Tầm vóc của Hiệp định RCEP với 5 tính năng quan trọng
Hiệp định RCEP được thực thi vào đầu năm 2022 có ý nghĩa quan trọng đối với cả các thành viên và trên phạm vi toàn cầu. Hiệp định này có ý nghĩa quan trọng về tư cách thành viên và phạm vi bao trùm và đi xa hơn các hiệp định FTA ASEAN + 1 về phạm vi bao trùm và các cam kết sâu sắc hơn về tự do hóa thương mại. Thỏa thuận cũng có ý nghĩa trong bối cảnh tranh luận về toàn cầu hóa với việc các nền kinh tế thể hiện cam kết tiếp tục hội nhập kinh tế. Đặc biệt hơn, thỏa thuận cũng lấp đầy khoảng trống trong hệ thống thương mại khu vực, mang lại một thỏa thuận giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc nói riêng mà trước đây chưa từng tồn tại.
RCEP có năm tính năng quan trọng. Hiệp định này củng cố khuôn khổ chuỗi giá trị toàn cầu (GVC). GVC phụ thuộc vào một loạt các điều kiện - không chỉ thuế quan mà còn cả đầu tư, dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Tất cả những điều này đều được đề cập trong RCEP. Với sự hiểu biết sâu sắc về thế giới GVC giữa các thành viên, hiệu suất của GVC sẽ là một điểm tham chiếu trong quá trình phát triển của thỏa thuận.
Tất cả các điều khoản đầu tư của thỏa thuận đều dựa trên cách tiếp cận chọn bỏ và vượt quá các cam kết ASEAN hiện có, chẳng hạn như tất cả các yêu cầu xóa bỏ liên quan đến việc sử dụng hàm lượng giá trị nội địa. Hiệp định cũng thiết lập một bộ quy tắc xuất xứ chung, bao gồm tích lũy giá trị qua các giai đoạn sản xuất ở các quốc gia khác nhau và hàm lượng giá trị khu vực là 40%, không quá cao, đặc biệt là trong bối cảnh hiệp định có khối lượng thành viên lớn như vậy.
Việc chuyển sang cách tiếp cận chọn bỏ đối với các cam kết có ý nghĩa quan trọng đối với các dịch vụ. Điều này sẽ thúc đẩy cải cách, vì nó thu hút sự chú ý đến một danh sách các mục tiêu cần giải quyết và mở ra các lĩnh vực kinh doanh mới. Một điều quan trọng nữa là sự chú ý đến các quy định trong nước và các cam kết của các bên ký kết để chấp nhận các thỏa thuận của nhau.
Các điều khoản hợp tác kinh tế trong RCEP sẽ giúp thúc đẩy thay đổi chính sách trong nước, bao gồm cả cải cách quy định. Cải cách đòi hỏi nỗ lực và xây dựng thể chế, và RCEP bao gồm một chương về hợp tác kinh tế để thúc đẩy cả hai. Ví dụ, sẽ là thách thức đối với các thành viên khi chuyển sang các cam kết chọn bỏ, liệt kê những cam kết thực sự quan trọng và loại bỏ những cam kết không quan trọng và có phạm vi trong các thỏa thuận hợp tác kinh tế theo thỏa thuận để hỗ trợ nỗ lực đó. Để có hiệu quả, hợp tác kinh tế phải bao gồm đối thoại hỗ trợ công việc về quy định trong nước.
Chương về thương mại điện tử của hiệp định có nội dung tương tự như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Do đó, nó cũng cung cấp phạm vi miễn trừ như CPTPP và chia sẻ các vấn đề diễn giải. Mặc dù bao gồm ít cơ sở hơn so với một số hiệp định khu vực nhỏ hơn, nhưng kết quả RCEP về sự đồng thuận giữa nhóm các nền kinh tế lớn này, bao gồm cả các nền kinh tế đang phát triển, là rất quan trọng trong bối cảnh các cuộc thảo luận của WTO về thương mại điện tử đang diễn ra.
Giống như nhiều hiệp định do ASEAN dẫn dắt, RCEP bao gồm một chương về các điều khoản thể chế thúc đẩy sự phát triển của hiệp định. Chương này tạo ra kỳ vọng về các cuộc họp cấp bộ trưởng thường xuyên và thành lập một ủy ban chung gồm các quan chức cấp cao và các tiểu ban về các chủ đề khác nhau. Văn bản cũng yêu cầu các quan chức thành lập một ban thư ký cho mục đích đó và hỗ trợ kỹ thuật.
Một ban thư ký RCEP cung cấp phạm vi cạnh tranh và hợp tác trong một môi trường thể chế khu vực vốn đã dày đặc, với APEC và ASEAN. Ban Thư ký ASEAN đã ủng hộ các cuộc đàm phán RCEP nhưng bản chất của mối quan hệ trong tương lai - và các mối quan hệ của các nhóm khu vực khác - với Ban thư ký RCEP vẫn phải được xác định.
Ban thư ký RCEP phải đối mặt với ba thách thức trước mắt. Đầu tiên là thực hiện. Thứ hai là sử dụng, đảm bảo rằng hiệp định dẫn đến thương mại bao trùm hơn trong khu vực và tất cả các doanh nghiệp lớn và nhỏ đều có thể hưởng lợi từ hiệp định này. Thứ ba là nhận thức - các doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều quy tắc khi họ giao dịch qua biên giới, và cách họ hưởng lợi từ RCEP sẽ cần một số giải thích cụ thể.
RCEP cũng có một số hạn chế, chẳng hạn như nhiều biểu thuế (mặc dù một nhóm nhỏ các thành viên có một biểu chung), một số thời gian thực hiện dài và thiếu sự bao quát của các doanh nghiệp nhà nước.
Thỏa thuận cũng có một vài tác động lớn với việc tăng thêm thành viên và gia nhập mới. Ấn Độ hiện đã ra khỏi thỏa thuận, nhưng có thể gia nhập hiệp định khi có đủ điều kiện cần thiết. Điều này sẽ có nhiều khả năng xảy ra hơn khi việc thực hiện thỏa thuận tăng cường sự hội nhập giữa các thành viên, bao gồm cả trong các lĩnh vực như dịch vụ, thương mại điện tử và thuốc gốc mà Ấn Độ có thể đã hoạt động. Khả năng tiếp cận các chuỗi giá trị khu vực cũng có thể ít hơn. Các thành viên hiện tại có thể hỗ trợ Ấn Độ bằng cách tham gia vào các dự án cụ thể.
Các nền kinh tế khác có thể gia nhập RCEP sau 18 tháng hiệp định có hiệu lực. Trong khi tư cách thành viên của RCEP được thúc đẩy bởi vai trò trung tâm của ASEAN - các bên phải có thỏa thuận hiện có với ASEAN - văn bản gia nhập tuân theo các thông lệ tốt nhất của chủ nghĩa khu vực mở. Bất kỳ bên nào cũng có thể tham gia miễn là họ chấp nhận các điều khoản của thỏa thuận và các thành viên hiện tại đồng ý.
Về sự tăng thêm thành viên mới, hiệp định này đánh dấu một cột mốc quan trọng đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. RCEP cùng với CPTPP đã được xác định là một con đường hướng tới hội nhập khu vực rộng rãi hơn. Kết hợp những con đường này lại với nhau sẽ tạo ra tiềm năng to lớn cho thương mại.