đảm quyền lợi của những người bị tác động của đại dịch thông qua các gói an sinh xã hội hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn trong đại dịch bằng những gói phúc lợi hàng chục ngàn tỷ đồng, bảo đảm các quyền con người cơ bản cho người dân, đồng thời gia tăng năng lực hoạt động cho hệ thống an sinh xã hội để ứng phó hiệu quả với những thách thức mang tính toàn cầu cũng như thiết lập những bảo đảm cần thiết cho sự phát triển bền vững với tầm nhìn trung và dài hạn.

Các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có HIV/AIDS… luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình thực thi quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Trên thực tế quyền của các nhóm này đã đạt được nhiều kết quả tích cực xét theo các tiêu chí, như: chống phân biệt đối xử; tăng cường mức độ sẵn có của các dịch vụ; khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch vụ, cơ hội; mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội; chi phí phù hợp… Tại kỳ bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, (nhiệm kỳ 2021-2026), số lượng nữ là đại biểu Quốc hội là 151 người, chiếm 30,26% (đạt cao nhất từ trước đến nay); Tỷ lệ dân tộc thiểu số tham gia Quốc hội khóa XV là 89 người, chiếm 17,84%. Từ năm học 2017-2018, đã có 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số; 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; 6 bộ sách giáo khoa được xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số…

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta còn tích cực, chủ động và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và thế giới. Điều này thể hiện rõ thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng ‎thuận rất cao những lần Việt Nam gia nhập Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Việt Nam là đồng tác giả, đồng bảo trợ hàng chục nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền, tập trung vào các lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử, xóa bỏ các biện pháp cấm vận đơn phương ảnh hưởng đến thụ hưởng quyền con người, quyền của nông dân, vấn đề dân chủ hóa đời sống quốc tế và tăng cường đoàn kết quốc tế. Đồng thời Việt Nam còn đóng vai trò cầu nối tích cực thúc đẩy hợp tác và đối thoại giữa các nước, các nhóm nước nhằm thúc đẩy cách tiếp cận cân bằng, tiến bộ, hướng tới con người của Hội đồng Nhân quyền trên những vấn đề còn khác biệt ví dụ như về quyền sức khỏe sinh sản, chống bạo hành với phụ nữ…

Với những nỗ lực tích cực, đầy trách nhiệm trong việc thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia và khu vực, Việt Nam đã được các nước thành viên ASEAN tín nhiệm, chính thức đề cử là ứng cử viên duy nhất đại diện cho ASEAN làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2023-2025. Với số phiếu cao, Việt Nam đã chính thức trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền, nhiệm kỳ thứ 2 (2023 - 2025).

Từ "bệ đỡ" kinh tế đến tốc độ phát triển con người (HDI)

Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), trong Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022, Chỉ số Phát triển con người (Human Development Index - HDI) của Việt Nam là 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia.

Báo cáo của UNDP nhận định, Việt Nam thuộc Nhóm Phát triển con người cao từ năm 2019 và đã đạt tiến bộ ổn định trong cả ba khía cạnh của HDI kể từ những năm 1990. Chỉ số Bất bình đẳng giới (Gender Inequality Index - GII) của Việt Nam (đo lường sự sụt giảm phát triển con người do bất bình đẳng giữa nam và nữ) tiếp tục được cải thiện vào năm 2021. GII của Việt Nam là 0,296, xếp hạng 71 trong số 170 quốc gia. Tỷ lệ trẻ em gái đi học và phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng...

Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Việt Nam đã và đang thực hiện tốt bình đẳng giới và đây cũng là thành tựu nổi bật của Việt Nam. Với chỉ số phát triển giới (Gender-related Development Index - GDI) là 0,997 - Việt Nam đứng thứ 65 trong số 162 quốc gia và nằm trong nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất trên toàn cầu.

Về chất lượng phát triển con người, Việt Nam thực hiện tốt các chỉ số y tế, giáo dục, việc làm và phát triển nông thôn. Tất cả giáo viên tiểu học đều được đào tạo, điện khí hóa nông thôn đạt 100% dân số, tỷ lệ thất nghiệp thấp...

Trong giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả hệ thống chính trị đã nhanh chóng vào cuộc, thực thi các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả. Tính đến đầu năm 2023, Việt Nam là một trong những nước triển khai tiêm vắc xin Covid-19 với quy mô rộng rãi, nhiều đối tượng, nhiều mũi tiêm, sử dụng đa dạng các loại vắc xin; Là quốc gia có số liều vắc xin sử dụng, tỷ lệ bao phủ vắc xin cao và tốc độ tiêm chủng nhanh so với các nước trên thế giới. Nhờ kết quả này, nước ta là một trong những quốc gia đầu tiên mở cửa để khôi phục và phát triển kinh tế, bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là những người dễ bị tổn thương với phương châm không để ai bị bỏ lại phía sau.

Có thể lấy thêm một ví dụ về tốc độ phát triển con người Việt Nam, đó là trong môn bóng đá. Với một đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh, bị bao vây cấm vận, sức khỏe thể chất của người Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề. Chính vì vậy, khi thể thao - trong đó có môn bóng đá, quay trở lại với đấu trường quốc tế cách đây khoảng 30 năm, các cầu thủ nam và nữ Việt Nam bị thua thiệt về thể hình, thể lực và thường chỉ đủ sức thi đấu tốt khoảng 2/3 thời gian. Nhưng đến nay, điểm yếu này đã được cải thiện rất nhiều mà thành công của đội tuyển bóng đá nam và nữ trong giai đoạn vừa qua là một minh chứng. Hiện chiều cao trung bình của thanh niên nước ta là 1,68 mét đối với nam và 1,56 mét với nữ, nhưng số lượng người Việt Nam cao trên 1,8 mét với nam và trên 1,7 mét với nữ đã khá phổ biến và đang không ngừng tăng lên.

Bên cạnh vấn đề thể chất, đời sống văn hóa, tinh thần cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thậm chí, với tinh thần cầu thị, không né tránh sự thật, Đảng ta đã yêu cầu: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam”. Nói cách khác, các mặt hạn chế của con người Việt Nam cần phải được nhận biết, được phê bình, tự phê bình nghiêm khắc, cần phải được sửa chữa, học hỏi để vươn lên là một quốc gia mạnh mẽ, phồn thịnh.

Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra chiến lược trong giai đoạn tới là gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc của con người Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện các giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế...

Như vậy có thể khẳng định rằng những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, phát triển con người mà đất nước ta đã đạt được trong gần 40 năm đổi mới, là minh chứng sinh động cho thấy quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người và sự phát triển con người. Như Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn sau 35 năm đổi mới đã xác định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới…; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

Thái Duy

Tin cùng chuyên mục

Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc: Kỳ 3: Khát vọng hùng cường, thịnh vượng

Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc: Kỳ 2: Khai mở dư địa tiềm năng

Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc

Kỳ 1: Nhận diện về những biểu hiện của căn bệnh “sợ trách nhiệm”

Lai Châu: Nhận diện những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm xâm phạm an ninh quốc gia

“Tuần lễ Vàng” – dấu ấn của tinh thần đại đoàn kết dân tộc

Di chúc của Bác mãi mãi đồng hành cùng dân tộc

Cán bộ, đảng viên thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng: Soi chiếu từ Quy định số 144-QĐ/TW

Giải pháp phòng, chống hoạt động ‘xâm lăng văn hóa’ đối với nước ta

Lan tỏa tinh thần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Bộ mặt thật của Việt Tân từ cái gọi là 'hội luận kinh tế thị trường ở Việt Nam'

Bài 5: Đạo pháp bất ly thế gian pháp

Bài 4: Tư cách của tín đồ phải đứng sau nghĩa vụ công dân

Bài 3: Quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về Phật giáo

Bài 2: Họ xa rời Phật pháp chân chính, trái đời ngược đạo

Chấn chỉnh những sai lệch để Phật giáo tốt đời đẹp đạo: Bài 1: Khi thuyết giảng xuyên tạc phá hoại đức tin

Đoàn kết tôn giáo xây dựng đất nước phát triển bền vững

Không công khai do sợ sai

Tổng Bí thư Trần Phú: Tấm gương ngời sáng về sự kiên trung, tận hiến cho sự nghiệp cách mạng

Bài 3: Hướng tới một nền kinh tế cạnh tranh minh bạch, hiệu quả