6 tháng cuối năm 2023: Triển vọng kinh tế Đông Nam Á ngày càng tươi sáng
HSBC dự báo 6 nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á - Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam - sẽ tăng trưởng 4,2% trong năm nay và 4,8% trong năm tới. Tốc độ này sẽ vượt xa mức tăng trưởng 1,1% dự kiến ở các nước phát triển vào năm 2022 hoặc ước tính 0,7% trong năm tới.
Sự tăng tốc này càng đáng chú ý hơn khi dòng tiền từ du lịch Trung Quốc đổ vào Đông Nam Á không như dự kiến. Ví dụ: ở Singapore và Thái Lan - cả hai điểm đến phổ biến của khách du lịch Trung Quốc - lượng khách du lịch chỉ bằng khoảng một phần ba so với mức trước đại dịch Covid-19. Du lịch phục hồi chắc chắn sẽ là một lợi ích đáng hoan nghênh cho Đông Nam Á.
Nhưng trong khi đó, thương mại, quá trình chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không và chuyển đổi kỹ thuật số được thiết lập để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của khu vực trong nhiều thập kỷ tới và đảm bảo rằng khu vực năng động này vẫn là một động lực tăng trưởng toàn cầu.
Đông Nam Á đã đi một chặng đường dài với tư cách là trung tâm sản xuất. Khu vực này hiện chiếm 8% xuất khẩu toàn cầu và kể từ năm 2020, đã vượt qua Liên minh châu Âu để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Khu vực này đang được hưởng lợi từ việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu khi giao thoa của hai trong số các hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). RCEP nói riêng, với việc cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ thân thiện với doanh nghiệp, đang làm tăng sức hấp dẫn của Đông Nam Á như một cơ sở sản xuất, một thực tế mà nhiều công ty đang nhận ra tiềm năng cơ hội lớn.
Theo một cuộc khảo sát gần đây của HSBC, các công ty châu Á-Thái Bình Dương có kế hoạch đặt 24,4% chuỗi cung ứng của họ ở Đông Nam Á trong vòng một đến hai năm tới, tăng từ mức 21,4% vào năm 2020. Khi nhiều công ty đa dạng hóa và áp dụng chiến lược sản xuất "Trung Quốc + 1", Đông Nam Á sẽ tiếp tục giành được thị phần. Đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu nhiều hơn sẽ được hướng tới khu vực khi trọng tâm của sản xuất toàn cầu tiếp tục thay đổi.
Quá trình chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không là xu hướng cấu trúc thứ hai đang mang lại những cơ hội to lớn khi Đông Nam Á chạy đua để "xanh hóa lưới điện". Đông Nam Á là một trong những khu vực có nguy cơ cao nhất thế giới về sự nóng lên toàn cầu nói chung và mực nước biển dâng nói riêng.
Tuy nhiên, để thúc đẩy sự phát triển của khu vực, nhu cầu về năng lượng tiếp tục tăng nhanh. Hầu hết năng lượng cung cấp cho Đông Nam Á đến từ nhiên liệu hóa thạch, vì vậy Indonesia và Việt Nam - hai trong số các nền kinh tế năng động nhất khu vực cũng như hai trong số các quốc gia đốt than hàng đầu thế giới - đã từng công bố Quan hệ Đối tác chuyển đổi năng lượng với Nhóm G7 và các quốc gia phát triển khác.
Theo mô hình tài trợ mới này, hàng chục tỷ đô la tài chính công và tư nhân sẽ được huy động, xúc tác cho quá trình khử carbon trong ngành điện của hai quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi năng lượng sạch. Sự đổi mới trong công nghệ sạch cũng đang phát triển nhanh chóng ở Đông Nam Á. Công nghệ sạch đang ở đỉnh cao của sự tăng trưởng theo cấp số nhân và cũng như công nghệ tài chính, các công ty trong khu vực có cơ hội bản địa hóa công nghệ toàn cầu và mở rộng quy mô trong nước. Đầu tư và hỗ trợ tài chính sẽ chỉ giúp đẩy nhanh quá trình phát triển và áp dụng nó.
Nguồn lạc quan dài hạn nữa về Đông Nam Á là sự chuyển đổi kỹ thuật số của nền kinh tế khu vực. Đông Nam Á đã có một nền kinh tế kỹ thuật số sôi động, trị giá gần 200 tỷ USD vào năm ngoái và dự kiến sẽ vượt qua quy mô 300 tỷ USD vào năm 2025. Thêm vào đó là 460 triệu dân số kết nối Internet, rõ ràng là tại sao các công ty đang chuyển đổi mô hình kinh doanh để phục vụ cho việc thay đổi hành vi của khách hàng.
Trong khi thương mại điện tử đã phát triển trước Covid-19 thì đại dịch đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiện diện trực tuyến đối với sự tồn tại của một công ty. Việc chuyển sang các mô hình kinh doanh trực tiếp kết nối đến người tiêu dùng đang giúp các công ty kiểm soát tốt hơn việc bán hàng, tiếp thị và quan trọng là dữ liệu khách hàng. Điều này không chỉ có thể cung cấp cơ sở cho phân tích thời gian thực mà còn giúp tạo ra các dự báo chính xác.
Nền tảng cho sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế kỹ thuật số Đông Nam Á là sự phổ biến của thanh toán theo thời gian thực trong khu vực. Chẳng hạn, Thái Lan là thị trường thanh toán theo thời gian thực lớn thứ tư thế giới tính theo số lượng, theo nhà phát triển phần mềm thanh toán ACI Worldwide.
Mặc dù các khoản thanh toán tức thời có thể được gửi và nhận trong nước, nhưng phần thưởng thực sự nằm ở việc liên kết các hệ thống thanh toán theo thời gian thực khác nhau của khu vực. Khi điều đó trở thành hiện thực, có thể kỳ vọng tốc độ giao dịch sẽ tăng vọt, cho dù là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng.
Chi phí vốn tăng cao sẽ chỉ làm tăng sự giám sát của từng đồng đô la đầu tư, cho dù nó được sử dụng để di chuyển sản xuất, khử carbon chuỗi cung ứng hay số hóa hoạt động. Nhưng với tư cách là một động lực kinh tế với nhân khẩu học thuận lợi, Đông Nam Á có vị trí tốt để nắm bắt các cơ hội bắt nguồn từ những xu hướng dài hạn này.