Sự ổn định của nền kinh tế, góc nhìn từ nợ công
Nợ công là một trong những nguồn lực không thể thiếu để phát triển kinh tế. Vay nợ của Chính phủ có nợ trong nước (từ phát hành trái phiếu chính phủ) và nợ quốc tế (từ các khoản vay của các định chế tài chính, quốc gia khác).
Không sử dụng hết quota (hạn mức) nợ công của năm nay là một trong những chỉ dấu cho thấy sự phục hồi ổn định của nền kinh tế. Đây cũng là động lực đáng kể để Việt Nam đảm bảo được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế vĩ mô của năm nay và của cả giai đoạn 2021 - 2025.
Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 đặt mục tiêu: Tổng mức vay trong giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 3,068 triệu tỷ đồng, trong đó mức vay của ngân sách Trung ương khoảng 2,9 triệu tỷ đồng; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 1,7 triệu tỷ đồng; tổng mức vay của ngân sách địa phương khoảng 148 nghìn tỷ đồng, mức vay của từng địa phương trong phạm vi giới hạn nợ theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước; nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương khoảng 35,3 nghìn tỷ đồng. Trần nợ công hằng năm không quá 60% GDP; ngưỡng cảnh báo là 55% GDP; trần nợ Chính phủ hằng năm không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo là 45% GDP; trần nợ nước ngoài của quốc gia hằng năm không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo là 45% GDP.
Trên thực tế, tỷ lệ nợ công/GDP tại Việt Nam đang có xu hướng giảm dần. Cụ thể, giai đoạn 2017 - 2022 quy mô nợ công/GDP lần lượt ở các mức 61,4%, 58,3%, 56,1%, 55,9%, 43,1% và 38,0%. Cùng với đó, nợ chính phủ cũng có xu hướng giảm tương ứng, từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn đến 34,7% GDP năm 2022.
Tỷ lệ nợ công/GDP tại Việt Nam đang có xu hướng giảm dần |
Tính đến thời điểm này, nền kinh tế đã đi được hơn 3/4 quãng đường kế hoạch và đang dần tới đích. Riêng với các chỉ tiêu nợ công, số liệu Chính phủ công bố cho thấy chúng ta đang thực hiện tốt các chỉ số giới hạn và ngưỡng nợ công.
Báo cáo của Chính phủ gửi tới Quốc hội về tình hình nợ công năm 2024 vừa công bố cho thấy, dự kiến đến cuối năm 2024 nợ công vào khoảng 36 - 37% GDP (tương đương 4 - 4,1 triệu tỷ đồng). Con số này thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra ở kế hoạch trước đó. Theo Chính phủ thì các chỉ tiêu nợ đến cuối năm nay đều nằm trong giới hạn trần, ngưỡng cảnh báo an toàn được Quốc hội quyết định.
Cụ thể, nợ công ước khoảng 36 - 37% GDP. Với kịch bản tăng trưởng 7% theo mục tiêu đặt ra của Chính phủ năm nay, GDP 2024 khoảng 460 tỷ USD. Như vậy, nợ công khoảng 165 - 170 tỷ USD, tức 4 - 4,1 triệu tỷ đồng. Mức này tăng khoảng 100.000 - 200.000 tỷ đồng về giá trị tuyệt đối so với năm ngoái.
Báo cáo của Chính phủ cũng công bố vụ thể con số nợ Chính phủ vào khoảng 33 - 34% GDP; nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 32 - 33% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần 50%. Các khoản trả nợ nước ngoài năm nay chiếm khoảng 8 - 9% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và cũng nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép (25%). Bên cạnh đó, cơ cấu nợ Chính phủ đến cuối năm nay cải thiện tích cực. Nợ được Chính phủ bảo lãnh được quản lý chặt chẽ, tỷ trọng giảm từ mức 3,8% GDP năm 2021 xuống còn 2 - 3% GDP năm nay. Đồng thời, việc trả nợ được thực hiện đầy đủ theo cam kết, trong dự toán đã duyệt. Chỉ tiêu nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ trên thu ngân sách khoảng 21 - 22%.
Báo cáo của Chính phủ nêu rõ: "Chiến lược quản lý nợ chủ động giúp làm giảm rủi ro thanh khoản cũng như sự phụ thuộc vào các nguồn huy động bên ngoài. Nợ bằng ngoại tệ giảm dần giúp hạ rủi ro tỷ giá".
Việc sử dụng vốn vay của Việt Nam đã đáp ứng các mục tiêu đề ra về chi tiêu ngân sách tiết kiệm, hiệu quả |
Thực tế cho thấy, vài năm trở lại đây, nợ công trong nước luôn duy trì dưới ngưỡng cảnh báo an toàn. Đơn cử như năm 2023, con số cũng tương đương với mức dự báo của năm nay, vào khoảng 37% GDP (hơn 3,8 triệu tỷ đồng); nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp 16% so với mức trần được cho phép.
Các chỉ tiêu nợ công được duy trì ở mức thấp hơn từ 15 - 24% so với ngưỡng cho phép trong những năm qua cho thấy sự hồi phục khá vững của nền kinh tế cũng như việc đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tương đối hiệu quả.
Chuyên gia kinh tế, TS. Cấn Văn Lực - nhận xét, kinh tế vĩ mô 9 tháng đầu năm phục hồi tích cực với nhiều điểm sáng, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp; Cán cân thương mại thặng dư đạt gần 21 tỷ USD, góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối. Thu hút và giải ngân FDI đạt kết quả tích cực với vốn đăng ký trong 9 tháng đạt 24,78 tỷ USD, tăng 11,6%, giải ngân vốn FDI đạt 17,34 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, là mức giải ngân cao nhất của 9 tháng đầu năm trong vòng 7 năm qua. Bên cạnh đó, thu ngân sách Nhà nước tăng khá cùng với đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng và xuất nhập khẩu: hết 9 tháng, thu ngân sách đạt 85,1% dự toán năm, tăng 17,9% so với cùng kỳ, bổ sung nguồn lực mở rộng tài khóa; chi ngân sách chỉ bằng 59,3% dự toán năm và chỉ tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước.
Những yếu tố vĩ mô này đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện các chỉ tiêu nợ công. 9 tháng qua, “các cân đối lớn được bảo đảm với mức nợ công, nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đều dưới ngưỡng Quốc hội cho phép và thấp hơn mức trung bình của thế giới và các nước tương đồng” - TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, theo các chuyên gia kinh tế, tình hình nợ công cũng cho thấy việc sử dụng vốn vay cũng đã đáp ứng các mục tiêu đề ra về chi tiêu ngân sách tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời, giai đoạn 2019 - 2024, Chính phủ đã kiểm soát nợ công và bội chi ngân sách Nhà nước theo đúng mục tiêu đề ra. Đây là những yếu tố khiến các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định chế tài chính quốc tế đánh giá rủi ro của nền kinh tế Việt Nam ở mức trung bình.
Năm 2025, Chính phủ dự báo dư nợ công ở mức 36 - 37% GDP, nợ Chính phủ 34 - 35%, nợ nước ngoài 33 - 34%; Tổng nhu cầu vay của Chính phủ năm 2025 dự kiến ở mức hơn 815.000 tỷ đồng, tăng 20,6% so với kế hoạch vay năm nay; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp khoảng 468.542 tỷ đồng. |