Tổng Bí thư Tô Lâm trăn trở về Gia Lai và Tây Nguyên
Thực hiện Thanh Thảo - Phú Thành
07/01/2025 12:01

“Điều trăn trở của Tổng Bí thư Tô Lâm với Gia Lai và Tây Nguyên”, kính thưa quý vị, trên đây là tiêu đề bài viết của tác giả Nguyên Minh được đăng tải trên báo Báo Công Thương điện tử tại trang web congthuong.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đó là những điều được Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ trong phát biểu khi làm việc với Tỉnh uỷ Gia Lai sáng 6/1/2025.

Những trăn trở gần 10 năm trước

Gần 10 năm trước, chiều 30/7/2016, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức Lễ công bố Quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ. Khi ấy, Chủ tịch nước đã trao quyết định của Bộ Chính trị phân công Thượng tướng Tô Lâm - Bộ trưởng Bộ Công an (nay là Tổng Bí thư) giữ chức vụ Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.

Trước đó 14 năm, ngày 17/7/2002, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được thành lập trong bối cảnh tình hình an ninh, trật tự ở Tây Nguyên có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch, phản động gia tăng các hoạt động chống phá, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động biểu tình, bạo loạn, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại cuộc sống yên bình của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên...

Phát biểu tại buổi làm việc sáng 6/1, Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc lại những kỷ niệm thời ông làm Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nguyên, một ban chỉ đạo có chức năng nhiệm vụ chủ yếu trong lĩnh vực quốc phòng an ninh song ông đã rất quan tâm và nhìn thấy nhiều bất cập trong phát triển kinh tế xã hội ở Tây Nguyên.

Còn nhớ cuối năm 2017, theo chủ trương của Đảng, Ban chỉ đạo Tây Nguyên kết thúc hoạt động. Phát biểu tại buổi lễ hôm ấy, đồng chí Tô Lâm cho rằng: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử quan trọng của mình song bên cạnh những kết quả đã đạt được, kinh tế vùng Tây Nguyên vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức như: tăng trưởng chưa thực sự bền vững, vẫn còn thấp so với tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng; chất lượng của nền kinh tế chưa cao, thiếu ổn định; công tác quản lý bảo về rừng còn nhiều bất cập, tình trạng vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn diễn ra phức tạp, diện tích rừng bị chặt phá còn lớn...

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc tại tỉnh Gia Lai sáng 6/1/2025.

Đồng chí Tô Lâm cũng chỉ ra nhiều công việc cần làm như: Tiếp tục đề xuất các cơ chế đặc thù để huy động nguồn lực phục vụ kết nối cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn Tây Nguyên và vùng phụ cận; thu hút đầu tư phát triển sản phẩm chủ lực, có lợi thế gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm như nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến, chăn nuôi đại gia súc, dịch vụ du lịch...; tập trung xử lý có hiệu quả vấn đề đất đai, chống phá rừng, bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tập trung thực hiện một cách có hiệu quả…

Câu hỏi lớn cho Gia Lai

Sáng ngày 6/1, lắng nghe báo cáo của đồng chí Hồ Văn Niên - Bí thư Tỉnh uỷ, Tổng Bí thư chỉ rõ, Gia Lai nằm ở trung tâm Tây Nguyên, rộng thứ hai cả nước, đất đai phì nhiêu, cảnh quan thiên nhiên đa dạng từ các cao nguyên đến thung lũng, sông suối, hồ, và rừng nguyên sinh. Tỉnh có tài nguyên du lịch phong phú với những danh lam thắng cảnh tự nhiên vẫn giữ được sự nguyên sơ, hấp dẫn đặc biệt, những nét văn hóa Tây Nguyên độc đáo, giàu bản sắc của vùng đất huyền thoại với kho tàng sử thi Tây Nguyên và không gian văn hóa âm nhạc cồng chiêng - "Di sản văn hoá phi vật thể" của nhân loại.

Gia Lai có diện tích rừng tự nhiên lớn, đó là thứ tài nguyên vô giá cần hết sức giữ gìn; có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi với các tỉnh trong khu vực và các vùng kinh tế trọng điểm cả nước, làm tiền đề để thu hút đầu tư và phát triển giao thương…

Vậy thì nhiệm vụ lịch sử của Gia Lai hôm nay cần phải làm sao để vươn lên mạnh mẽ bằng đôi chân của mình, không nên tư duy chỉ trông chờ sự hỗ trợ của Trung ương.

Tổng Bí thư đề nghị tỉnh rà soát các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, tháo gỡ những ách tắc và điểm nghẽn phát triển, phấn đấu thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ 16 đã đề ra. Yêu cầu tỉnh khẩn trương rà soát các chỉ tiêu chưa thực hiện được và các điểm nghẽn phát triển để tháo gỡ, tạo bước đột phá mới. Tổng Bí thư yêu cầu tỉnh Gia Lai đẩy mạnh phát triển kinh tế dựa trên 3 trụ cột: nông nghiệp, du lịch, năng lượng tái tạo.

Tháo gỡ vướng mắc để có thể làm giàu từ năng lượng tái tạo

Ngay sau khi Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu, bày tỏ sự tâm đắc, đánh giá cao và rất quan tâm đến các vấn đề người đứng đầu ngành Công Thương đề xuất.

Từ phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Tổng Bí thư gợi ý thêm hướng làm giàu cho Gia Lai. Tổng Bí thư Tô Lâm quan tâm đến vấn đề tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các dự án năng lượng tái tạo.

"Theo kiến nghị của địa phương thì Bộ Công Thương nghiên cứu xem có thể bố trí tối đa (điện năng lượng tái tạo - PV) sản xuất được bao nhiêu? Đây là nguồn rất quan trọng đóng góp cho nguồn thu địa phương", Tổng Bí thư nêu vấn đề.

Theo Tổng Bí thư, hiện nay mới có 50% được các dự án điện gió được phát điện, còn 50% chưa được sử dụng. Đây là một sự lãng phí bởi các dự án đã làm rồi.

"Đây là vấn đề giữa nhà đầu tư - chính quyền, nhà nước đàm phán với nhau. Phải có cách tháo gỡ. Hiện còn hơn 10 dự án chưa tháo gỡ, nếu cứ để xuống cấp thì sẽ rất lãng phí, mà người ta đã đầu tư rồi nên cần phải tháo gỡ. Tiết kiệm không phải của chỉ Nhà nước mà còn phải tìm cách tháo gỡ khó khăn để tiết kiệm năng lượng cho doanh nghiệp, tư nhân, tiết kiệm nguồn lực xã hội", Tổng Bí thư chỉ đạo.

Tổng Bí thư cũng đề nghị tính toán tổng năng lượng cả điện gió, điện mặt trời khả năng phát triển của địa phương được bao nhiêu; đáp ứng của Bộ Công Thương để có thể đóng vào mạch điện truyền dẫn được bao nhiêu.

Về hướng đầu tư trung tâm dữ liệu, Tổng Bí thư cho rằng cần nghiên cứu, tính toán nếu có nguồn điện ổn định, bền vững thì lại có thể nghiên cứu chuyển đổi số, đầu tư trung tâm dữ liệu ở đây.

Về tiềm năng làm giàu, tăng nguồn thu từ năng lượng tái tạo, Tổng Bí thư lấy dẫn chứng từ tỉnh Quảng Trị một năm có thể đóng góp 20.000 MW, đóng góp 2.000 tỷ đồng cho ngân sách. Nếu Gia Lai mà có 20.000 tỷ đồng thì quá tốt. Tổng Bí thư yêu cầu phải tính toán, rất cụ thể để có thể làm được những việc như vậy.

Để người dân Tây Nguyên giàu từ công nghiệp chế biến và thành tỷ phú trên mỗi hecta đất

Từ phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên về các giải pháp phát triển công nghiệp và thương mại, Tổng Bí thư Tô Lâm quan tâm và gợi ý vấn đề phát triển công nghiệp chế biến.

Theo Tổng Bí thư, cần có các nhà máy sản xuất chế biến nông sản theo tiêu chuẩn của châu Âu, Hoa Kỳ. "Nghiên cứu Nhà nước đầu tư được không, hay công ty tư nhân lớn, tập đoàn nào có thể đầu tư quy mô lớn để tạo chuỗi cung ứng, xuất khẩu. Nếu Nhà nước không làm được mà không huy động được doanh nghiệp tham gia thì mãi chỉ xuất thô. Nếu không tập trung làm thì sẽ không có được sản phẩm chất lượng cao, giá trị gia tăng cao", Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc lại kỷ niệm thời làm Trưởng ban chỉ đạo Tây Nguyên, ông đã có phát động phong trào để người dân Tây Nguyên làm sao cứ 1 hecta đất, phải thu về 1 tỷ đồng/năm và cũng đã từng tổ chức hội nghị để tìm giải pháp để thực hiện vấn đề này.

"Tại Hội nghị đã diễn ra, một đại biểu Lâm Đồng cho biết 1 hecta đất thu về tới 26 tỷ đồng trồng rau, hoa, quả xuất khẩu đi Nhật Bản, thu về 26 tỷ đồng/ha. Hoặc như trồng sầu riêng 1 năm thu về 3 - 5 tỷ đồng/ha. Đồng bằng Bắc Bộ trồng lúa thì không được 100 triệu đồng/ha đất/năm; tại Đồng Tháp tôi đến làm việc hôm vừa rồi trồng lúa được 78 triệu đồng/ha/ năm, trồng cây ăn quả thu về 500 triệu đồng/ha/năm, trồng hoa cây cảnh thì thu 600 triệu/ha/năm, nuôi cá tra thì thu về 3,9 - 4 tỷ đồng/ha/năm", Tổng Bí thư nêu rõ từng ví dụ sinh động để gợi ý cho Gia Lai hôm nay.

Tổng Bí thư đề nghị Gia Lai cũng phải nhìn đó để thực hiện theo. Bởi Gia Lai sở hữu một diện tích sản xuất nông nghiệp lớn song 5ha đất mà mỗi năm chỉ thu được 80 triệu đồng, rất vất vả mà lại không hiệu quả. Nếu một người dân có 1 hecta mà thu được 1 tỷ/năm thì sẽ khác.

"Đây là các gợi ý để Gia Lai suy nghĩ biện pháp làm sao để cho người dân giàu lên từ mảnh đất của mình. Nông nghiệp thì đúng là có lúc cần miễn thuế cho nông dân, nhưng người dân giàu lên rồi thì tiêu dùng sẽ tăng, nhà nước sẽ thu từ các khoản thuế tiêu dùng", Tổng Bí thư chỉ đạo.

"Rất khuyến khích phát triển nông nghiệp, làm sao một hecta đất phải đặt ra mục tiêu trồng cây gì, nuôi con gì để người dân có thể thu được 1 tỷ đồng/ha. Đến các địa phương như Sơn La, Lâm Đồng để học hỏi các kinh nghiệm", Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã giải đáp cụ thể một số kiến nghị của Gia Lai.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, Gia Lai là địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển, diện tích rộng, đất đai thổ nhưỡng phì nhiêu, địa hình đồi núi, cao nguyên và thung lũng đồng bằng xen kẽ, hình thành khí hậu đặc trưng riêng của mỗi khu vực, là tiền đề thuận lợi để phát triển ngành nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát triển công nghiệp - thương mại, nhất là công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo.

Để khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh Gia Lai, góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh những năm tiếp theo, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã nêu rõ 5 kiến nghị ở góc độ ngành Công Thương.

Thứ nhất, tập trung nghiên cứu yêu cầu thị trường trong nước, các nước trong khu vực, nhất là các nước trong các FTA mà Việt Nam là thành viên, để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại để hình thành các chuỗi sản xuất khép kín từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ; chú trọng xây dựng quảng bá thương hiệu sản phẩm chủ lực, vùng trồng, vùng nuôi để có thể đưa vào các thị trường khó tính.

Thứ hai, tập trung nghiên cứu có cơ chế chính sách để thu hút đầu tư các doanh nghiệp vào công nghiệp chế biến, chế tạo để tăng giá trị xuất khẩu vào các mặt hàng nông lâm chủ lực như cà phê, hồ tiêu, cao su, các ngành về gỗ. Thúc đẩy các ngành khai thác chế biến nông sản để tạo dư địa mới tăng trưởng cho địa phương cũng như tạo nguồn cung đầu vào cho ngành chế biến cả nước. Có cơ chế hấp dẫn để các doanh nghiệp phát triển logistics để phát huy tiềm năng nỏi trội của địa phương là cửa ngõ của các nước Đông Nam Á, của miền Trung - Tây Nguyên.

Chú trọng, tạo điều kiện để các dự án đầu tư năng lượng hoạt động có hiệu quả. Trước mắt là chủ động đề xuất với Trung ương và Chính phủ cho tháo gỡ các dự án năng lượng tái tạo đã đầu tư. Trong 168 dự án theo kết luận của Thanh tra Chính phủ thì tỉnh Gia Lai có khoảng 7 - 8 dự án cần tháo gỡ, ngoài ra còn hàng chục dự án không nằm trong kết luận nhưng cũng có các vướng mắc tương tự.

"Đề nghị tỉnh Gia Lai có kiến nghị sớm để Bộ Công Thương có trình Chính phủ xem xét sớm tháo gỡ, càng giải quyết sớm bao nhiêu thì nguồn lực đưa vào phục vụ kinh tế địa phương càng tốt bấy nhiêu", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Thứ ba, chú trọng phát triển các loại hình du lịch. Gắn du lịch với thương mại, gắn du lịch - thương mại với xuất khẩu tại chỗ, thông qua hợp tác sản xuất bán sản phẩm tại các địa du lịch ngay tại địa phương. Đây là hình thức đã được thực hiện hiệu quả ở nhiều địa phương.

Thứ tư, thông qua tạo đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia để thúc đẩy chuyển đổi số trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là trong kinh tế - thương mại - đầu tư.

Thứ năm, tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực phục vụ các ngành công nghiệp chủ lực của địa phương, đồng thời quyết liệt trong cải cách hành chính tạo sự thông thoáng trong thủ tục đầu tư.

Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

rewind
play
fast-forward
00:00
/
00:00

Nghe thêm

Hơn cả bạc vàng

Hơn cả bạc vàng

“Hơn cả bạc vàng” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trong gian nhà được coi là gian nhà thờ của đại gia đình, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn còn lưu giữ một chiếc cân tiểu ly nhà nghề khi xưa mà cụ hàng coi là một thứ kỷ vật giàu ý nghĩa.

Dường như cụ muốn nhắc nhủ các cháu con hãy luôn giữ một tấm lòng ngay thẳng, trung thực trong nghề nghiệp cũng như trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Chữ "Tín" trong nghề vàng bạc mới là chữ đáng coi trọng nhất.

undefined
Hà Nội bảo tồn nghề vàng bạc

Thoạt nhìn, đôi vợ chồng người thợ kim hoàn Tân - Dung ở nhà số 10 phố Hàng Bạc nom có vẻ như không cân xứng tuổi tác. Khách vào nhà, có người gọi vợ là chị mà lại gọi chồng là bác. Nhưng rồi có sao, ba mươi năm qua họ vẫn chung sống thuận hoà, ấm êm bên nhau, sinh con, nở cháu, làm ăn phát đạt, tấn tới.

Người góp công đầu tác thành nên đôi, nên lứa cho anh và chị chẳng phải đâu xa. Đó chính là ông thầy dạy nghề của anh. Và ông cũng chính là bố đẻ của chị. Ông là nghệ nhân kim hoàn Nguyễn Văn Mẫn. Cái lý mà ông kén rể khi xưa, thật rất giản dị:

- Anh ấy tuy hơi lớn tuổi, song người thật thà, trung hậu, lại giỏi tay nghề nhất trong số thợ cùng lứa. Bởi vậy, không những con mà cha mẹ và các em cũng có thể nhờ cậy. Cha chỉ luôn mong điều tốt cho các con. Trong cuộc đời làm nghề bao năm, chẳng những anh chị Tân

- Dung đã học được ở người cha, người thấy của mình những kỹ xảo của nghề kim hoàn, mà còn học được ở ông những phẩm cách cao quý của người thợ chân chính, cũng như trách nhiệm và bồn phận nhất thiết của một con người trong gia đình và ngoài xã hội.

Bà Nguyễn Thị Hạnh, con gái phố Hàng Mắm làm dầu phố Hàng Bạc là một trong những người hàng xóm đồng thời là khách hàng của hiệu vàng Tân Dung rất tín nhiệm tay nghề và phong cách giao tiếp của ông chủ:

- Ông Tân làm hàng rất khéo, vào diện thợ cao tay nghề ở phố Hàng Bạc này. Ông ăn nói lại rất nhỏ nhẹ, từ tốn, khiêm nhượng. Ai ai cũng yêu quý, tín nhiệm. Nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn vốn quê gốc ở làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, Thái Bình. Song gia đình ông đã sinh sống và lập nghiệp gần nửa thế kỷ trên đất Hà Nội, tại chính dãy phố Thịnh Yên này. Vào những năm dưới chế độ bao cấp đầy gian nan, khó khăn, nhà nước quản lý ngặt nghèo, biết bao thợ kim hoàn đã phải bỏ nghề. Song ông thì như một số đồng nghiệp giàu tâm huyết, vẫn âm thầm, đau đáu giữ nghề. Ông còn hơn người là ở chỗ, đã kiên nhẫn, bền bỉ truyền nghề cho tất cả tám đứa con trai gái trong nhà, bất chấp bao khúc thăng trầm thế sự. "Hoàng thiên bất phụ hảo nhân tâm" - Ông trời chẳng phụ người có lòng, đến bây giờ, chẳng có gia đình thợ kim hoàn nào ở Hà Nội được như ông, cả tám người con đều đã phương trưởng và hiện đang làm chủ tám cửa hiệu kim hoàn lớn nhỏ trên các phố.

Ở tuổi ngoại tám mươi, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn đã từ lâu rời xa chiếc bàn nghề xưa cũ. Nhưng lâu lâu, ông vẫn giữ thói quen đi lại thăm thú lần lượt các cửa hiệu vàng của tám người con. Ông thường đi bộ, nói là để rèn luyện cho khoẻ đôi chân. Nơi mà ông thường đến thăm nhiều nhất là cửa hiệu vàng mang tên Đức Hạnh, nằm trên phố Nguyễn Công Trứ, rất gần với khu chợ Thịnh Yên. Đó là cửa hiệu được khách nhất trong số tám cửa hiệu của gia đình. Mái tóc bạc phơ của nghệ nhân nghiêng ngiêng bên chiếc tủ hàng ngồn ngộn, lóng lánh, đỏ rực những dây chuyền, hoa hột, nhẫn vòng theo đủ các kiểu dáng cổ điển hay hiện đại. Đôi mắt già nua nhưng hãy còn khá tinh tường đang xem xét, phẩm bình chiếc lắc vàng mười vừa kịp rời ngọn lửa đèn nghề trong tay cậu thợ trẻ. Chỉ cần quan sát gương mặt của cha và độ giãn nở của đôi lông mày bạc trắng, là cô con gái yêu Nguyễn Thị Hạnh đã có thể hiểu được mức độ hoàn mỹ của một sản phẩm mới:

- Cha tôi rất nghiêm khắc, rất cẩn thận. Hàng vàng bạc quý giá lại cần được chế tác tỉ mỉ, tinh tế. Sai lệch tý ty thôi cụ cũng bắt làm lại. Kỳ bao giờ được như ý mới thôi. Khách hàng hài lòng là ở chỗ đó.

Tất cả các cửa hiệu kim hoàn của các con, ông đều chọn lấy chữ Đức đặt làm đầu. Đức Hạnh, Đức Thành, Đức Thịnh... ý là để khuyên nhủ các con giữ lấy chữ đức làm gốc là trước nhất. Bà chủ hiệu vàng Đức Thịnh và khách sạn Đức Thịnh trên phố Mai Hắc Đế chính là một trong số sáu cô con gái của nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn. Chị Nguyễn Thị Phương kinh doanh ổn định, chắc chắn, nhà cửa khang trang, đàng hoàng, con cái ngoan ngoãn, học hành tấn tới. Chị coi đó là nguồn hạnh phúc to lớn không dễ có. "Uống nước nhớ nguồn", mang nặng tấm lòng tri ân với cha mẹ, với quê hương, bản quán, với nghề tổ cha ông, chị thường không quên việc thăm nom, giúp đỡ gia đình, họ hàng và thường dành những khoản tiền đáng kể để đóng góp công đức cho các di tích văn hoa, lịch sử và các hoạt động nhân đạo xã hội. Ngay từ những năm chín mươi của thế kỷ trước, chị đã là một trong những người đầu tiên tham gia vào chương trình Địa chỉ cho những tấm lòng từ thiện của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội và là một trong những hội viên tích cực của Hội Tán trợ chữ thập đỏ phường Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng. Mỗi năm, tuy không nhiều, nhưng gia đình chị cũng dành dăm ba triệu đồng cho các việc công đức, từ thiện. Noi gương mẹ, cô con gái đầu lòng đang học lớp 11 Trường trung học phổ thông Trần Phú của chị mỗi tháng cũng đã dành vài ba chục ngàn đồng tiền tiết kiệm để giúp đỡ bạn nghèo trong lớp mua sách vở.

Ngày đầu xuân năm mới, nơi mà bà chủ hiệu vàng Đức Thịnh chọn đến thăm và tặng quả từ thiện chính là nhà nuôi trẻ mô côi của quận Hai Bà Trưng, Mi ăn liền, bánh kẹo, sách vở và tiền mặt. Những món quà bé nhỏ nhưng thắm đượm nghĩa tình lá lành đùm lá rách. Bác sĩ Nguyễn Kim Chung, Phó chủ tịch Hội chữ thập đỏ Hà Nội luôn bày tỏ sự khuyến khích, động viên những gia đình như vậy:

- Cha mẹ làm việc từ thiện thường xuyên thì quá tốt rồi. Nhưng gieo mầm thiện cho cháu con theo được lâu bên mới là điều đáng quý. Ước sao thủ đô mình ngày một có thêm những gia đình thiện nguyện nhiệt tâm như thế.

Cuộc sống hằng ngày không phải bao giờ cũng dễ dàng, trôi chảy. Trong nhà, chồng bát cũng có khi xô. Nhưng cái chính là luôn phải giữ cho gia đình, và nhất là cho cha mẹ già một không khí nhẹ nhõm, thoải mái. Một bát cháo nóng, một ấm trà ngon, nhà nào mà không sẵn. Nhưng "miếng trầu không nặng, nặng hai tay bưng". Người con dâu của cụ Mẫn rất thấu hiểu điều này. Xưa kia, người Hà Nội từng có ấn tượng không hay với thành ngữ: "dân chợ Trời". Nhưng ở đâu cũng vậy, và thời nào cũng vậy, một nếp nhà vững chãi, luôn là chỗ dựa tinh thần cho tất thảy các thành viên trong gia đình. Càng trong những hoàn cảnh bất lợi, thì những phẩm chất tốt đẹp càng thêm tỏả rạng. Làm dâu trưởng trong một gia đình đông anh em chồng mà bao năm không hề có chuyện xô sát, điều tiếng ầm ĩ, phải chăng chỉ do từ một phía? Người con dâu cụ Mẫn là Nguyễn Thị Giới đã chia sẻ một cách giản dị:

- Tôi may mắn được làm dâu trong một gia đình nề nếp, các em cũng đều là người dễ dãi, biết điều, nên gia đình khi nào cũng giữ được bầu không khí thân mật và thoải mái. Chứ thật thà mà nói thì tôi cũng không được khéo léo đảm đang như nhiều người đầu.

Còn ông cụ bố chông thì lúc vắng mặt, vẫn khen cô con dâu:

- Chị ấy đã được ông bà nhạc dạy dỗ cẩn thận. Ăn ở cũng mộc mạc, chân tình. Bởi thế mà từ khi chị ấy về làm dâu cho đến nay đã hơn hai chục năm mà chưa hề phải nghe tôi và bà nhà tôi nói nặng một lời.

Giờ đây, chợ Hoa Bình đã khác xa chợ Trời xưa. Việc kinh doanh, buôn bán tự do, đường hoàng theo cơ chế kinh tế đổi mới đã khiến cho nếp giao tiếp, ứng xử của người dân nơi đây ngày một hòà đồng với cả xã hội. Vả lại, quan niệm chung của xã hội về nghề buôn bán, thương mại cũng không còn hẹp hòi và một chiều như trước. Gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn cũng là một trong số các gia đình gương mẫu đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa nhiều năm liên tục của khu vực dân cư phố Thịnh Yên.

Trong gian nhà được coi là gian nhà thờ của đại gia đình, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn còn lưu giữ một chiếc cân tiểu ly nhà nghề khi xưa mà cụ hằng coi là một thứ kỷ vật giàu ý nghĩa. Dường như cụ muốn nhắc nhủ các cháu con hãy luôn giữ một tấm lòng ngay thẳng, trung thực trong nghề nghiệp cũng như trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Chữ "Tín" trong nghề vàng bạc mới là chữ đáng coi trọng nhất.

Trong cửa hiệu nhà dưới, bà khách hàng quen người bên phố Huế đang ngắm nghía mấy mẫu kiềng vàng, lắc vàng tươi cười vui vẻ:

- Tôi buôn bán nhỏ. Cứ chắt bóp được ít tiền là lại ra hàng cụ mua một vài chỉ vàng cất đi dành dụm. Bây giờ lại mua của con trai con dâu cụ. Cân lượng đầy đủ chả bao giờ phải lo nghĩ. Hôm nay tôi đang định đặt bộ vòng kiềng với lắc tay để sang tháng cho con gái đi lấy chồng. Mấy mẫu đều đẹp, đâm ra hơi khó chọn,

Lứa cháu chắt của cụ giờ đây cũng không hoàn toàn theo nghề cha ông. Chúng cũng có những ước mơ mới và những sự lựa chọn mới. Những kỷ vật của ông bà, chúng có thể coi như là trong những câu chuyện cổ tích. Nhưng mà có rất nhiều thứ trong ngôi nhà này vẫn luôn hấp dẫn và thu hút chúng, cho tới tận mai sau. Phải chăng, đó cũng chính là những bảo vật vô hình mà có thể, còn quý giá hơn cả bạc vàng? Cô cháu ngoại của cụ Mẫn tên là Nguyễn Thị Ngọc Hà, hiện đang là sinh viên trường Đại học khoa học xã hội nhân văn thỏ thẻ tâm sự:

- Từ khi cháu còn nhỏ vẫn thường thích sang chơi bên ông ngoại, nghe ông đọc Truyện Kiều, nghe ông kể chuyện quê hương với nghề chạm bạc mà ông và các cậu các di, các bác trong nhà theo đuổi. Cả những câu chuyện về đường ăn ý ở của người con gái trong gia đình phải như thế nào? Cháu rất yêu kính ông bà.

Ngày mồng chín tháng Giêng hàng năm là một trong nhưng ngày mà lão nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn hằng mong mỏi nhất. Ấy chính là ngày hội của làng Thịnh Yên, ngày hội chùa Vua. Vào ngày này, dù không lời hẹn trước, các thế hệ trong gia đình nghệ nhân đều tụ hội về bên người ngôi nhà cha mẹ. Bao giờ cũng vậy, lão nghệ nhân sẽ dẫn đầu cả một đoàn con cháu quần trắng áo dài rực rỡ, complett cavat thịnh soạn sang chùa lễ Phật và xem đấu cờ người, một trò vui đặc biệt của hội làng Thịnh Yên. Tiếng trống hội thì thùng lắc cắc sao mà thân thiết và thiêng liêng và ấm lòng đến vậy.

Cuộc cờ người thu quân, cha con lại cùng nhau trở về gian nhà thờ trên căn gác hai, làm lễ kính cáo tổ tiên. Trong làn khói hương trầm nồng ấm, thêm một lần niềm tự hào của nghề tổ được nhắc nhớ, thêm một lần tình gia tộc được thắt chặt. Thiêng liêng và bình dị biết bao. Bên ngoài khung cửa, trên dãy phố Thịnh Yên, một mùa lộc biếc lại dâng đầy trên những cây cơm nguội gốc xù xì sẵm màu năm tháng.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Hành trình đi tìm ngọc

Hành trình đi tìm ngọc

“Hành trình đi tìm ngọc” là nội dung bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe bài viết.

Bài viết:

Hàng trăm câu ca dao, ngạn ngữ được tập hợp trong hai cuốn sách đã trở thành bộ tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm của đất nước và con người Hà Nội. Chúng tỏ ra vô cùng hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, lịch sử, địa lý và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn của giáo viên và học sinh các cấp, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, bao năm chiến tranh, giặc giã, các điều kiện nghiên cứu, sưu tầm tập hợp còn rất sơ sài, thiếu thốn. Bởi vậy chúng ta khó có thể đòi hỏi một kết quả khả dĩ hơn.

Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Châm vốn không phải là người gốc Hà Nội. Chị sinh ra và lớn lên trên một miền quê thuộc xứ Kinh Bắc xưa. Duyên may đưa chị đến với công trình nghiên cứu về phong cảnh Hà Nội qua những câu ca dao ngạn ngữ có lẽ bắt đầu từ cách đây gần chục năm, khi chị đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi văn toàn quốc cấp phổ thông trung học. Đề bài là bình giảng câu ca dao: Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Trấn võ, canh gà Thọ Xương / Mịt mù khói tỏả cành sương / Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Sau này, khi trở thành một cán bộ nghiên cứu khoa học ở Viện Văn hóa dân gian, chị đã dành nhiều tâm sức cho công trình nghiên cứu ca dao ngạn ngữ Hà Nội về đề tài phong cảnh, con người Hà Nội. Và chính bằng công trình ấy, chị đã được trường đại học khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chọn mời thỉnh giảng thường kỳ hàng năm cho sinh viên ở bộ môn văn hóa cơ sở. Càng say mê theo đuổi công trình, chị càng phát hiện thêm những vẻ đẹp khôn cùng của ca dao ngạn ngữ Hà Nội. Đâu chỉ là phong cảnh thiên nhiên hữu tình, danh lam thắng tích đậm đặc, cổ kính, thiêng liêng mà còn là tình người Hà Nội thiết tha, nồng đượm: Sông Tô nước chảy trong ngần / Có con thuyền trắng chạy gần chạy xa / Thon thon đôi mái chèo hoa / Lướt qua lướt lại như là bướm gieo.

Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Chu Hà đã bước vào tuổi xấp xỉ chín mươi. Lưng ông còng còng, trĩu nặng gánh thời gian song xem ra dáng đi còn mau mắn, nhanh nhẹn, đôi mắt tinh anh, hiền từ. Ông là người gốc Ý Yên, Nam Định nhưng sinh sống ở Hà Nội đã gần sáu mươi năm, nhà ở phố Hàng Bột cũ nay là phố Tôn Đức Thắng. Nhà thơ Chu Hà là cán bộ cựu trào của ngành văn hóa thông tin Hà Nội. Lãnh vực nghiên cứu mà ông chuyên sâu và dày công nhất chính là hát ca trù - hát ả đào. Bao câu hát ca trù đẹp như những áng thơ đã được ông sưu tầm, ghi chép và truyền lại cho lớp trẻ. Nhưng công trình mà ông tâm đắc nhất là ông đã cùng nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Vũ Tuấn Sán, người làng Lủ, thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì và hai nhà giáo là Phạm Hòa (trường phổ thông trung học Việt Đức) và Triêu Dương (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1) cùng tham gia sưu tầm và soạn thảo hai tập Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, từ những năm sáu mươi, bẩy mươi của thế kỷ trước.

Phạm vi đề cập của hai cuốn sách đó thật rộng lớn. Nào là ca dao ngạn ngữ về đề tài lịch sử, văn hóa danh lam, thắng cảnh, di tích, sản vật, con người, nghề nghiệp, phong tục, tập quán, lễ hội, phong cách ứng xử gia đình, xã hội... Hàng trăm câu ca dao, ngạn ngữ được tập hợp trong hai cuốn sách đã trở thành bộ tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm của đất nước và con người Hà Nội. Chúng tỏ ra vô cùng hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, lịch sử, địa lý và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn của giáo viên và học sinh các cấp, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, bao năm chiến tranh, giặc giã, các điều kiện nghiên cứu, sưu tâm tập hợp còn rất sơ sài, thiếu thốn. Bởi vậy chúng ta khó có thể đòi hỏi một kết quả khả di hơn. Bây giờ, nói sao thì nói, đã ở tuổi gần đất, xa trời, nhà thơ Chu Hà không khỏi có những điều thật ngậm ngùi, tiếc nuối:

- Hồi Mỹ đánh bom Hà Nội. Nhà ngày ấy chẳng có gì gọi là đáng giá. Chỉ có tập vở tôi ghi chép những câu ca dao, ngạn ngữ mới sưu tầm được là tôi quý nhất. Liền cho vào cái két sắt cũ của nhà chủ ngày xưa để lại, khóa chặt. Nghĩ thế là chắc chắn nhất.

Không ngờ, sau một đợt đi công tác trở về, lấy ra soạn lại, thì mỗi đã xông mất hết. Tiếc đến bây giờ vẫn chưa nguôi…

Bao điều trăn trở, nhưng ở tuổi xấp xỉ cửu tuần, ông không thể còn xoay xỏa nổi. Nhưng thật may, kế tiếp sự nghiệp của các bậc lão làng, có một người không kém phần tâm huyết. Đó chính là nhà thơ, nhà báo Giang Quân. Ở độ tuổi ngót nghét tám mươi, tóc cũng đã bạc phơ phơ, ông cũng vốn là một cán bộ cựu trào sau lớp cụ Chu Hà của Sở văn hóa thông tin Hà Nội.

undefined
Thủ đô Hà Nội xưa

Ông tham gia nghiên cứu, gắn bó với ca dao, ngạn ngữ Hà Nội đã trên nửa thế kỷ. Hai cuốn sách của các bậc tiền bối đã là cơ cở vững chãi để ông tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm. Bởi kho tàng ca dao, ngạn ngữ của vùng đất đế kinh ngàn năm này thật vô cùng phong phú và giàu đẹp... Biết bao điều còn ẩn chứa trong nhân gian rộng lớn. Cho đến năm tròn tuổi thất thập, ông mới cho công bố một cuốn sách là kết qủa của trên nửa thế kỷ đằng đẳng miệt mài. Cuốn Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ bao gồm 500 câu, như tên gọi của nó, chỉ khuôn đề tài vào một lĩnh vực hẹp hơn, song chính là tập trung hơn, khu biệt hơn và nổi rõ đặc trưng Hà Nội hơn.

Phong cảnh, địa danh, con người, sản vật, nghề nghiệp, lễ hội của vùng đất ngàn năm văn hiến. Nhưng có một phần được bổ sung và chỉnh lý cũng như chú giải kỹ lưỡng hơn. Đặc biệt có tập hợp thêm các câu ca dao ngạn ngữ mới của thời kỳ cận đại và hiện đại của Hà Nội. Một thời gian dài, nhà thơ, nhà báo Giang Quân lại đang tiếp tục sưu tầm, tập hợp thêm trên hai trăm câu ca dao, ngạn ngữ của các vùng nội ngoại thành Hà Nội cho việc tái bản cuốn sách vào năm 2002. Ông coi đây là một công trình không của riêng mình hướng tới dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội.

Trong mấy năm rong ruổi khắp các vùng nội ngoại thành, niềm vui lớn nhất của ông là phát hiện được thêm những câu ca dao, ngạn ngữ bao năm còn ẩn dấu trong dân gian, chưa hề được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó là hàng trăm dị bản của các câu ca dao, ngạn ngữ của từng miền quê theo những mô tuýp biến thể cổ truyền. Chuyến về thăm vùng bưởi Diễn cách đây không lâu là một trong những chuyến đi may mắn của ông. Sau đây là mấy câu ca dao, hay chính là những viên ngọc quý mà ông vừa thu lượm trong chuyến đi ấy. Chợ Diễn một tháng sáu phiên / Bưởi vàng trái ngọt ai quên nhớ về.

Và điều tâm đắc nhất của ông là đã sưu tầm được những câu ca dao Hà Nội thời cận đại. Trong đó có những câu ông sưu tầm được chính ở dãy phố Khâm Thiên nơi mà gia đình ông cư trú từ sau ngày giải phóng thủ đô. Nguyên trước cách mạng Tháng Tám năm 45, Khâm Thiên vẫn còn là một phố cô đầu, nhà hát "lừng danh". Dân ăn chơi đất Hà Thành gen gọi là phố "Chị em". Hôm gặp lại nhà thơ Chu Hà, ông đã tủm tỉm đọc cho người đàn anh nghe mấy câu: Tối thì đẹp tựa tiên sa / Ngày nom rũ rượi như gà mắc mưa / Báu gì hương chạ hoa thừa / Thà rằng chẵn lẻ Hai Cua cho rồi.

Và ông nói rằng, thoạt đầu không hiểu chữ Hai Cua là gì. Hỏi ra sau mới biết rằng đó chính là một sòng bạc cũng vào loại "ác chiến" ở phố Khâm Thiên ngày trước. Bên ẩm trà Tàu đặc sánh, câu chuyện của hai bậc lão làng tưởng như khó có chỗ dứt.

Tóc xoã ngang vai xanh mướt, ở tuổi vừa tròn tam thập, may mắn hơn các bậc tiền bối của mình, thạc sĩ Nguyễn Phương Châm bước sang năm đầu thế kỷ mới, đã gấp rút chuẩn bị tài liệu cho luận văn nghiên cứu sinh học vị tiến sĩ cũng xung quanh đề tài Văn hóa tộc người Việt sinh sống trên đất nước Trung Hoa. Nhưng song song cùng với bản luận văn, sẽ vẫn là những bài giảng trên lớp cho sinh viên Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn về đề tài ca dao ngạn ngữ phong cảnh của Hà Nội. Có người từng thắc mắc trên sóng Đài phát thanh - truyền hình Hà Nội rằng: "Sao lại đọc lầm chữ đền thành chữ chùa trong một câu ca dao cũ": Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ / Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Thực ra là không lầm đâu! Trong bài giảng sắp tới, cô sẽ chú thích rõ hơn xuất xứ của câu ca dao là từ thời Lê Trịnh. Khi ấy đền Ngọc Sơn vốn còn đang là một ngôi chùa thờ Phật quanh năm nghi ngút khói hương.

Cũng bắt đầu từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, khi internet phát triển và bắt đầu từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, khi mạng xã hội mở rộng thì đó chính là cơ hội tốt đẹp để nở rộ việc phát lộ và thu thập ca dao, tục ngữ thành ngữ ở các địa phương, kể cả ở các vùng đất thuộc xứ Đoài, Hà Tây xa xôi khi được sáp nhập về Hà Nội. Nhanh nhậy bắt nhịp với nhu cầu tất yếu của thời đại, dăm năm trước, Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội do GS - TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội và PGS - TS Đỗ Thị Hảo, Phó Chủ tịch Hội kiêm chủ nhiệm đề tài đã đề xuất với Thành phố Hà Nội mở một dự án sưu tầm ca dao tục ngữ mới. Dự án tuy chưa kết thúc nhưng đã thu được những thành quả ban đầu tốt đẹp, thu thập được hàng ngàn câu ca dao tục ngữ ở các địa phương vùng Hà Nội cũ và Hà Nội mở rộng.

Có những câu ca dao xưa chỉ được lưu truyền trong địa vực làng xã bé nhỏ nay đã được đông đảo người dân trong và ngoài nước biết đến. Đơn cử như bài ca dao ca tụng sự chăm chỉ và tài khéo người dân làng nghề bánh gai Yên Sở thuộc vùng kẻ Giá, huyện Hoài Đức: Bánh gai làng Giá thơm ngon / Con gái làng Giá tươi giòn sắc xuân / Giã lá, xay bột chuyên cần / Khéo tay gói bánh người ăn tìm về.

Hay là mấy câu ca dao ở làng bánh gio Đắc Sở cũng thuộc vùng kẻ Giá bên dòng sông Đáy nói về một phẩm chất của đặc sản nổi danh của làng quê: Bánh gio trong hổ phách / Dẫu có đắt cũng mua / Bánh gio màu nước dưa / Dẫu có cho chả đắt.

Một câu ca dao khác của làng nghề bánh dày Quán Gánh, huyện Thường Tín ca tụng giá trị của đặc sản quê hương bằng giải pháp khoa trương đôi khi gặp trong ca dao tục ngữ: Cho dù chồng chán vợ chê / Bánh dày Quán Gánh lại về với nhau.

Nhà thơ Yên Giang vốn là Trưởng phòng Phòng Sáng tác và xuất bản Sở Văn hóa thông tin Hà Tầy và đã từng chủ biên cuốn sách Ca dao tục ngữ Hà Tây dày tới 700 trang. Sau khi Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội, tham gia vào Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, ông là người rất tích cực và bền bỉ tham gia dự án sưu tầm tục ngữ ca dao mới của Hội văn nghệ dân gian Hà Nội với hàng trăm câu.

Nét đặc biệt trong bộ sưu tập của ông là những câu ca dao tục ngữ mới về để tài phản biện xã hội. Ông rất tâm đắc với quan niệm của người xưa:

Ngày xưa đức Khổng Tử bên Trung Hoa từng khuyên các đấng quân vương nên cử người thâm nhập vào đời sống của người dân mà thu thập những câu ca dao ngạn ngữ, những câu chuyện tiếu lâm có tính giều cợt, chống đối thể chế để từ đó nghiên cứu, phân loại ý kiến đúng sai, rồi nương theo mà sửa đổi chính sách cai trị sao cho hợp lòng dân, cũng là vì sự thịnh trị lâu dài của xã tắc.

Hơn hai mươi năm sau, cô sinh viên cao học Nguyễn Thị Phương Châm ngày nào nay đã trở thành PGS - TS Nguyễn Thị Phương Châm và đã được bổ nhiệm cương vị Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Thật mừng cho Phương Châm nhưng cũng hơi có chút ngậm ngùi khi nghe cô nói lâu rồi không còn giảng dạy hay nghiên cứu đề tài ca dao tục ngữ nói chung và ca dao tục ngữ Hà Nội nói riêng nữa.

Thế gian bao năm biến cải, đổi dời. Chẳng còn đâu nữa bóng dáng những bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái, chợ đêm Khán Xuân, sâm cầm hồ Tây... Bao giờ cho nước sông Tô trở lại trong ngần? Nhưng nỗi ao ước của cô giáo trẻ người gốc Kinh Bắc một ngày xa xưa ấy, phải chăng cũng chính là nỗi mong ước đau đáu trong lòng mỗi người dân thủ đô trong hiện tại?

Mong sao các nhà quy hoạch, kiến trúc xây dựng thủ đô dù có kiến thiết, sửa sang, tôn tạo thành phố cho hiện đại, mới mẻ đến như thế nào cũng vẫn nên giữ lại những dáng nét kiến trúc và phong cảnh đặc sắc của đất Kinh kỳ Thăng Long, cho xứng danh là nơi mãi mãi "Lắng hồn núi sông ngàn năm".

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ

Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ

“Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Không gian dưới mái nhà ngói cổ trầm mặc mầu quá vãng và thơm ngát khói hương. Những câu chuyện của năm bẩy trăm năm trước đang lần lượt hiện về theo dòng hồi ức của các vị hậu duệ cao niên trong dòng họ.

Vị tiến sĩ khai khoa của dòng họ Dương ở Hà Lỗ chính là Dương Văn Đán, ông đỗ đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông, năm 1463. Hoàng giáp Dương Văn Đán đã từng được nhà vua cử đi sứ nhà Minh và được bổ làm quan đến chức Tham chính sứ, chức quan phụ trách hành chính thứ hai tương đương như phó chủ tịch một tỉnh thành lớn giờ đây.

Đầu tháng Ba âm lịch, những làn nắng non tơ mới mẻ còn chưa kịp xua tan những cơn mưa phùn ẩm ướt.

Đất trời xứ Bắc dường như đang ngây ngất trong một bầu hương thơm dịu dàng, thanh khiết của hoa bưởi, hoa cam, hoa nhãn, hoa xoan.

Những ngõ xóm trong ngôi làng cổ Hà Lỗ đâu đó còn vương vấn phong vị của những ngày hội làng mùa xuân chưa qua in trên những dây cờ hoa phấp phới chăng ngang trên cao và cổng ngõ nhà ai còn dán hình những câu chữ đại tự giấy trang kim lấp lánh chào đón năm mới chưa hề phai sắc.

undefined
Đình Hà Lỗ

Những cảnh tượng ấy khiến cho lòng người không khỏi xốn xang. Nhất là với những người khách gốc thị thành.

Bấy lâu theo đuổi mảng đề tài danh nhân Thăng Long Hà Nội, nhà văn, nhà báo cao niên Lý Khắc Cung đã từng đặt chân đến hàng ngàn ngõ phố và các làng xã nội ngoại thành với một niềm đam mê chưa bao giờ vơi cạn. Bộ complett chỉnh chện, chiếc mũ phớt đội nghiêng trên đầu, nhà văn đang theo chân vị cán bộ phụ trách văn hóa xã bước nhanh trên con đường làng rộng rãi, phong quang.

Xóm Đông. Thôn Hà Lỗ.

Lối ngõ gạch hằn in dấu thời gian và mưa nắng.

Nóc mái những ngôi nhà vẫn mang dáng dấp như tự trăm năm trước. Mái ngói vẩy cá sẫm màu, tường hoa, sân gạch.

Hà Lỗ mang tên nôm là kẻ Giỗ, vốn là một ngôi làng cổ thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc xưa, một vùng đất nồi danh văn hiến trong lịch sử đất nước

Bước sang những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hà Lỗ mới chia thành ba thôn là Hà Lỗ, Hà Phong và Hà Hương, đều thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội

Đây là nơi toạ lạc của ngôi nhà thờ tổ họ Dương ở thôn Hà Lỗ.

Không gian dưới mái nhà ngói cổ trầm mặc mầu quá vãng và thơm ngát khói hương.

Những câu chuyện của năm bẩy trăm năm trước đang lần lượt hiện về theo dòng hồi ức của các vị hậu duệ cao niên trong dòng họ.

Vị tiến sĩ khai khoa của dòng họ Dương ở Hà Lỗ chính là Dương Văn Đán, ông đỗ đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông, năm 1463. Hoàng giáp Dương Văn Đán đã từng được nhà vua cử đi sứ nhà Minh và được bổ làm quan đến chức Tham chính sứ, chức quan phụ trách hành chính thứ hai tương đương như phố chủ tịch một tỉnh thành lớn giờ đây.

Cuộc gặp gỡ với nhà văn, nhà báo Lý Khắc Cung cũng chính là một địp để con cháu họ Dương hôm nay cùng nhắc nhớ lại truyền thống vẻ vang của các bậc tiền nhân trong dòng họ. Thật xúc động khi được nghe nhà văn Lý Khắc Cung đọc lại đôi câu đối cộ trên hai cây cột trước ban thờ:

- Tiến sĩ xuất thân thi lễ bách niên truyền dị diệp

Đại tông Dương tộc đăng hỏa đăng hương thiên tải diễn chi lưu

Có nghĩa là:

Xuất thân tiến sĩ, truyền thống thi lễ trăm năm truyền trên lá đẹp

Đại tông Dương tộc hương hỏa nghìn đời chảy mãi theo dòng xuôi.

Ngôi nhà thờ chi Giáp, tức chi trưởng họ Dương đặt tại xóm Chùa, thôn Hà Phong kế bên, xưa cùng thuộc đất làng Hà Lỗ. Mái ngói lô xô, cửa bức bàn cũ kỹ dáng vẻ khiêm nhường, giản dị.

Thế nhưng các bậc tiền nhân của dòng họ được phụng thờ tại nơi đây từng đã làm nên một sự nghiệp hiển hách để lại tiếng vang lưu truyền sử sách và làm rạng danh quê cha đất Tổ.

Con trai của tiến sĩ Dương Đán là Dương Bính. Ông thi đỗ đệ tam giáp, đồng tiến sĩ xuất thân vào khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Hồng Đức, năm 1478, tuy khác niên hiệu song cùng thuộc triều vua Lê Thánh Tông với khoa thi của người cha mình.

Nối bước cha, và vượt hơn cha, ông được bổ làm quan đến chức Thừa chính sứ, tức là đứng đầu một Thừa tuyên thời Lê Giáp bảng.

Truyền đăng khai hậu duệ

Thu vi tiếp vũ địch tiền quang

(Đời trước khai khoa làm rạng rỡ

Cháu con nối tiếp được lưu truyền)

Còn đây là nơi phụng thờ tiến sĩ Dương Cảo, một trong những danh nhân xuất sắc trong lịch sử Thăng Long Hà Nội. Ông thuộc chi thứ của dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ.

Những hàng câu đối cũ kỹ đã phai lạt sắc vàng son nhưng dường như vẫn lung linh tỏả rạng những đốm sáng lấp lánh từ một thời quá khứ xa xưa

Giáp bảng trùng hoa tiên tổ liệt

Thất chi trường ấm hậu giai mưu

(Giáp bảng vinh hoa tổ tiên một thời oanh liệt

Phúc ấm dài lâu, bảy chi hậu thế được cơ mưu)

Dương Cảo thi đỗ tiến sĩ, ngôi vị Hoàng Giáp, niên hiệu Vĩnh Tộ, triều vua Lê Thần Tông và được bổ làm tế tửu Quốc Tử Giám.

Sự tích đi thi và đậu bảng của ông cũng khá li kỳ, thậm chí hơi có vẻ huyền hoặc, song lại là sự thật đã được ghi trong sử sách.

Ông Dương Văn Nghiên, hậu duệ của tiến sĩ Dương Cảo vẫn nhớ như in

- Cụ tôi là cụ em đi theo hộ tống cụ anh đi thi. Chẳng may cụ anh bị cảm nặng mất đột ngột. Cụ em lúc bấy giờ sáng trí thế vào tên cụ anh để vào thi dù lúc ở nhà chưa hê thi qua cử nhân tú tài, chỉ là một người học trò bình thường gọi là sinh đồ. Vậy mà khi vào đến vòng thi hội thi đình, thì cụ em nhà tôi lại đỗ trên hết cả. Vua thấy trường hợp quá đặc biệt mới ban cho một câu: Tư nhân, tư tài, tư kỳ ngộ, có nghĩa là chưa hề gặp gỡ người tài nào đặc biệt như thế và ban cho thêm lời khen tặng truyền đời: Sinh đồ bất túc, Tiến sĩ hữu dư, có nghĩa là sinh đồ chửa học xong mà trình độ còn hơn tiến sĩ. Sau đó, cụ em nhà tôi tức là Tiến sĩ Dương Cảo được vua Lê Thần Tông giữ lại triều đình dạy học cho các hoàng tử con vua.

Với hàng chục đầu sách viết về lịch sử văn hoá, phong tục tập quán, danh nhân, đặc sản Hà Nội, nhà văn Lý Khắc Cung vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình riêng tiến tới mốc dấu kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Kiểm chứng lại những tư liệu thu thập được trước khi đặt bút viết một để tài mới, đó là thói quen bất di bất dịch của những người cầm bút chân chính xưa và nay. Xách chiếc cặp da dày cộp bước chéo qua lối ngăn giữa hai nhà bia Văn Miếu - Hà Nội, nhà văn Lý Khắc Cung đã tìm tới được dãy bia cần tìm đến.

Ba tấm bia nằm không mấy cách xa nhau trong dãy nhà bia cánh tả của Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Mỗi tấm ghi tên một bậc tiền nhân trong họ Dương ở làng Hà Lỗ đã từng đỗ đại khoa qua các kỳ thi trong thời kỳ nho học thịnh phát của đất nước. Dương Đán, Dương Bính và Dương Cảo.

Và đây là tấm bia được đánh số 32 trong 82 tấm văn bia Quốc Tử Giám. Trong đó, ghi tên vị tiến sĩ có sự nghiệp vẻ vang nhất trong dòng họ, đó chính là tiến sĩ Dương Cảo. Ông đỗ ngôi vị hoàng giáp khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 1628, đời vua Lê Thần Tông và được bổ làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, tức là đứng đầu trường đại học duy nhất của đất nước được đặt chính tại địa danh này. Tên của tiến sĩ Dương Cảo người gốc làng Hà Lỗ được đặt kề cận tên tiến sĩ Giang Văn Minh, người gốc làng Đường Lâm, một vị sứ thần nồi danh trong lịch sử nước Nam)

Nhà văn Lý Khắc Cung xoa nhẹ tay lên mặt bia, đọc rõ những dòng chữ Hán khắc trên tấm bia và bảy tỏ lòng thán phục:

- Đây là tấm bia niên hiệu Vĩnh Tộ 1628 đời Lê Thần Tông. Bia này khắc tên nhiều vị tiến sĩ đỗ đại khoa kỳ thi ấy. Nhưng nổi bật nhất là tên tuổi hai vị. Một là hoàng giáp Dương Cảo người làngHà Lỗ sau trở thành quan Tế tửu Quốc Tử Giám, nghĩa như là vị hiệu trưởng trông coi việc quản lý lễ nghi của trường đại học quốc gia duy nhất của đất nước hồi ấy. Như vậy là vị thế rất quan trọng, không hề giản đơn.

Trong cuốn sách Các làng khoa bảng Thăng Long Hà Nội xuất bản năm 2004 của PGS - Tiến sĩ Bùi Xuân Đính, Viện Dân tộc học, thì sau các làng Đông Ngạc, Tả Thanh Oai, Nguyệt Áng, Phú Thị, Thượng Yên Quyết, Hạ Yên Quyết, hai làng Vân Điềm và làng Hà Lỗ thuộc huyện Đông Ngàn cũ, nay là huyện Đông Anh đều được xếp hạng ngang bằng nhau ở vị trí số 7. Và mỗi làng đều có 7 vị tiến sĩ nho học đỗ đạt qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong đó, họ Dương lại chiếm 3 trong số 7 vị tiến sĩ của làng Hà Lỗ. Ngoài ra, còn có một số vị đỗ trung khoa và tiểu khoa cũng được triều đình bổ làm quan hoặc ở nhà mở trường dạy học.

Trải hàng trăm năm đất nước lâm cảnh chiến tranh giặc giã liên miên, truyền thống khoa bảng của dòng họ Dương Hà Lố cũng đứt nối đôi lần. Nhưng tinh thần hiếu học vẫn như một mạch ngầm luôn luôn tuôn chảy trong dòng máu người họ Dương. Trong gia phả của dòng họ nay vẫn còn chép câu chuyện vượt khó, theo đuổi con đường học vấn của vị cử nhân Nho học cuối cùng là Dương Tuấn Duy. Trong vòng 5 năm, nào cha mẹ bệnh nặng rồi khuất núi, nào chú thím đỡ đầu lần lượt nằm xuống, nào con trai yểu mệnh, anh trai mắc vòng kiện tụng, gia cảnh sa sút, ông vẫn vừa lo toan việc nhà vừa tiếp tục đèn sách lều chõng đi thi theo đúng ước nguyện của cả dòng tộc cử nhân Dương Tuấn Duy, thi đỗ năm Đinh Dậu, triều vua Thành Thái nhà Nguyễn 1897. Cụ Dương Văn Quyến, hậu duệ của cử nhân Dương Tuấn Duy nay đã ngoại tuổi tám mươi trân trọng lau chỉ lên tấm bằng ghi công của chính phủ phong tặng cử nhân Dương Tuấn Duy đã có công nuôi giấu cán bộ cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945:

- Cái năm cụ tôi thi đỗ cử nhân thì cụ tôi đã vào tuổi 36. Thi đỗ xong được chính quyền bảo hộ Pháp bổ đi làm quan ngay. Nhưng cụ tôi lấy cớ gia đình khó khăn xin khước quan ở nhà mở trường dạy học. Học trò các vùng xung quanh theo học rất đông, có lúc đông nhất là gần 200 người. Rất nhiều học trò của cụ sau đó đã học thành tài thành danh.

Rời quân ngũ trở về học đại học rồi tiếp tục làm luận văn tiến sĩ, nhà giáo Dương Văn Thịnh nay đang nắm giữ cương vị chủ nhiệm khoa triết học Trường Đại học Khoa học nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Sau những giờ lên lớp cho sinh viên về những vấn đề thuộc một lĩnh vực được coi là cao siêu hơn cả so với các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội khác, vị tiến sĩ triết học họ Dương cũng không xa rời những điều vốn dĩ rất gần gũi với cuộc sống tinh thần của con người. Theo tiến sĩ Dương Văn Thịnh thì điều gì là quan trọng nhất về mặt tinh thần mà ông đem theo trong suốt cả một chặng đường dài nghiên cứu và giảng dạy?

- Tôi rất tự hào và yêu quý nghề dạy học truyền đời của gia tộc học Dương. Từ cụ tôi cho tới ông cha tôi rồi đến anh chị em chúng tôi, cả vợ tôi cũng theo nghề dạy học. Truyền thống gia đình dòng tộc nó tác động đến con người rất sâu sắc mặc dù đôi khi nó không hề hiển hiện. Nó bắt ta phải cân nhắc mỗi khi hành xử trước bất cứ vấn đề gì, nhắc nhở ta rằng làm điều gì cũng phải nghĩ là có phù hợp với truyền thống hoặc có ảnh hưởng gì đến truyền thống hay không? Và mỗi khi gặp bất cứ khó khăn ngáng trở nào, truyền thống cũng khiến ta có thêm nghị lực phấn đấu hết mức để vượt qua và tiến tới mục đích cao nhất. Tôi nghĩ là giáo dục truyền thống và có ý thức về truyền thống gia đình, dòng họ, quê hương, và cả dân tộc là rất quan trọng, nhất là trong việc hình thành nhân cách con người trong thời đại mới.

Liên Hà trong những năm đất nước và thành phố bước vào thời kỳ đổi mới và phát triển may mắn vẫn còn giữ được những dáng nét thần thương của một những ngôi làng cổ cùng những nề nếp làm ăn sinh sống thuần hậu, ấm êm trong cộng đồng cư dân cùng với truyền thống cần cù, hiếu học.

Ngôi nhà nằm ngay mặt phố chợ Liên Hà này của gia đình kỹ sư Dương Quang Trung còn đang thơm mùi vôi mới. Trong nhà đầy đủ tiện nghi phục vụ cho cuộc sống và thiết bị cho học tập, nghiên cứu. Tốt nghiệp đại học Bách khoa và trở về công tác ngay tại huyện nhà, giờ đây, ở độ tuổi xấp xỉ tam thập, tam thập nhi lập, chàng trai này cũng đang đặt kế hoạch phấn đấu nâng cao học vấn cho cho chính bản thân mình trong một tương lai gần. Lớp con cháu họ Dương trưởng thành trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI ngay ở quê hương Liên Hà đã và đang có thêm những điều kiện tốt đẹp hơn để có thể biến những ước mơ và khát vọng của cha anh và của chính bản thân mình trở thành hiện thực.

Kỹ sư Dương Quang Trung nhiệt huyết bày tỏ ý nguyện phấn đấu cho tương lai:

- Ngày xưa ông cha điều kiện kinh tế còn rất khó khăn mà đã nêu gương hiếu học rạng danh dòng họ. Nay lớp cháu con chúng tôi đã có một cuộc sống sung túc đủ đầy hơn trước rất nhiều.

Nhưng tôi vẫn quyết tâm dành dụm tiền của và thời gian để rồi sẽ tiếp tục học tập, nghiên cứu. Tôi rất thấm nhầu tinh thần: Học, học nữa, học mãi.

Cuốn sách Liên Hà, truyền thống lịch sử văn hóa và Cách mạng có một vài tấm bảng liệt kê tên tuổi các liệt sĩ đã hy sinh trong những cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở thế kỷ XX. Chỉ tính riêng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trong tổng số 39 liệt sĩ của làng Hà Lỗ, đã có tới 26 vị là người thuộc dòng họ Dương.

Đó là những con số ngập ứ máu và nước mắt.

Và nỗi đau này không phải của riêng mỗi gia đình, dòng họ.

Nghĩa trang xã Liên Hà nằm bên cánh đồng lúa xuân đang vào thì con gái xanh non.

Cỏ dù đã thắm tươi trên những ngôi mộ cũ.

Những hạt sương đêm đọng ánh nắng ban mai long lanh, lóng lánh.

Dường như đêm đêm, nước mắt của Trời và Đất vẫn thầm rơi.

Có lẽ bởi thế, nhân gian ngàn đời vẫn hằng đón đợi những giây phút thần diệu đầu tiên của một ngày mới.

Thấm thoắt trên bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Đại thắng huy hoàng, non sông liền một dải, xóm thôn no ấm yên vui. Những người con bất khuất của đất mẹ Liên Hà hẳn đã ngậm cười nơi chín suối.

Những ngày cuối tháng tư là những thời khắc vô cùng thiêng liêng kỷ niệm ngày giải phóng thống nhất đất nước.

Dịp lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước cũng trùng với kỳ lễ thanh minh của người dân đất Việt.

Khắp nghĩa trang Liên Hà rạng rỡ sắc nến hoa và thơm ngát hương nhang.

Thăm viếng những người anh em họ hàng cùng huyết tộc, song người họ Dương không quên dành những những nén hương thơm trân trọng thắp lên bên trên những ngôi mộ của những liệt sĩ đồng hương trong những dòng họ xóm giềng, những dòng họ đã cùng dòng họ Dương viết nên những trang sử vàng truyền thống học hành khoa bảng, văn võ toàn tài cũng như truyền thống xây dựng và bảo vệ tổ quốc của vùng đất quê Liên Hà, Đông Anh.

Tham gia đoàn viếng nghĩa trang hôm nay có cả ông Dương Văn Quỳnh, bí thư chi bộ thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh. Ông xúc động bày tỏ:

- Dòng họ Dương là một dòng họ lớn ở địa phương, chiếm tới non nửa số dân thôn Hà Lỗ. Trong thời phong kiến thì dòng họ

Dương đã có nhiều vị đỗ đạt đại khoa cống hiến tài năng cho đất nước. Trong các cuộc kháng chiến cách mạng thì dòng họ Dương cũng đã có nhiều vì cán bộ lãnh đạo các cấp dẫn dắt các phong trào. Và cũng có nhiều sĩ quan chiến sĩ lên đường ra mặt trận rồi hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, phát huy truyền thống, bà con của dòng họ Dương cũng đã cùng với các dòng họ khác của địa phương chung tay xây dựng sự nghiệp kinh tế văn hóa phát triển. Hà Lỗ chúng tôi đã nhiều năm liền đạt danh hiệu Làng văn hóa cấp thành phố.

Thấm thoắt lại đã sắp đến ngày hội thi chim hòa bình truyền thống của làng quê Hà Lỗ. Những người con của dòng họ Dương lại tế tựu bên nhà thờ họ, trước là để lễ Tổ, sau là để cùng cụ trưởng họ chăm chút, sắp sửa cho đoàn chim dự tuyển.

Nắm thóc vung lên mái nhà, đàn chim vù vù đập cánh sà xuống thi nhau nhặt. Cảnh tượng thật ấm áp, an bình Thú chơi chim hào hoa của dòng họ Dương đã có từ bao giờ chẳng rõ. Thời nào cũng có những người rất đam mê và cũng đã từng giành được những giải cao trong các dịp hội làng, hội xứ Đông Ngàn xưa và thủ độ Hà Nội hôm nay.

Những đàn chim vỗ cánh bay vút lên bầu trời xanh thằm mang theo niềm khát vọng muôn đời không chỉ của những thế hệ người họ Dương Hà Lỗ mà là của tất thảy loài người trên thế gian.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Thợ vàng Hàng Bạc

Thợ vàng Hàng Bạc

“Thợ vàng Hàng Bạc” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, xin được gửi đến quý vị cùng theo dõi và lắng nghe.

Bài viết:

Bây giờ khách tới tham quan phố Hàng Bạc chủ yếu thấy các cửa hàng buôn bán vàng bạc và các trụ sở công ty du lịch nhỏ. Nhưng vài ba mươi năm trở về trước, phố chủ yếu là những cửa hàng cửa hiệu kiêm xưởng thợ kim hoàn nhỏ.

Nghề kim hoàn Việt Nam được phân ra ba chuyên ngành truyền thống theo ba dạng thức chế biến sản phẩm. Đó là hàng trơn, hàng chạm và hàng đậu. Ở phố Hàng Bạc, người gốc Châu Khê Hải Dương chuyên làm hàng trơn. Người gốc Đồng Xâm, Thái Bình chuyên làm hàng chạm. Còn người gốc Định Công, Hà Nội chuyên làm hàng đậu.

Những người thợ gốc Châu Khê

So với những cửa hiệu kim hoàn trên phố Hàng Bạc, thì hiệu vàng Kim Thịnh ở số nhà số 43 thật quá đỗi bé nhỏ, sơ sài. Bởi vì nhà ông bà Dậu, chủ cửa hiệu, không kinh doanh mà chỉ gia công, sửa chữa đồ trang sức vàng bạc. Kinh doanh buôn bán thì thuế cao, vợ chồng già không đương nổi, đành cọc cạch hàng ngày kiếm đủ tiền chi dùng cho gia đình. Thế cũng đã là khá. Nhưng ngẫm lại, cũng có lúc chạnh buồn. Bởi vì ông Dậu chính là người thợ kim hoàn cao tuổi nhất trên phố Hàng Bạc còn đang theo đuổi nghề gia truyền. Ấy là cái nghiệp mà cả hai vợ chồng ông bà, cũng như hàng trăm gia đình dân phố Hàng Bạc, gốc làng Châu Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương theo đuổi từ khi còn nhỏ. Ở tuổi ngót nghét bẩy mươi, với hơn nửa thế kỷ làm nghề, đã có biết bao nhiêu chiếc vòng xuyến, hoa hột từng qua đôi bàn tay ông mà thành hình. Thế mà vào cái thời bao cấp khó khăn, ngặt nghèo, đã có năm ông bà Dậu phải chuyển nghề làm ăn, mới đủ sinh sống. Bộ đồ nghề gia truyền, ông phải dấu diếm mãi mới còn giữ lại được, chứ hễ lộ ra ngày ấy, thì bị bắt phạt khốn khổ chứ chả chơi. Từ năm 1990, trong cơ chế kinh tế mở cửa, ông bà mới nhúc nhắc mở lại cửa hiệu con con này. Nhưng bây giờ, tóc ông thợ đã bạc trắng, đôi mắt đã kém phần tinh tường. Nhìn dáng ông còng còng ngồi bên ngọn lửa đèn nghề xanh lét, bà thương lắm.

Kém ông Dậu chừng mươi tuổi, ở nhà số 10 đầu phố Hàng Bạc, dưới tên biển hiệu Tân Dung, ông Tân cũng đã có ngót nửa thế kỷ theo nghề. Ông cùng là người họ Phạm và cùng là đồng hương Châu Khê với ông Dậu. Dòng họ Phạm là một dòng họ lớn ở Châu Khê. Các bậc tiền nhân của dòng họ xa xưa đã từng lên kinh đô làm nghề đúc bạc cho ngân khố quốc gia, tương truyền từ thời Lý.

Đến thời Lê, phố Hàng Bạc đã được nhắc đến là một trong 36 phố phường sầm uất nhất của kinh thành Thăng Long - Đông Kinh, với trung tâm là kho đúc bạc của nhà vua ở di tích đình Hàng Bạc hiện thời, tại số nhà 42, cùng hàng loạt các cửa hiệu đổi bạc kế bên, tiền thân của những hiệu kim hoàn sau này.

Bao đời nay, thế giới của những người thợ vàng dường như vẫn chỉ gói gọn trong một ô đất nhỏ chưa đầy một thước vuông. Chiếc bàn gỗ cóc gặm, những thứ đồ lề cũ kỹ, lắm cái đã mòn vẹt, nhuốm màu thời gian. Sản phẩm làm ra từ đôi bàn tay họ cũng bé nhỏ, nhẹ cân nhưng thật đắt giá, có khi là cả khối tài sản chắt chiu một đời người hay có thể là một kỷ vật lưu niệm vô giá.

Để theo đuổi được một cái nghề suốt đời sống bên vàng ròng, bạc chảy, bài học khai tâm từ thuở chập chững vào nghề đến khi tóc ngả màu sương, ông Tân vẫn khắc ghi trong tâm khảm. Ấy chính là bài học chỉ một chữ, chữ Tín. Có một đồng nghiệp trẻ của chúng tôi đã viết rất kỹ về một người thợ kim hoàn đặc biệt của phố Hàng Bạc trên báo VNExpress:

"Từ nhiều năm qua, tọa tại số 83 Hàng Bạc là căn nhà nhỏ sâu hun hút, giữa các cửa hàng khác với biển hiệu sáng trưng và sầm uất. Hầu như những vị khách lần đầu ghé chân đều thấy ngạc nhiên, bởi nó như chứa đựng một Hà Nội xưa cũ. Đó là cửa hàng chế tác trang sức truyền thống của gia đình ông Nguyễn Chí Thành, 71 tuổi.

undefined

Ông Nguyễn Chí Thành bên bàn làm việc của mình. Ảnh: Ngân Dương.

Tiếng búa lục đục, tiếng mài kim loại ken két lẫn với tiếng nhạc xưa là những thanh âm quen thuộc ngày ngày phát ra tại cửa hàng của ông Thành. Đôi mắt chăm chú nhìn vào miếng vàng trắng nguyên bản, môi mím chặt, ông dùng thanh kim loại dài tỉ mần khắc từng chi tiết.

Trước mặt người thợ thủ công ấy treo một bóng đèn tròn, bên ngoài là nửa vỏ lon bia ông tự chế thành chụp đèn. Những vỏ lon bia là hộp đựng, cái bát sứt để chứa những đồ vụn vặt... Hầu hết đồ dùng được truyền từ đời này sang đời kia, các vật dụng hoen rỉ đã nhuốm màu thời gian. Chiếc bàn làm việc của ông chẳng khác gì một tác phẩm nghệ thuật sắp đặt".

Hồng Châu vang bóng một thời

Bà Phạm Thị Lộc ở nhà 34 phố Hàng Bạc giờ đây có thể được coi là người phụ nữ cao tuổi nhất còn giữ nghề, nhưng ở một vị thế khác. Học nghề gia truyền từ năm 13 tuổi, với thâm niên trên 60 năm làm hàng, hiện nay, bà vẫn đương nhiệm chức chủ tịch hội mỹ nghệ kim hoàn Việt Nam. Bà đã có gần 40 năm làm nhân viên rồi làm chủ nhiệm hợp tác xã mỹ nghệ kim hoàn Hồng Châu, thuộc quận Hoàn Kiếm. Vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước, nhà nước tiến hành quản lý chặt chẽ việc kinh doanh, chế tác vàng bạc đá quý và đưa thợ thủ công mỹ nghệ vào cơ chế sản xuất tập thể.

Thế là hơn một trăm người thợ kim hoàn giỏi nghề ở Hà Nội, chủ yếu là thợ Hàng Bạc đã được trưng tập vào hợp tác xã Hồng Châu, số khác vào công ty mỹ nghệ kim hoàn Hà Nội.

Trải hơn ba mươi năm trời, lớp thợ đầu đàn hầu hết đã ở vào tuổi xưa nay hiếm. Người thì đã khuất núi, người thì về quê dưỡng lão, người trở lại phố cũ mở cửa hàng riêng. Đến nay, thực sự chỉ còn hơn hai mươi xã viên còn gắn kết với Hồng Châu (thời điểm năm trước sau năm 2000). Có thể cả vì hai lẽ. Trước nhất vì tình yêu nghề tha thiết, sau cũng là vì kế sinh nhai hàng ngày. Thợ kim hoàn tự xưa, nếu không thật giàu có, cũng chẳng thể nghèo nàn thiếu thốn.

Trong gian nhà xưởng đơn sơ, xập xệ ở giữa phố Hàng Bồ kế bên phố Hàng Bạc, những gương mặt khắc khổ vẫn chăm chú, kiên nhẫn, lặng lẽ cúi sát bên những khuôn bàn cũ kỹ. Người dũa, người mài, người cưa, người chuốt... Tất thảy họ như đang bình thản bỏ ngoài tai bao nhiêu âm thanh sôi động của phố phường Hà Nội những tháng ngày đã sang thế kỷ mới. Và dưới những đôi tay thợ Hồng Châu, bao vẻ đẹp của bạc vàng, châu báu trên đời vẫn đang hé lộ, long lanh, chói sáng.

Đã bao năm, sản phẩm của người thợ Hồng Châu từng nức tiếng trong và ngoài nước, nhất là trên thị trường Đông Âu. Giờ đây, dù trong thời buổi cạnh tranh quyết liệt, người thợ Hồng Châu vẫn luôn đặt hai chữ danh dự và uy tín lên hàng đầu. Những khách hàng kỹ kén ở Hà Nội vẫn tìm đến với Hồng Châu, chính là vì nhẽ ấy.

Bây giờ, ở hợp tác xã Hồng Châu, nghệ nhân lão làng Phạm Thị Lộc và lớp thợ nghề cao tuổi lại đang đặt hy vọng vào người thợ trẻ nhất. Anh Nguyễn Anh Tuấn mê nghề kim hoàn của gia đình từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Mười tám tuổi chính thức vào nghề ở hợp tác xã, giờ đây, anh đã có thâm niên hơn chục tuổi nghề. Theo lớp cha anh đi trước, anh đã gắn bó với Hồng Châu trong thời kỳ gian khó nhất mà không hề nhụt chí. Tâm nguyện của anh Tuấn cũng như tâm nguyện của những người thợ kim hoàn Hàng Bạc hôm nay, giản đơn nhưng thiết thực, gần gũi với cuộc sống đời thường. Anh ước mong được học thêm những kỹ thuật chế tác vàng bạc của thợ kim hoàn nước ngoài, và mong mỏi ngành kim hoàn Hà Nội sớm đầu tư một dây chuyền sản xuất đồ mỹ nghệ kim hoàn hiện đại, hợp thị hiếu và sở thích của khách hàng trong và ngoài nước.

Dầu cũ nghề xưa còn mất?

Nghề kim hoàn Việt Nam được phân ra ba chuyên ngành truyền thống theo ba dạng thức chế biến sản phẩm. Đó là hàng trơn, hàng chạm và hàng đậu. Ở phố Hàng Bạc, người gốc Châu Khê Hải Dương chuyên làm hàng trơn. Người gốc Đồng Xâm, Thái Bình chuyên làm hàng chạm. Còn người gốc Định Công, Hà Nội chuyên làm hàng đậu.

Làm hàng trơn đơn giản nhất, như thể đánh nhẫn, đánh khuyên tai hay vòng tay, vòng cổ... theo lối cũ.

Làm hàng chạm là đặt lá vàng lá bạc hay vật dụng cốc chén bình lọ lên một khối xi dẻo rồi áp mẫu hoa văn vào mà chạm theo các đường nét. Sau đó, gỡ tấm vàng bạc hoặc các vật dụng kể trên khỏi khối xi dẻo đem đi đánh bóng, hoàn thiện.

Làm hàng đậu tức có nghĩa là người thợ chuốt hoặc kéo cho vàng bạc thành những sợi dài nhỏ như sợi tóc, rồi dùng các dụng cụ chuyên dụng để uốn các sợi vàng bạc ấy theo các hình hoa lá, chim muông sống động. Rất kỳ công.

Thời trước, ở phố Hàng Bạc và ở hợp tác xã Hồng Châu, ngoài thợ gốc Châu Khê chiếm số đông, còn một số thợ gốc Đồng Xâm và Định Công. Những năm cuối thập niên chín mươi của thế kỷ trước, cả phố Hàng Bạc chỉ còn đôi ba gia đình người góc Đồng Sảm ở dây bên số chẵn sinh sống, song cũng không còn làm nghề nữa

Cửa hàng kim hoàn Thu Hồng ở số nhà 149 Hàng Bạc bây giờ do cô con dâu ông thợ Định Công Nguyễn Hữu Chỉnh, một người thợ lão làng trong nghề đậu trông nom. Như nhiều người thợ ở tuổi mắt mờ, chân chậm, cụ Chỉnh đã thôi nghề, về quê nghỉ dưỡng lão từ lâu.

Bây giờ, cả làng Định Công cũng chỉ còn dăm bẩy hộ gia đình còn gọ gằng theo nghề Tổ. Chủ yếu là mấy gia đình anh em người họ Quách với hai nghệ nhân nổi danh là Quách Văn Trường và Quách Văn Hiểu. Hàng hóa được gửi bán trên phố Hàng Bạc và trên các cửa hàng thủ công mỹ nghệ rải rác trên các phố trung tâm.

Việc sản xuất nghe cầm chừng, kém sôi động, khác với thời dân làng nô nức làm hàng gia công xuất khẩu theo đơn đặt hàng của công ty mỹ nghệ xuất khẩu trung ương.

Nhìn những cánh bướm, bông hoa, vòng tay, kiềng cổ, vô cùng tinh xảo, mỹ lệ của người thợ Định Công, ai đó cứ thắc mắc hoài không hiểu tại sao mà hàng hóá lại có thể chậm lưu thông đến vậy? Hay là tại đầu ra chưa được khơi thông rộng rãi. Mà chuyện đó, đôi khi nằm ngoài tầm tay của những người thợ.

Dầu không còn coi đây là một nghề kiếm sống chủ yếu, song những người thợ khéo Định Công vẫn tận tâm lựu giữ nghề truyền thống độc đáo của cha ông. Phương ngôn cổ Hà Nội từng có câu: Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã. Và họ vẫn mong ước, đến một ngày nào đó, nhờ phương thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ được đổi mới, sản phẩm của làng nghề sẽ lại cất cánh vươn xa.

Phố Hàng Bạc trong thời kinh tế mở cửa và hội nhập đã thực sự hồi sinh và phát triển, song chủ yếu chỉ là trên phương diện kinh doanh, buôn bán, trao đổi. Nhà cửa chật chội, tiền công lao động thấp, việc sản xuất, chế tác đương nhiên bị thu hẹp. Tuy nhiên, người trên phố vẫn sử dụng nguồn hàng hóa sản xuất từ các làng nghề truyền thống quê hương. Bên cạnh đó là vô vàn những mặt hàng từ miền Nam chuyển ra hay từ nước ngoài nhập về. Khách nước ngoài tìm đến mua đồ trang sức và lưu niệm trên phố ngày nào cũng hàng trăm người có lẻ.

Cũng ở tuổi thất thập, ông Nguyễn Danh Tú, chủ hiệu kim hoàn Phúc Thành, một cửa hiệu kinh doanh vào loại lớn trên phố Hàng Bạc, nay đã có thể yên tâm nghỉ ngơi. Ngọn lửa đèn nghề trao lại cho hai đứa con một trai, một gái. Nhưng việc kinh doanh bây giờ dễ hơn xưa mà cũng có phần khó hơn xưa. Ngoài việc nắm được những ngón nghề gia truyền, người thợ kim hoàn thời nay lại không thể không học hỏi thêm các mẫu mã sản phẩm hiện đại của nước ngoài và ngay của những người thợ trong Nam. Duy chỉ có bí quyết giữ chữ Tín trong làm ăn, kinh doanh là thời nào cũng vẫn phải đặt lên hàng đầu.

Phố Hàng Bạc sang thế kỷ XXI đã có nhiều đổi khác. Hàng chục trụ sở công ty du lịch lữ hành đan xen bên những cửa hàng bán đồ lưu niệm cho khách du lịch và những cửa hàng vàng bạc nay đã được sửa sang cho sáng sủa rực rỡ hơn.

Rời dãy phố Hàng Bạc, có lẽ ai đó sẽ lưu lại trong tâm trí một hình ảnh rất đặc biệt. Trong cửa hiệu kim hoàn nào cũng có một tấm gương thật lớn. Trước mặt người thợ kim hoàn nào cũng có một ngọn đèn thật sáng. Và ngọn lửa nghề nhỏ bé vẫn luôn luôn rực cháy khôn nguôi.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Đào nương ca trù Bạch Vân

Đào nương ca trù Bạch Vân

“Đào nương ca trù Bạch Vân” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Nàng mở chiếc gương soi dặm lại chút phấn hồng trên đôi má không còn nét bầu bĩnh thơ ngây thuở ban đầu song hãy còn lưu lại đôi nét xuân sắc một thời. Ngắt thêm nhành hoa ngâu bên sân chùa gài lên vành khăn tròn trịa, nàng vẫn không giấu được vẻ hồi hộp trước giờ phút lên chiếu ca trù biểu diễn. Trong nỗi hân hoan chia sẻ cùng các đồng nghiệp diễn viên trẻ tuổi của nghệ thuật quan họ, hình như có thoáng một chút âu lo trên gương mặt nghệ sĩ ca trừ. Liệu bà con sẽ đón đợi tiếng hát ca trù của mình ra sao đây?

Trung tuần tháng Chín âm lịch, chùa Phúc Lâm bên kia sông Đuống vào đám giỗ Tổ. Mới sáng sớm, cảnh chùa đã tấp nập, rộn rã. Khách gần khách xa ai ai vừa đến cổng chùa đều đã được bà con dân thôn đón tiếp ân cần, nồng nhiệt. Lẫn trong số đông, những người khách này cũng không có gì khác biệt nếu như họ không mang theo những thứ hành trang lỉnh kỉnh này. Thật là đủ đầy đàn ca sáo nhị nhé.

Ô thì làng vào đám mà, trai thanh gái lịch đàn ca hát xướng càng đồng thì càng vui chứ sao. Nhưng khi lũ trống đàn khăn áo đang còn nguyên trong bao gói, chúng vẫn chỉ như những đám hành lý cồng kềnh, lỉnh kỉnh mang nặng trên vai người.

Kể thì ở chốn thôn quê khuất nẻo này, khó có ai đã dễ nhận ra ngay gương mặt và tên tuổi của chị, kể cả là khi chị đã bắt đầu thay đổi phục trang chờ đến giờ biểu diễn. Chiếc khăn vấn nhung như đã có đôi nốt bạc tuyết. Tấm áo lụa tơ tằm như cũng đã chớm phai màu.

Gương giếng chùa có lẽ cũng chẳng có thể làm trẻ hơn gương mặt của người đàn bà đã từ lâu qua ngưỡng tuổi tứ tuần. Song ánh lên trong đôi mắt ấy vẫn là một niềm khao khát đam mê dấu in từ một thời con gái xa xôi.

Bạch Vân đã ngã vào tình yêu ca trù từ bao giờ nhỉ?

Sinh ra trên vùng đất Nghệ An, cô gái trẻ Lê Thị Bạch Vân sớm có năng khiếu ca hát nên đã trở thành học sinh Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật tỉnh. Duyên may trong kỳ tuyển sinh của trường âm nhạc Việt Nam, nghệ sĩ nhân dân Quang Thọ đã chấm tuyển Bạch Vân cùng một người bạn học ra Hà Nội theo học thanh nhạc tại trường âm nhạc Việt Nam. Sang đến năm 1977, cô gái trẻ ham học lại đăng ký nhập học trường Đại học Văn hóa Hà Nội tại Khoa Văn hóa quần chúng, chuyên Ban Âm nhạc và tốt nghiệp ra trường vào năm 1981.

undefined
Đào nương Bạch Vân và Nghệ nhân Vũ Văn Hồng biểu diễn tại CLB Ca trù Hà Nội. Ảnh: NVCC

Ngược dòng thời gian, cơ duyên mà Bạch Vân theo đuổi bộ môn ca trù lại là do người anh trai dạy cho từ thuở ấu thơ những khổ thơ mưỡu nói, hát nói đầu tiên với những ngôn từ trác tuyệt do Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Tản Đà, sáng tác. Thế rồi thêm một cơ duyên tốt đẹp cho Bạch Vân là cô đã gặp được cụ Nguyễn Văn Trai, nguyên phó lý làng Láng Thượng xưa. Cụ đã tâm sự với Bạch Vân về nỗi buồn khi ca trù đang trên đường bị mai một khó có người tiếp nối. Cụ đã đưa cho Bạch Vân một cuốn sách ca trù cổ với nguyện vọng Bạch Vân sẽ tiếp tục tìm hiểu và khôi phục lại những nét đẹp hào hoa của Hà Nội một thời xa. Tuy nhiên, cũng phải qua một thời gian chật vật lăn lộn, đến năm 1991, ý nguyện thành lập Cầu lạc bộ Ca trù Hà Nội của Bạch Vân mới được thành hình. Ban đầu còn rất đơn sơ, chuệch choạc, sau mới định hình nền nếp sinh hoạt hằng tuần. Sau kỳ ra mắt tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội còn phải luân phiên chuyển sinh hoạt từ các di tích như đền Thủ Lệ, đền Quan Nhân... trước khi định hình bến đỗ một thời gian dài tại Bích Câu Đạo quán trên phố Cát Linh.

Dưới mái di tích Bích Câu đạo quán hằng ghi dấu câu chuyện tình diễm lệ của một thời, có lẽ khó ai có thể ngờ tiếng đàn đáy đang ngân nga những âm điệu thánh thót, dịu dàng ấy lại là từ đôi tay của một người đàn ông ngoại quốc, anh Barley Notton, đến từ xứ Anh quốc xa xôi. Barley Notton sang Việt Nam khoảng cuối năm 1992, do được GS - TS Nguyễn Thuyết Phong ở Mỹ giới thiệu tìm hiểu ca trù Việt Nam. Anh đã gặp nghệ sĩ Bạch Vân và nghệ nhân đàn đáy Chu Văn Du để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ về ca trừ. Nền nghệ thuật truyền thống dân tộc Việt Nam hút hồn chàng trai ngoại quốc với những khúc đàn hát thơ mộng, thậm chí có thể gọi là mê hoặc nữa:

- Việt Nam là một xử sở kỳ diệu. Phong cảnh đẹp tươi. Con người thân thiện và âm nhạc truyền thống thì quyến rũ hồn người đi từ hết cung bậc này sang cung bậc khác. Ca trù nghe nói rất bác học nhưng tôi thấy cũng cũng hết sức gần gụi và dễ tiếp cận qua giọng hát và phong cách biểu diễn của Bạch Vân.

Từ nhiều năm rồi, có lẽ trong giới người đam mê nghệ thuật truyền thống của Hà Nội không ai là không biết đến nữ nghệ sĩ Bạch Vân chủ nhiệm câu lạc bộ ca trù Hà Nội đặt tại ngôi đền hay còn gọi là Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh. Cứ vào mỗi ngày chủ nhật cuối tháng dương lịch, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội lại đều đặn nhóm họp. Khách gần khách xa lại lục tục kéo đến. Với họ, sức hấp dẫn và thu hút của Câu lạc bộ không gì khác là niềm đam mê một môn nghệ thuật truyền thống độc đáo của dân tộc, nghệ thuật ca trù hay còn gọi là lối hát cửa đình, hát ả đào, hát nhà trò của một thời.

Nhà riêng của nhà thơ, nhà báo lão làng Chu Hà ở phố Hàng Bột xưa nay là phố Tôn Đức Thắng rất gần ngôi đền Bích Câu, trụ sở của Cầu lạc bộ Ca trù Hà Nội. Vốn cũng là một người nặng lòng trăn trở với nghệ thuật ca trù truyền thống, cụ là người ban đầu đã không mấy tin tưởng và ủng hộ nghệ sĩ trẻ Bạch Vân trong công việc gây dựng lại câu lạc bộ ca trù Hà Nội những ngày đầu trứng nước. Nhưng thực tế đã chứng tỏ thực lực và tâm huyết của Bạch Vân đã đem lại kết quả rất đáng ghi nhận. Năm ấy, ở độ tuổi xấp xỉ cửu tuần, sức lực tuy đã mỏi mòn, đôi tai chừng như đã lễnh lãng đôi phần, song trí nhớ của bậc trưởng thượng Chu Hà vẫn còn đáng nể lắm:

- Bạch Vân rất ham học hỏi. Ca trù có nhiều khúc mưỡu và hát nói được các nhà nho tài ba soạn bằng những câu thơ cổ còn nguyên âm chữ Hán, có thể rất khó hiểu và khó thuộc. Nhưng cô ấy hát không khi nào bị sai từ ngữ hoặc lệch vần điệu. Lớp trẻ học theo cô ấy cũng không dễ đâu.

Và cũng khó ai có thể ngờ được, cứ đều đặn mỗi tháng, từ đất Thanh Hoa xa xôi, có một người đàn ông tuổi đã ngoại bẩy mươi lại khăn gói trống đàn ra Hà Nội để đến với câu lạc bộ ca trù Hà Nội. Đã trên nửa thế kỷ đứt quãng với nghiệp cầm ca, nay ông như được hồi sinh trở lại trong nhịp phách tiếng đàn đầy da diết nhớ thương.

Được kết nạp vào một câu lạc bộ nghệ thuật của người Hà Nội, thật là vinh dự lắm thay. Nghệ nhân đàn đáy ưu tú Ngô Trọng Bình nay đang ở tuổi ngoại chín mươi rất tâm đắc với giọng ca trù Bạch Vân:

- Tôi đàn cho cô Vân hát điệu Thét nhạc hay ca bản Tỳ Bà Hành rất là ăn ý. Khán giả hưởng ứng nhiệt liệt. Tôi cũng như trẻ lại với những cung đàn điệu nhạc ca trù cổ truyền mà không mấy người có thể chia sẻ được niềm đam mê như cô Vân.

Trong cuộc đời con người đều có những dấu ấn năm tháng khó có thể mờ phai. Với Bạch Vân, mấy năm trong thời đoạn chuyển giao thế kỷ là những năm tháng đáng nhớ nhất. Năm 1999, Bạch Vân viết đề án & phối hợp giữa CLB Ca trù HN với Ban Tuyên giáo Thành uỷ, Sở Văn hóa thông tin tổ chức "Hội thảo ca trù Thăng Long Hà Nội lần thứ nhất". Năm 2000, Bạch Vân lại thành công với đề án "Liên hoan ca trù HN mở rộng lần thứ nhất", cũng với sự đồng ý và phối hợp của các cơ quan Thành ủy và Sở chủ quản Văn hóa thông tin. Hoạt động hội thảo và liên hoan ca trù với sự tham gia đại diện 13 tỉnh thành có giáo phường đầu tiên đã thành công vang dội. Từ đó, Quỹ Ford đã đề nghị giúp đỡ Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca trù qua các hoạt động như mở Liên hoan, hội thảo ca trù toàn quốc, đào tạo lớp diễn viên trẻ ca trù cấp tốc. Không ai khác, Bạch Vân lại được Bộ Văn hóa thông tin mời tư vấn giúp tổ chức và soạn giáo án giảng dạy cho lớp học. Với 78 học viên được học cấp tốc hai tháng, lớp học đã tạo tiền để nòng cốt cho các địa phương muốn khôi phục nghệ thuật ca trù ở 13 tỉnh thành phía Bắc.

Đầu năm 2003, Bach Vân được thay mặt nghệ thuật ca trù Việt Nam dự giao lưu biểu diễn tại Diễn đàn xã hội thế giới tổ chức tại Ấn Độ. Giữa năm 2004, Trung tâm từ điển thế giới Oxpord và Cambeger đã bình chọn Bạch Vân là một trong 2000 nhà thức giả xuất sắc thế kỉ XXI. Cũng năm đó Bạch Vân đã cung cấp tư liệu quan trọng về nghệ nhân, giáo phường địa phương của 17 tỉnh thành cho nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan - Viện phó Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam theo lời đề nghị, để trình Bộ Văn hóa thông tin kiến nghị UNESCO công nhận Hát ca trù là di sản Văn hóa phi vật thể thế giới.

Đam mê với ánh đèn sân khấu nhưng Bạch Vân cũng có một niềm đam mê không kém với công việc học tập và nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn nghệ thuật. Năm 2004, nàng đã hoàn thành luận văn thạc sĩ nghệ thuật với đề tài "Đào nương và nghệ thuật hát trong ca trừ". Và đến năm 2020, công trình đó khi được in thành sách đã được hội nhạc sĩ Việt Nam tặng thưởng giải B (không có giải A). Đó là một niềm vinh dự mới mẻ của người nghệ sĩ đã dành cả nửa thế kỷ cho tình yêu ca trù.

Vào năm 2012, với những cống hiến nỗ lực cho việc trình diễn, bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca trù dân tộc, Bạch Vân đã vinh được được nhà nước phong tặng danh hiêu cao quý Nghệ sĩ ưu tú.

Nhưng giá thử mà không có người từng lao tâm khổ tứ chắp nhặt, chi chút từng manh chiếu, bộ trà, gây dựng nên Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội thì sao có được ngày hôm nay, vang danh bốn bể. Nữ nghệ sĩ Bạch Vân từng được mời đi biểu diễn ở rất nhiều nơi trong và ngoài nước, được nhận kha khá những huy chương vàng bạc và giải thưởng cao thấp. Đặc biệt là nàng hay được mời biểu diễn minh hoa cho những cuộc hội thảo về khôi phục nghệ thuật ca trù truyền thống ở Hà Nội và cả nước.

Vang danh bốn bể, nhưng ấy là vang danh câu lạc bộ với cái tôn chỉ mục đích mang hàm chứa đủ đầy tính chân thiện mỹ của nó. Còn Bạch Vân, với sức lực và tài năng hữu hạn, dẫu có gắng gỏi đến mấy, cũng khó có thể vượt lên và nổi trội. Nhưng sự đời, một niềm đam mê đích thực, vốn là tự thân của nó, rất hồn nhiên và trong sáng, đâu chỉ vì một mục đích thực tế cụ thể nào. Dẫu rằng mục đích ấy có thể cũng rất tốt đẹp đi chăng nữa. Và mặc dù nếu có đến được với mục đích ấy, chặng đường đi cũng thật lắm đỗi gian nan gập ghềnh. Mà không thể không nói rằng, điều kiện cần và đủ để tạo sức sống cho một niềm đam mê, ấy chính là cái khoảng cách vô hình đôi khi rất trớ trêu như thế.

Vào một ngày xấu trời nào đó, cái địa điểm linh thiêng mà Bạch Vân chi chút chăm lo từ việc trải chiếu quét nhà cho đến hương hoa trầu rượu tại Bích Câu đạo quán đã bị một thế lực mạnh hơn chiếm cứ. Cả thầy lẫn tớ Bạch Vân lại lơ ngơ phiêu bạt mất một thời gian cho đến khi duyên may lại được nương nhờ dưới bóng Thánh tổ nghề kim hoàn tại đình Kim Ngân phố Hàng Bạc.

Những hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống trong khu phố cổ Hà Nội kể từ dịp kỷ niệm 1000 năm khởi dựng kinh thành Thăng Long Hà Nội, trong đó có câu lạc bộ ca trù của Bạch Vân cũng đã góp phần tạo nên một diện mạo mới mẻ đầy sức sống thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Bạch Vân như nạp được thêm một nguồn năng lượng mới để say sưa cống hiến và đào luyện những hạt nhân ca trù trẻ tuổi. Nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Bá Hanh (tức Hải) với những ngón đàn điêu luyện ngọt ngào, tình tứ chính là người đã trưởng thành từ những đêm hát ca trù của câu lạc bộ ca trù Hà Nội dưới sự kèm cặp dẫn dắt chí tình từ nghệ sĩ Bạch Vân.

Cho đến nay, đào nương Lê Ngọc Hân, thành viên của cầu lạc bộ ca trù Hà Nội, cô gái trẻ từng theo Bạch Vân từ cái thời Hồng Hồng Tuyết Tuyết mới ngày nào chưa biết cái chi chi... cũng đã thành thục lời ca nhịp phách và được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú vào năm 2014. Đó cũng được coi như một phần thưởng cho cuộc đời nghệ sĩ của Bạch Vân.

Bạch Vân tuổi Đinh Dậu. Cho dù không mê tín thì người đời cũng biết là gái Đinh Dậu chả mấy ai được ung dung nhàn nhã. Từ chuyện sự nghiệp đến chuyện đời tư Bạch Vân cũng đều long vất vả. Kiếp sống của người nghệ sĩ dân gian, như các cụ ta vẫn nói, tiếng cả mà nhà không.

Gọi là nhà không thì không hẳn đã đúng, vì căn nhà của nghệ sĩ Bạch Vân lúc nào cũng ăm ắp tiếng đàn ca. Nhưng mà, ngẫm như một câu Kiều thì:

Rằng hay thì thật là hay

Nghe ra ngậm đẳng nuốt cay thế nào

Có người nghe chuyện trách rằng: Quả là người cũng như tên, chuyện dưới đất không lo, cứ lơ lửng trên trời, đã là mây, lại còn là mây trắng. Sao mà thanh khiết mà bay bổng đến thế. Rồi biết đến bao giờ mà mặt đất gặp được chân mây?

Nhưng quái lạ, trở đi trở lại, cái nghiệp cầm ca dù đắng cay đến mấy, cũng vẫn dễ khiến người ta rút ruột rút gan cả một đời cho nó mà chẳng thể tính toán thiệt hơn. Quả thực vậy, nếu so đo tính toán thiệt hơn thì sao còn có thể gọi là nỗi đam mê.

Chặng đường trở lại đầu tiên của nghệ thuật ca trù truyền thống trên đất Hà Nội dẫu mấy khó khăn trắc trở song cũng đã lui lại đằng sau. Những người đam mê tâm huyết với nghệ thuật ca trù ở Hà Nội đã ngày một đông đảo thêm, trong đó là không ít những mầm non nghệ thuật đang hé nở. Dẫu rằng chặng đường đến với những đỉnh cao của nghệ thuật ca trù còn rất đỗi truân chiên.

Nhưng hỏi rằng liệu Bạch Vân đã có một lần nào nản chí?

- Không bao giờ. Bạch Vân còn sống là còn ca hát và còn gõ phách. Đơn giản chỉ có thế thôi?

Đám hội làng quê bên sông Đuống đang vào canh quan họ nao nức, rộn ràng. Tình tứ và thắm thiết. Nữ nghệ sĩ Bạch Vân đang chờ đến tiết mục biểu diễn của mình. Nàng mở chiếc gương soi dặm lại chút phấn hồng trên đôi má không còn nét bầu bĩnh thơ ngây thuở ban đầu song hãy còn lưu lại đôi nét xuân sắc một thời. Ngắt thêm nhành hoa ngâu bên sân chùa gài lên vành khăn tròn trịa, nàng vẫn không giấu được vẻ hồi hộp trước giờ phút lên chiếu ca trù biểu diễn.

Trong nỗi hân hoan chia sẻ cùng các đồng nghiệp diễn viên trẻ tuổi của nghệ thuật quan họ, hình như có thoáng một chút âu lo trên gương mặt nghệ sĩ ca trù. Liệu bà con sẽ đón đợi tiếng hát ca trù của mình ra sao đây?

Bởi tự xưa, ca trù vốn vẫn là một nghệ thuật mang tính bác học khá cao, nó không dễ thích hợp với số đông khán thính giả, nhất là các khán thính giả của Hà Nội thế kỷ XXI, một Hà Nội đang trên con đường phát triển hội nhập mạnh mẽ với đất nước và cả thế giới. Song có lẽ chính vì thế mà nỗi khát khao bảo tồn và duy trì nó càng thêm cháy bỏng, nồng nàn. Dẫu rằng vẫn khắc khoải trong đáy tim một câu Kiều mông lung nghi hoặc mà cũng khấp khởi ước mong:

Vui là vui gượng kẻo mà

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Trên trời cao, những đám mây trắng mang tên gọi như là một lời tiên tri của cuộc đời nữ nghệ sĩ Bạch Vân vẫn lãng đãng trôi về một chốn xa. Và có lẽ, chúng vẫn đem theo bao nỗi ước mơ của không chỉ một kiếp người trong cõi nhân gian.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Những tấm áo dài của mẹ

Những tấm áo dài của mẹ

“Những tấm áo dài của mẹ” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, xin được gửi đến quý vị cùng theo dõi và lắng nghe.

Bài viết:

Một khoảng trời ký ức xa xưa như chợt hiện về trong ánh mắt mờ đục của mẹ. Bàn tay người run rấy mân mê hạt khuy áo ngọc trai trên chiếc áo dài lụa Bombay màu be hồng đã lỗ chỗ đôi ba nốt bã chè. Tôi biết, đó là tấm áo dài duy nhất của mẹ còn lại từ những năm thuộc thập niên 50 của thế kỷ trước. Thời ấy, cha tôi đang còn là một ông chủ hãng xe vận tải nhỏ ở Hà Nội, cảnh nhà cũng khá sung túc. Chiếc áo này mẹ đã mặc khi bế tôi đứng chụp ảnh cạnh chiếc xe nhà, bên hè phố Cửa Đông. Chiếc ảnh ấy nay hãy còn lưu trong tập ảnh gia đình.

undefined
Áo dài của người phụ nữ xưa

Mùa xuân năm Canh Thìn, năm 2000, Tết xong, mẹ tôi ngã bệnh nặng, chạy chữa thuốc thang suốt hơn nửa năm trời không thuyên giảm. Mấy ngày cuối cùng, các mợ, các thím trong họ qua thăm, lúc ra về, đều gọi chị em tôi ra bảo nhỏ:

- Sắp sửa cho mẹ đi, kẻo khi việc xảy ra lại vội vàng.

Dù thương mẹ đứt ruột, nhưng chị em tôi không thể không nghe lời các thím, các mợ.

Ngăn tủ quần áo của mẹ được giở ra. Nhà chật, đương nhiên mẹ trông thấy hết, dù bà đã nằm liệt trên chiếc giường nơi góc phòng. Mẹ bình thản bảo tôi, lúc ấy đang ngồi xoa lưng cho bà:

- Các chị đang sắp sửa cho mẹ đi đấy!

Tôi suýt ứa nước mắt, song vội gạt đi:

- Mẹ cứ nghĩ quẩn, mấy hôm rồi mưa ngâu, sợ quần áo ẩm, chúng con lấy ra đem phơi thôi mà.

Mẹ tôi lắc đầu nhẹ, gọi chị cả tôi đem lại cho bà một bọc gói lớn xếp trên ngăn tủ cao nhất. Bọc khăn vuông sợi chéo "mậu dịch", nền xanh hòa bình kẻ viền màu nâu, dấu vết của thời bao cấp cách đây đã gần 40 năm. Ấy là bọc áo dài của mẹ, áo dài cũ. Còn những chiếc áo đang dùng, vẫn treo sắp hàng trên mắc, trong ngăn tủ gương.

Tôi run run mở mãi mới được chiếc nút khăn buộc chéo dễ đến hai ba múi chặt. Một khoảng trời ký ức xa xưa như chợt hiện về trong ánh mắt mờ đục của mẹ. Bàn tay người run rẩy mân mê hạt khuy áo ngọc trai trên chiếc áo dài lụa Bombay màu be hồng đã lỗ chỗ đôi ba nốt bã chè. Tôi biết, đó là tấm áo dài duy nhất của mẹ còn lại từ những năm thuộc thập niên 50 của thế kỷ trước. Thời ấy, cha tôi đang còn là một ông chủ hãng xe vận tải nhỏ ở Hà Nội, cảnh nhà cũng khá sung túc. Chiếc áo này mẹ đã mặc khi bế tôi đứng chụp ảnh cạnh chiếc xe nhà, bên hè phố Cửa Đông. Chiếc ảnh ấy nay hãy còn lưu trong tập ảnh gia đình.

Còn hàng chục chiếc áo của mẹ may cùng dạo ấy, thì vào thời chiến tranh chống Mỹ, chị em tôi đã lôi hết ra để cắt may thành những chiếc áo mặc hàng ngày. Tội nghiệp, khi còn là áo dài thì trông chúng duyên dáng vậy, mà đến khi sửa thành áo sơ mi, trông chúng rõ ra là đồ thừa thẹo, chắp vá. Mẹ cứ nhìn chị em chúng tôi diện áo mà chẳng khen chê câu nào. Thi thoảng người lén thở dài, chắc là không muốn cho chị em tôi biết rằng người nhớ tiếc lắm vẻ đẹp của một thời cùng bao kỷ niệm về những dịp hội hè, cưới xin, tết nhất thanh bình, êm ấm. Dạo ấy vải vóc khó khăn lắm, mà ai dám chắc sẽ có lúc nào lại được mặc áo dài đi chơi trên phố Hà Nội?

Một tập áo khác, bàn tay mẹ yếu ớt cố cầm soi lên luồng ánh sáng nơi cửa sổ. Đây là bộ áo kép của bà ngoại. Bà ngoại để lại cho mẹ tôi khi người khuất núi. Áo lụa tơ tằm Hà Đông. Chiếc áo bên trong là áo đoạn màu vàng chanh, chiếc áo bên ngoài là áo nhiễu màu huyết dụ. Thuở sinh thời, bà ngoại tôi thường kể, phụ nữ Hà Nội thời ấy, khoảng những năm đầu và giữa thế kỷ XX, đã ít người mặc áo mớ ba tứ thân theo lối cổ, nhưng thường mặc áo kép đôi năm thân như thế. Không mấy ai chỉ mặc áo đơn. Ấy là chưa kể lượt áo cánh ngắn mặc lót bên trong. Như thế mới là kín đáo, lịch sự.

Bên dưới bọc là một tấm áo dài mùa đông, một mặt bằng lĩnh đen, thứ lĩnh Bưởi bóng nhẵn, một mặt là thứ vải láng đen hay chéo đen, tôi cũng không phân biệt rõ lắm. áo trần lối quân cờ. Chiếc áo chỉ mới hơi sờn một chút nơi khuỷu tay. Mẹ thầm thào nhắc:

- Mấy hôm rồi mẹ hay nằm mơ thấy bà ngoại các con...

Tôi bỗng sực nhớ lại hình ảnh của bà ngoại tôi những ngày mùa đông rét mướt cách đây đã trên ba bốn chục năm. Bà thường ngồi uống trà trên chiếc trường kỷ cũ kỹ, mặc đúng tấm áo dài này.

Trên đầu người đội tới hai chiếc khăn. Chiếc khăn láng đen bên trong buộc lối mỏ quạ, phủ ngang trán. Chiếc khăn len bên ngoài màu vàng mơ chỉ trùm ngang đỉnh đầu và thắt múi dưới cằm. Hai tay người thu lu ôm chiếc bình ủ nước nóng quấn mấy lần khăn vải hoa.

Rồi mẹ tôi bảo chị cả tôi mở chiếc tủ gương, ánh mắt người chầm chậm lướt qua cả một dãy áo dài mắc thành hàng trên thanh suốt ngang. Tiếng nói của mẹ nghe đã hơi thều thào song cũng còn khá rành rẽ:

- Cái áo gấm thất thể, mẹ để cho mợ các con (tức là em dâu của mẹ tôi), mợ vẫn thích một chiếc như thế mà chưa có dịp may, mợ vốn nhiệm nhặt quá. Cái áo sa tanh nâu thêu hoa cúc vàng kia, các con đem về cho thím Hai ở dưới quê. Thím cũng già rồi, chắc hay đi lễ... Còn những chiếc áo khác, các dì, các thím, ai thích chiếc nào thì lấy chiếc ấy...

Đôi mắt mẹ như bỗng mờ đi xa xăm... Chắc có lẽ người đang nhớ về cái thời tản cư năm 46, chị em dâu gái đùm bọc cháo cơm, khoai sắn, nuôi cháu, nuôi con trong những chiếc ổ rơm vàng ấm áp...

Dừng một lát, người nhắc:

- Khi mẹ đi thì chỉ cần mặc cho mẹ chiếc áo nhung hoa là đi...

Tấm áo dài nhung hoa, mẹ tôi có dễ may vào thời những năm sau sau khi đất nước đã thống nhất. Mảnh nhung do chị cả tôi đi công tác châu Âu mua tặng. Còn tấm gấm thất thể do tôi sang du lịch Trung Quốc lựa về. Mảnh sa tanh nâu, cô em út được thưởng mang biếu mẹ. Còn những tấm áo khác, hàng chục chiếc không ít, do dích tay mẹ chọn mua vải ở chợ Đồng Xuân hay trên phố Hàng Gai, Hàng Quạt, vào những năm thành phố đã bước vào thời kỳ mở cửa và hội nhập. Những là lụa vân, lụa chí cẩm, nhung the, màu tiết dê, màu vỏ đổ, màu thép sáng, màu mơ già, màu mắm tôm... và hầu hết những tấm áo dài của mẹ tôi đều được may cắt ở cửa hiệu ông Mỹ Hào, người làng Trạch Xá, trên phố Cầu Gỗ. Sau này,không hiểu tại sao, chị em chúng tôi và cả các cháu gái, cũng vẫn đến may áo dài ở chính cửa hiệu ấy, mặc dù Hà Nội bây giờ cũng có bao nhà may danh tiếng khác. Nay ông Mỹ Hào cũng đã bước qua tuổi thất thập rồi, đường kim mối chỉ không biết có còn được như xưa?

Những năm cuối đời, mẹ tôi đã có được đôi chút thư nhàn, thanh thản thường diện áo dài đi hội lễ, cưới xin... và chụp ảnh...

Nhưng mà mẹ tôi bỗng thở dài, nghe thoáng chút ngậm ngùi:

- Mẹ chỉ tiếc, bộ áo cưới của mẹ mấy năm tản cư trong kháng chiến đã không giữ được. Ngày ấy...

Mẹ tôi dường như đã mệt, trở mình quay vào bên trong và chìm dần vào giấc ngủ. Ấy là một ngày trước khi mẹ tôi qua đời chừng ba bốn hôm...

Tôi bất chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Bính

Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía

Này gương, này lược này hoa tai...

Trước mắt tôi lung linh hình ảnh một đám rước dâu lộng lẫy thướt tha, từ nhà ngoại, ở làng Ngũ Xã bên hồ Trúc Bạch, ra Phố cổ Hàng Đồng, vào một mùa xuân cách đây đã gần sáu mươi năm...

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Chiếc bình tích đồng thau

Chiếc bình tích đồng thau

“Chiếc bình tích đồng thau” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Khi đỡ chiếc bình trên tay, tôi thấy nó dường như bé hẳn đi so với trí nhớ xưa cũ của mình. Duy chỉ cái hình dáng đặc biệt hệt như một chiếc bánh dày đại trong đám hội làng, là tôi thấy y nguyên. Khắp mình nó đầy vết lồi lõm, sứt võ, dù đã được mợ tôi nhờ người hàn lại bằng những mối hàn thiếc.

Vậy mà trong vệt sáng lung linh, mờ ảo nơi thân bình, tôi như thấy hiện lên hình ảnh của những người đàn bà thân yêu nhất trong cuộc đời tôi nay đều đã khuất xa. Bà ngoại, mẹ tôi, dì tôi, mợ tôi, những người đàn bà, con gái, con dâu của làng nghề đúc đồng cổ xưa, vất vả, tảo tần, thương cháu, yêu con nhất mực.

Nghe tin mơ Liên ra đi đột ngột, Tôi chạy với về 38 phố Hàng Đồng. Lúc ấy mợ đã được đưa sang nhà tang lễ Phùng Hưng. Em Tuyết, cô em con cô con cậu của tôi sụt sùi kể chuyện:

Cho đến lúc mợ tôi đột ngột mắc cơn cảm nặng và lâm vào tình trạng hôn mê, dường như đã vô thức, bà mới chịu rời chiếc bình ủ bằng đồng thau đựng đầy nước nóng, bọc trong mấy lần khăn bông to dày.

Không phải là bởi chiếc bình thật là cao giá. Mà bởi chính là nó thật sự cần thiết cho bà. Mấy hôm ấy, trời Hà Nội đang kỳ rét đậm. Hiếm có đợt rét nào kéo dài như đợt rét đầu tháng giêng năm Tân Tỵ 2001. Đấy chính là chiếc bình ủ bằng nước nóng, thay cho lò sưởi giữ ấm thân thể.

Chiếc bình ấy tôi biết, nó có từ thuở sinh thời bà ngoại tôi, tức là bà mẹ chồng của mợ.

undefined
Bình tích đồng thau

Ngày xưa khi còn nhỏ, mỗi kỳ rét đậm, nhất là trong tiết đại hàn, tôi rất thích được vào ngủ cùng bà ngoại, vì bà thường để chiếc bình ủ ấy trong chăn, ấm ơi là ấm! Có đêm, thấy bà sẽ sàng trở mình, tôi mơ màng tỉnh giấc, thì ra là bà đang gượng nhẹ trở dậy để gỡ bớt một lượt khăn bông quấn bên ngoài chiếc bình, chắc là do nước trong bình đã giảm hơi nóng. Rồi dúi nó lại bên mình tôi, ý là để cho cháu ngoại được ngủ ngon thêm một lát trước giờ đi học.

Khi tôi lớn lên, dì Hai tôi sinh thêm em bé. Mỗi lần trời trở nồm, mưa phùn ẩm ướt, quần áo phơi cách nào cũng không khô, bà tôi liền lấy chiếc bình đồng ấy, đồ đầy nước sôi già, rồi quấn cả đám tã lót ướt của em tôi vòng quanh. Chỉ chừng nửa buổi, gỡ ra là chúng khô cong, thơm phức. Ngày ấy, những năm sáu mươi bẩy mươi của thế kỷ trước, lấy đâu ra lò sưởi điện hay máy sấy như bây giờ.

Đến mùa hạ, khi hoa sen đầu mùa chớm nở, mẹ tôi quen lệ ướp vài ba cân trà mạn để dành tiếp khách. Chiếc bình đồng lại được trưng dụng để sấy trà. Bà cho trà đã rắc gạo sen vào những túi giấy bóng mờ, gọi là giấy nến, dán kín lại. Rồi xếp những túi giấy vòng trong lòng chiếc thúng nan. Đoạn, bà đặt chiếc bình tích đã đổ đầy nước sôi già vào giữa thúng. Ủ thêm mấy tấm khăn bông vải to đùng. Qua một ngày đêm sẽ dỡ trà đem sàng bỏ lớp gạo hoa cũ, thay lớp gạo hoa mới. Cứ dăm lần ướp và ủ như thế mới hoàn thiện một mẻ trà hương. Mẹ tôi bảo rằng, trà sấy cách thuỷ kiểu ấy tuy hơi lâu nhưng bền hương, không dễ khét như trà sấy vội, kiểu sấy điện hay sấy than.

Tôi lớn lên, vào đại học, rồi đi lấy chồng, ra ở riêng. Tôi nhớ, ngày tôi sinh con đầu lòng, cũng vào một ngày tháng mười chớm đông năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Đích thân bà ngoại tôi còn đi xích lô xuống thăm. Tay bà ôm khư khư chiếc bình đồng thau, để cho tôi dùng ủ tã cho chắt ngoại, khiến tôi cảm động vô cùng. Bởi khi ấy, nhà tôi đang gặp hoạn nạn, vợ chồng xa cách, tôi sinh con, nuôi con một mình, hay tủi thân lắm. Sau đó, theo thời gian, cuộc sống khấm khá lên, vợ chồng tôi cũng sắm đủ, nào là máy sấy, lò sưởi điện, máy điều hòa hai chiều.

Tôi dần dần quên bằng chiếc bình đồng cổ. Hình ảnh cuối cùng về nó mà bấy lâu nay, thi thoảng tôi còn nhớ tới, là hình ảnh của bà ngoại tôi, mặc chiếc áo bông dài trần quân cờ, đầu trùm khăn mỏ quạ, tay thu lu chiếc bình ủ, trong một chiều đầu xuân giá lạnh trước khi bà tôi qua đời ít lâu. Ngày ấy thế mà cách đây đã gần bốn mươi năm.

Khi bà tôi khuất núi, chiếc bình được truyền cho cô con dâu, tức là người mợ hiền của tôi. Giữa đất Hà Nội những năm cuối thế kỷ hai mươi, đầu thế kỷ XXI, mà mợ tôi vẫn dùng chiếc bình ủ ấy, bởi vì nhà mợ vốn không dư giả gì. Mà cũng bởi vì nhà mợ đun bếp than suốt ngày, nước non rất tiện. Rồi còn bởi một lý do vô cùng thiêng liêng nữa. Đó là gia đình bên ngoại tôi vốn quê gốc ở làng đúc đồng Bắc Ninh, làng Dí Hạ, tên chữ là làng Đào Viên thuộc xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành. Sau họ tộc theo lên sinh sống và hành nghề ở làng Ngũ Xã bên hồ Trúc Bạch, rồi chuyển về ở phố Hàng Đồng mở cửa hàng buôn bán. Có một thời nhà nước quản lý nghiêm ngặt. Nghề đúc đồng và buôn bán đồ đồng bị cấm, gia đình bên ngoại tôi đành phải bỏ nghề trong khoảng vài ba chục năm, mới khôi phục lại cửa hàng, cũng chả dám bày biện to tát gì.

Vào thời buổi khó khăn đó, những món đồ đồng như xanh nồi, đỉnh đèn, lư hương thật là những món đồ cổ quý giá. Chiếc bình đồng cũng vậy. Cậu mợ tôi thi thoảng mua được một mẻ thiếc vụn, đem đúc thành một thoi trên bếp than quả bàng ở sân sau, để bán cho những nhà hàn nồi hàn xoong bên phố Hàng Thiếc, và để hàn chính chiếc bình đồng này những lúc nó không may bị đánh rơi sứt vỡ. Mỗi lúc làm vụng làm trộm một mẻ hàng như thế, cứ phải cài then đóng chặt cửa nhà. Công an mà biết được thì hết đường sống.

Mợ tôi là một người đàn bà phố cổ, nhà ngoại của mợ ngay bên phố Thuốc Bắc. Tên cúng cơm của mợ là Chung. Mãi sau tôi mới biết. Chứ toàn gọi mợ theo tên cậu Liên tôi. Mợ rất đảm đang, chịu khó và nhẫn nhịn. Mợ nhất mực phục tùng và e sợ cậu tôi, một giai phố cổ chính hiệu, con trai duy nhất của ông ký tòa cũ, mà sang thời chế độ mới, thành anh công nhân. Anh công nhân nhưng vẫn không bỏ nếp sống "cậu ấm" cũ. Mợ tự hiểu mà phục vụ. Kể cả suốt một thời chiến tranh bao cấp khó khăn ngặt nghèo, mợ vẫn thổi riêng cho cậu tôi một cái niêu mốt đồng điếu cơm gạo quê.

Còn cả nhà ăn cơm gạo mậu dịch. Cậu tôi dù thời buổi nào cũng giữ thói quen đọc sách và sưu tầm sách. Cậu cần đến tiền mua sách và tiếp đãi trà rượu các bạn bè yêu văn chương, là mợ tôi phải đưa, bất biết nhà thiếu đủ ra sao. Không một câu than thân trách phận.

Nghĩ lại mà thương mợ quá.

Sau này, có lần vào thăm mợ, lúc trà nước rôm rả, tôi vui miệng nói đùa: "Khi nào mợ hai năm mươi, mợ nhớ cho con chiếc bình đồng, còn con không xin gì cả". Thế mà mợ tôi cười, đưa tay vuốt đôi khóe miệng tươi màu nước cốt trầu, hàm răng đen hạt na lấp lánh. Mợ bằng lòng ngay. Bởi vì tôi là một đứa cháu gái rất được mợ yêu quý. Dù hoàn cảnh riêng còn nhiều vất vả, song tôi bao giờ cũng vẫn nhớ qua lại đỡ đần, thăm hỏi mợ và các em tôi, nhất là khi cậu tôi đã sớm đi xa, để lại mợ với gánh nặng nuôi bốn đứa em tôi đang tuổi ăn tuổi lớn, học hành còn dang dở.

Ngờ đâu, mợ tôi đột ngột qua đời, không kịp dặn dò cháu con lấy một lời. Hôm cúng ba ngày mợ, em Tuyết tôi dỡ chiếc bình từ trong bọc khăn bông tưởng còn ấm hơi mợ, dốc nước trong bình cho hết để đưa cho tôi. Nước mắt tôi ròng ròng chảy theo dòng nước trong vắt róc rách tuôn xuống tự cổ bình. Khi đỡ chiếc bình trên tay, tôi thấy nó dường như bé hẳn đi so với trí nhớ xưa cũ của mình. Duy chỉ cái hình dáng đặc biệt hệt như một chiếc bánh dày đại trong đám hội làng, là tôi thấy y nguyên. Khắp mình nó đầy vết lồi lõm, sứt vỡ, dù đã được mợ tôi nhờ người hàn lại bằng những mối hàn thiếc.

Vậy mà trong vệt sáng lung linh, mờ ảo nơi thân bình, tôi như thấy hiện lên hình ảnh của những người đàn bà thân yêu nhất trong cuộc đời tôi nay đều đã khuất xa. Bà ngoại, mẹ tôi, dì tôi, mợ tôi, những người đàn bà, con gái, con dâu của làng nghề đúc đồng cổ xưa, vất vả, tảo tần, thương cháu, yêu con nhất mực.

Tôi đem chiếc bình về nhà, ủ mẻ chua và xin nắm cát đen đánh sạch bóng, lấy rượu thơm tráng lại, đem để cạnh chiếc tráp trâu khảm trai, bịt viền đồng là kỷ vật của mẹ tôi để lại, và những món đồ đồng khác mà tôi đi du lịch các nước mang về, cũng như những tác phẩm đồ đồng mỹ nghệ của các nghệ nhân Hà Nội mà tôi sưu tầm được trong những năm đi làm báo hình tại Đài Hà Nội.

Các con tôi về nhà thấy chiếc bình là lạ, méo mó và xấu xí để trong phòng khách, chúng ngạc nhiên lắm. Bởi vậy tôi đã kể lại chuyện cho chúng nghe. Và đó chính chính là câu chuyện này đây.

Các bạn tôi ơi!

Nội dung bài viết “Chiếc bình tích đồng thau” đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Thuỷ chung tà áo dài quê hương

Thuỷ chung tà áo dài quê hương

“Thủy chung tà áo quê hương” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trên tấm phản gỗ gia truyền ở hiệu may Đức Trạch, khi nào cũng bộn bề hàng chục tấm vải và những bộ áo quần đang may cắt dở dang. Không biết bao nhiêu thế hệ thợ thuyền đã nhỏ những giọt mồ hôi âm thầm, nhuốm vào từng thớ gỗ mịn óng, tưởng chừng có thể soi gương...

Sáng sớm, trên thành phố Lương Văn Can có một người khách lạ mang trong mình hai dòng máu Việt Pháp. Người mẹ Việt của bà đã mất sớm. Lớn lên trên đất Pháp, lấy chồng Pháp, lập nghiệp tại Pháp, bà Daniel hầu như chỉ còn mang máng nhớ đôi ba từ tiếng Việt. Trong số đó, may mắn sao, có hai chữ: "Áo dài".

undefined
Người phụ nữ Hà Nội trong tà áo dài xưa

Tuổi ngoại 50, về thăm quê ngoại, tìm đến hiệu may Đức Trạch trên phố Lương Văn Can, có lẽ bởi bà Daniel còn nhớ những câu chuyện của người mẹ xa xứ thuở sinh thời về Hà Nội trong vầng sáng nơi ký ức.

Đức Trạch, chính là hiệu may ta cổ xưa, do người làng Trạch Xá mở vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 tại Hà Nội.

Thoạt kỳ thuỷ, hiệu chưa có tên. Trong hiệu, nay còn lưu hai tấm phản gỗ lim dài rộng khác thường. Chúng choán gần hết lòng nhà, tím sậm màu quá vãng... Đó là chỗ mà ngày ngày hàng chục người thợ may cặm cụi ngồi khâu vá, đính khuy, thêu hoa cho những tấm áo dài, áo cánh, áo bông cho khách hàng Hà Nội và các vùng quê lân cận.

Năm tháng như nước chảy, song đọng lại nơi miền phù sa ký ức, vẫn là những kỷ niệm tươi xanh. Rời xa ánh đèn sân khấu lộng lẫy đã từ lâu, nhưng đôi vợ chồng nghệ sĩ Vũ Dậu - Ngọc Hướng vẫn trân trọng lưu giữ những chiếc áo dài biểu diễn và cả tấm áo cô dâu hoa xanh trắng của người vợ từng một thời nổi danh tài sắc. Những chiếc áo dài Hà Nội đã từng theo chân nghệ sĩ ưu tú Vũ Dậu cùng bao nghệ sĩ nổi tiếng như Thanh Huyên, Tường Vy, Lệ Quyên, Tuyết Thanh, Thuy Quỳnh, Hoàng Mỹ, bay sang khắp thế giới. Ngày ấy, hầu hết chúng đã được cắt may từ cửa hiệu áo dài Mỹ Hào nhỏ bé ở số nhà 82 phố Cầu Gỗ.

Ở tuổi xấp xỉ bẩy mươi, ông Mỹ Hào không nhớ nổi trong cuộc đời làm thợ, ông đã từng cắt may bao nhiêu chiếc áo dài, áo kép, áo cánh, áo bông cho người Hà Nội. Tuy nhiên, chúng không thể dừng ở con số hàng trăm ngàn. Khách hàng thuộc giới tiểu thương, phụ nữ bình dân cũng rất mến mộ tài danh của ông Mỹ Hào. Và không chỉ người Hà Nội, mà người đâu xa cũng tìm đến.

Mỗi ngày, từ xưởng thợ gia đình của ông Mỹ Hào, có khoảng 20 đến 30 bộ áo dài được ra đời. Vào vụ cưới hay giáp tết, nhà càng đông khách hơn. Ông Mỹ Hào có bí quyết nhìn người mà áng cỡ dáng áo. Người vai xuôi may khác kiểu người vai ngang, người béo mập may khác kiểu người gầy mảnh. Bởi vậy phần nách áo, nơi khó nhất, vẫn thường là vừa sát thân hình người khách, không mấy khi bị lệch lạc, dúm dó. Ông Mỹ Hào cắt áo, bà Mỹ Hào và các con may áo, đơm khuy, vắt vạt.

Đến nay, 3 - 4 người con trai con gái nhà ông Mỹ Hào vẫn nối nghề. Cửa hiệu chính giao cho cô con dâu Thanh Bình. Một người con trai mở cửa hàng áo dài mới mang tên Mỹ Sơn ở số nhà 92 cùng phố Cầu Gỗ. Cô con gái tên Thanh Nga mở cửa hàng ở phố Nghĩa Dũng. Các cửa hàng đều cũng khá đông khách. Ông Mỹ Hào tuổi cao, bệnh nặng, thường về quê Trạch Xá an dưỡng. Thi thoảng, ông mới trở ra Hà Nội, ngồi dựa cửa ngắm những dòng xe cộ vùn vụt chạy qua dãy phố Cầu Gỗ đông đúc chật hẹp.

Cả bốn thế hệ phụ nữ gia đình nhà tôi, từ bà ngoại, mẹ, tôi và con gái tôi đều đã may áo dài từ chính cửa hiệu của ông Mỹ Hào. Đến nay, tôi vẫn còn giữ lại một số tấm áo dài Mỹ Hào của cả bốn thế hệ trong bộ sưu tập gia đình. Xế nhà ông Mỹ Hào trên phố Cầu Gỗ, có hiệu áo dài của ông Mỹ Vinh. Ông Mỹ Vinh là cháu họ của ông Mỹ Hào. Hiệu may Mỹ Vinh cũng khá đông khách, đa phần là các phụ nữ trung niên trong khu phố cổ và phố cũ tìm đến.

Không chỉ riêng khán giả màn ảnh nhỏ, mà ngay cả đồng nghiệp trong giới truyền hình cũng trầm trồ thán phục vẻ đẹp của những tấm áo dài mà phát thanh viên Thu Vân thường mặc trong các buổi lên hình. Có lần, Thu Vân "bật mí": áo của Thu Vân không phải đã được may từ những cửa hàng nổi tiếng ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, hay từ những nhà may thời trang lớn, thường trưng tên trên các phương tiện thông tin quảng cáo ở Hà Nội. Những chiếc áo dài của Thu Vân và một số nữ đồng nghiệp trong Đài Hà Nội như Lệ Diễm, Thu Hiền, Quỳnh Hoa đã được may từ một cửa hiệu áo dài đơn sơ nằm trên phố Tạ Hiện, trong khu phố cổ. Đó là hiệu áo dài Xuân Đạm trên phố Tạ Hiện. Chủ cửa hiệu cũng là người làng Trạch Xá, và là em vợ của ông Mỹ Hào. Kém ông Mỹ Hào đúng một thập kỷ tuổi tác, và trước sau đều học nghề của ông chú họ Mỹ Thịnh trên phố Cầu Gỗ, song lúc ông Xuân Đạm ra nghề, lại là lúc đất nước đang lâm cảnh chiến tranh.

Phố Hà Nội vắng bóng áo dài

Mươi lăm năm trở lại lại đây, đất nước trên đà hưng thịnh. Hương sắc, tinh hoa của nền văn hóa truyền thống được khơi dậy và tỏa rạng. Cũng là lúc tay nghề của ông Xuân Đạm đạt tới độ chín. Trong cuộc sống gia đình, ông Đạm là người nghiêm khắc đến thành cứng nhắc, cẩn thận hóa thành khó tính. Trong nghề nghiệp, ông cũng vẫn giữ nguyên những tính cách hơi khác lạ so với nhiều người trong giới làm dịch vụ đời sống ở đô thị. Nhưng phải chăng, đó là cái duyên giữ khách kỳ lạ của người thợ lão luyện.

Xưa kia, ở mỗi làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ, thường bao giờ cũng có một vài ông lang, bà đỡ, thầy đồ, phó mộc, phó rèn, phó may... để lo các dịch vụ cần thiết trong dân. Tương truyền, những ông phó may của làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, nồi tiếng khéo tay và chăm chỉ, chịu khó.

Từ thời Lê - Trịnh, tiếng tăm của thợ may Trạch Xá đã vang xa tận kinh thành Thăng Long. Nhiều gia đình quan lại, thượng lưu nơi Kẻ Chợ đua nhau rước thợ Trạch Xá về nhà cắt may cho cả họ vào mỗi vụ giáp tết, hay lúc sắp có việc khao đãi, cưới xin.

Những lớp thợ Trạch Xá, trẻ ra Kẻ Chợ làm ăn, già lại về quê truyền nghề cho con cháu, giúp chúng nối bước lên phố lập nghiệp, ấy cũng là cái vòng sống đều đặn không mấy biến động giữa các làng nghề thôn quê với các phố nghề nơi thành thị từ bao đời.

Sang thời Nguyễn, người làng Trạch Xá lên Hà Nội phần lớn sống trong những ngôi nhà mặt sau khuất khúc của phố tơ lụa Hàng Đào sầm uất. Như thế, cốt để thuận tiện cho việc phục vụ khách khứa thị dân, khi họ đến mua vải vóc và đặt may áo quần. Sau Đức Trạch ở nhà số 6, thì Đông Trạch ở nhà số 20 phố Lương Văn Can cũng sớm nổi danh từ những năm đầu thế kỷ 20. Chủ hiệu là người họ Tạ. Cửa hàng Vạn Mỹ ở số 22 kế bên, cũng do một người họ Tạ đứng chủ. Trong vòng hơn ngót nửa thế kỷ, nhà họ Tạ có 5 anh em trai, 5 nàng dâu, thì trước sau đều theo nghề may ta.

Một ông thợ áo dài họ Tạ thuộc chi khác là ông Tiến Trạch thì mở cửa hàng ở 65 Phố Huế. Sau này, khi ông Tiến Trạch đến tuổi già yếu thì đã kịp truyền nghề cho ba cô con gái xinh đẹp. Đó là cô chủ hiệu áo dài Thanh Châu trên phố Mai Hắc Đế và hai người chị em gái ruột của cô là Hồng Anh trên phố Ngô Thì Nhậm, và Hồng Thanh trên Phố Huế. Các cô chính là thế hệ mới đang theo nghề áo dài truyền thống của làng quê với rất nhiều sự tiếp thụ những kiến thức thời trang áo dài hiện đại theo nhu cầu và thị hiếu của khách hàng Hà Nội thế kỷ XXI với những kiểu dáng áo dài đa dạng, phong phú song không hề làm mất đi những nét đẹp truyền thống của tà áo dài Việt Nam.

Chẳng riêng nhà họ Tạ của ông Vạn Mỹ, ông Tiến Trạch, nhà họ Lê của ông Mỹ Hào, hay nhà họ Nghiêm của ông Xuân Đạm, hàng trăm gia đình làm nghề may y phục dân tộc ở rải rác trên các phố Hà Nội, hầu như đều có mối liên hệ ruột thịt, họ hàng, thông gia, láng giềng thân thuộc, có chung một xuất xứ, gốc gác và cùng gắn kết với nhau trong hội đồng hương Trạch Xá.

Trong ký ức những người Hà Nội sống vào thời cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cụ phó Dùi, người làng Trạch Xá nối danh là một ông thợ may tài khéo và đắt khách. Người ngày xưa may áo như thế nào? Khách chỉ cần đem chiếc áo cũ đến hiệu, ông thợ may Trạch Xá chỉ đo áo mẫu, rồi áng chừng khổ người bà khách béo lên hay gầy đi, mà gia giảm chút ít, thậm chí, khách không cần phải đến cửa hiệu, chỉ gửi áo mẫu là xong. Nhưng áo cắt lên thì thường rất vừa vặn, không mấy khi phải chữa chạy.

Được cái là người xưa vẫn thường may váy phòng lúc cả dạ, tức là khi mang bầu, nên không hay may sát khổ người như thời nay.Từ khi đất nước liền một dải, sau năm 1975, và nhất là trong thời kỳ kinh tế mở cửa, hội nhập, sau năm 1985, phong trào áo dài hồi sinh, phát triển mạnh mẽ. Đó là vận hội tốt cho phố Lương Văn Can, cho các gia đình thợ may y phục dân tộc Hà Nội và cho làng nghề Trạch Xá.

Thời gian vẫn như một dòng chảy không thể đổi ngược. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, cụ Nguyễn Văn Ớt là một tay kéo sắc nước trên phố Lương Văn Can. Là người thuộc thế hệ thứ 5 trong một gia đình chuyên nghề may ta, hơn nửa thế kỷ nồi danh xa gần, cụ là chủ tịch hội đồng hương Trạch Xá ở Hà Nội. Ở tuổi 76, cụ Ớt đã trở về làng cũ nghỉ ngơi, chức chủ tịch hội đồng hương Trạch Xá trao lại cho ông Mỹ Hào ở phố Cầu Gỗ. Dưới mái nhà đơn sơ có dàn mướp hoa vàng rủ bóng, trong bộ quần áo nâu giản dị, mái tóc và đôi lông mày bạc trăng, nom cụ như một bậc chân tu thoát tục.

Các con trai gái đều thành thục trong nghề, đường kim mũi chỉ đã nghe liền lạc, mịn ềm. Dấu cũ vết xưa vẫn có cháu con trân trọng tiếp nối, cho người đời vẫn nhớ danh thơm làng quê Trạch Xá, Đồng tuế, đồng niền với cụ Nguyễn Văn Ớt, cụ Lê Văn Quảng đã có sau lưng 70 tuổi nghề, bởi cụ lên phố học việc từ năm lên 6 tuổi.

Trời thương, vẫn cho cụ sáng đôi mắt, vững đôi tay, xâu kim thoăn thoắt, lát kéo ngọt êm, đường may phẳng phiu. Dưới một mái hiên rộng, bên sân thóc mới gặt thơm hương nắng mới, cụ đang tỉ mẩn truyền nghề cho lũ cháu nội ngoại, những mong chúng nối nghiệp tổ tiên lâu dài.

Xa xưa, người Trạch Xá chỉ truyền nghề cho con cháu trong nhà, trong họ, hiếm khi để lọt đến người ngoài. Song lâu nay, làng nghề cũng hòa chung với dòng chảy rộng lớn của thời đại mới. Thị trường áo dài ngày một sôi động, bà Thuấn, chủ hiệu may Quỳnh Dao bên chợ Trương Định đã tìm đến học thêm nghề áo dài ở cụ phó Thuận trên phố Lương Văn Can, khi bà đã có thâm niên gần 40 năm trong nghề may trang phục thông dụng ở Hà Nội. Khi bà Thuấn đã thành đạt trong nghề áo dài, thì cụ phó Thuận cũng đến tuổi quy tiên. Nhưng từ đó, bà Thuấn vẫn giữ mối quan hệ chị em, bạn hàng, bạn nghề thân thiết với gia đình cô Bở, ở khu tập thể Thanh Xuân Bắc. Cô là con dâu của cụ Thuận, và cũng chính là con gái cụ Ớt. Mỗi kỳ lễ tết, bà Thuấn không khi nào quên sang nhà thắp nén hương thơm tưởng nhớ ơn đức của người thầy quá cố tài khéo và nhân hậu. Bao năm say mê nghề áo dài, gắn bó thân thiết với người trong nghề, bà Thuấn như đã trở thành một người con của làng Trạch Xá Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu ấn rõ nét nhất, đậm đà nhất của bản sắc mỗi dân tộc trên thế giới. Sau bao năm trăn trở suy ngẫm, hình như đã đến lúc chúng ta cần tới hình mẫu của những bộ quốc phục, lễ phục mang dấu ấn dân tộc Việt Nam. Ước sao, các nhà nghiên cứu, thiết kế mẫu sẽ chắt lọc được những nét đẹp tinh tuý, bền vững qua thời gian của bộ trang phục truyền thống, để thể hiện trong các sáng tác mới, nhằm đạt tới sự hài hoa giữa tính dân tộc và hiện đại.

Đúng ngày hẹn, phát thanh viên Thu Vân cùng người mẹ vốn là một nữ sinh cao đẳng sư phạm duyên dáng năm xưa, đến thử áo ở cửa hàng Xuân Đạm. Tác giả của những chiếc áo dài lần này không phải là người cha mà là cậu con trai ông, anh Xuân Dũng.

Năm nay, anh vừa bước qua ngưỡng tuổi tam thập, tam thập nhi lập. Lát kéo đường kim của anh dù đã rất thuần thục mà cũng vẫn khó có thể làm vừa lòng người cha, người thầy gần gũi mà rất khắt khe. Song mong cho con hơn cha, chẳng phải là tâm nguyện của riêng một nhà.

Năm 2004. Gia đình tôi chuyển nhà xuống làng Giáp Nhất quận Thanh Xuân. Hồi ấy khu vực này còn vắng vẻ lắm. Mỗi khi may áo dài, tôi vẫn phải tìm về khu phố cổ. Nhưng không lâu sau đó đã thấy xuất hiện một hiệu áo dài mới ở ngay phố Quan Nhân liền kề với Giáp Nhất. Thế nên việc may cắt áo dài với tôi, một tín đồ trung thành của áo dài lại trở nên quá thuận tiện. Hỏi ra thì anh chủ Minh Phương lại cũng chính là người quê gốc Trạch Xá.

Hiệu nhỏ ở phố hơi khuất nẻo, thế nên dù cắt may rất khéo nhưng anh cũng chỉ lấy công rẻ, chỉ bằng già nửa so với các hiệu may trên phố trung tâm Hà Nội. Sau này, anh Minh Phương đã trở thành thợ chuyên may áo dài đồng phục cho Đoàn thiện nguyện câu lạc bộ nhà báo nữ Việt Nam chúng tôi. Vải đồng phục cứ giao cả súc cho anh, ai đến may áo thì anh đo cắt cẩn thận. Còn hết bao nhiêu chẳng phải lo tính đếm thiếu thừa như những nơi này nơi khác.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu mỹ thuật thời trang và các vị khách cầu kỳ có ý hướng phục cổ, muốn may một bộ áo dài theo đúng lối ngày xưa là áo 5 thân, vai liền, tay chắp, khuy tết thì cũng phải tìm về gia đình ông Thắng ở làng Trạch Xá. Ông Thắng cẩn thận rút chỉ chính những sợi lụa vải khách đem đến để khâu tay cho chính chiếc áo đó. Như thế để đảm bảo khi giặt là áo, áo không bị nhăn nhúm mà sẽ phẳng phiu vì chỉ may nào sẽ đồng bộ với lụa vải đó.

Trên tấm phản gỗ gia truyền ở hiệu may Đức Trạch, khi nào cũng bộn bề hàng chục tấm vải và những bộ áo quần đang may cắt dở dang. Không biết bao nhiêu thế hệ thợ thuyền đã nhỏ những giọt mồ hôi âm thầm, nhuốm vào từng thớ gỗ mịn óng, tưởng chừng có thể soi gương...

Tấm áo mà bà Daniel - Mactin đặt may đang ở những mũi kim chót cùng, gấp rút cho kịp ngày bà lên đường trở sang Pháp. Song trên tay anh thợ trẻ, những mũi chỉ vẫn đều đặn, mịn màng và óng nuột. Con người chỉ mang có nửa dòng máu Việt, sống xa đất Việt từ thuở còn trứng nước, sau nửa thế kỷ, vòng nửa trái đất quay về, ngóng chờ một tấm áo nơi quê mẹ, hẳn không chỉ để tránh ngăn những cơn băng giá của thiên nhiên khắc nghiệt phía trời xa.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Phục hồi thú chơi hoa thuỷ tiên

Phục hồi thú chơi hoa thuỷ tiên

“PHỤC HỒI THÚ CHƠI HOA THỦY TIÊN” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Khi thuỷ tiên nở hoa, mỗi cụm hoa mang một dáng vẻ khác nhau theo lối đặt tên của các cụ xưa. Dáng phượng múa, dáng rồng bay, dáng hạc chấu, dáng tiên sa... Mỗi cụm hoa thực sự là một tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn độc đáo của bàn tay người yêu hoa, và là kết quả của nghệ thuật gọt tỉa thủy tiên khởi từ trước đó hàng tháng trời. Chính bởi vậy, người xưa mới ham thích thú chơi thuỷ tiên, thú chơi giàu sáng tạo và giàu tính thẩm mỹ, nghệ thuật.

Thấm thoắt thế là đã gần nửa thế kỷ đã trôi qua, hôm nay cụ giáo Lê Đăng Nghị ở phường Thanh Lương mới được cầm lại trên tay con dao nhỏ thân thiết ngày xưa. Con dao có hình dáng đặc biệt kỳ lạ. Một đầu như chiếc lưỡi rìu nhỏ sắc lẹm, một đầu như lưỡi thuổng tí xíu hình lòng máng. Đó chính là con dao gọt và tỉa thủy tiên chuyên nghệ. Dường như thoáng một nỗi bồi hồi, mong nhớ đang dâng ứ trong đôi khoé mắt và đôi bàn tay của ông lão tuổi ngoại tám mươi khi bỗng dưng chạm vào từng dáng nét của một vẻ đẹp xưa:

Chơi hoa thủy tiên là một thú chơi xuân lâu đời của người Hà Nội. Nhưng trải qua mấy chục năm chiến tranh giặc giã rồi bao cấp khó khăn, thú chơi thủy tiên mai một dần. Rồi sau đó lại xảy chiến tranh biên giới phía Bắc, nguồn củ thủy tiên từ Trung Quốc về Việt Nam không còn. Thế nên coi như đứt đoạn mấy mươi năm trời nay mới bắt đầu nối lại.

undefined
Hoa thủy tiên trắng

Không phải bỗng dưng mà bài viết về "Thú chơi hoa thủy tiên" của nhà báo lão làng Nguyễn Hà thuở sinh thời chỉ gồm có mấy trăm chữ đăng trên số tết của một tờ tuần báo lại được trả nhuận bút khá cao. Mọi người nói đùa, mỗi chữ đáng giá bạc ngàn. Còn nhà báo Nguyễn Hà thì rằng, đó là nhờ ở lộc của ông cụ thân sinh một cụ đồ nho Hà Thành từng một thời đam mê thú chơi tao nhã ấy. Nhà báo Nguyễn Hà kể rằng, mỗi năm vào dịp cuối tháng một, tức tháng mười một âm lịch, cụ đồ thường trở qua, trở lại ngày đôi ba lần trên phố Hàng Buồm, Phúc Kiến (Tức Lãn Ông bây giờ) để chọn mua bằng được một "Bắp" tức một thùng củ thủy tiên do các nhà buôn Tàu bày bán. Có nhiều loại lắm. Cứ củ càng to thì càng đắt tiền. Rồi sau đó, cụ tìm cách lánh hẳn việc nhà, từ chối không tiếp khách khứa trong hàng tuần liền, để chăm lo chuyên chú cho việc gọt tỉa thủy tiên. Khi ấy, có ai sơ ý hỏi han điều gì, cụ đều không trả lời, coi như người đã nhập thiền vậy. Nhà báo Nguyễn Hà hồi nhớ: Sau khi gọt, các lát cắt của củ hoa sẽ chảy nhựa, cụ tôi phải đem củ thủy tiên ngâm úp vào nước để nhựa tiết ra tan chảy hết.

Gọi là "ngâm cầu". Ngâm khoảng ngót một ngày thì được. Trong thời gian ngâm thì cứ dăm sáu giờ đồng hồ lại phải rửa cho củ thủy tiên sạch nhớt. Nếu không sạch nhớt thì củ sẽ bị thối. Mỗi năm cụ giở ra gọt thủy tiên thì cứ lục đục suốt đêm, hầu như chả chợp mắt lúc nào.

Hàng năm, cứ vào dịp đầu tháng chạp âm lịch, khi những cơn gió bấc cuối đông dường như đã chùng lại trước những làn hơi ấm đầu xuân mơ màng, ấy là lúc những người chơi hoa sẽ vào cuộc mới. Những củ thuỷ tiên khô do lái buôn đem về từ các tỉnh duyên hải Nam Trung Hoa, bây giờ sẽ được đem ngâm nước cho căng mọng và nhú mầm. Nom chúng tựa như những củ hành tây vừa ra giống. Sau đó, họ, những người chơi thủy tiên chuyên nghệ sẽ tìm lấy một chốn kín đáo, khuất nẻo để chuyên tâm lo việc gọt tỉa hoa.

Gọt tỉa thuỷ tiền, đó chính là một công đoạn tỉ mỉ, khó khăn, phức tạp và rắc rối nhất trong cách chơi thuỷ tiên cổ truyền Cụ giáo Lê Đăng Nghị còn nhớ rất tỷ mỷ:

- Phải chọn đoán cho đúng phần mặt chính của củ. Nếu vô ý gọt trái mặt, củ thuỷ tiên sẽ đâm mầm tréo nghẹo, mắt hết tư thế đẹp. Mà khi gọt phải lựa đôi tay cho khéo, kẻo phạm phải chỗ đọt mầm tương lai, củ thuỷ tiên sẽ bị hoại nát mà thui chột mất dò hoa.

Lại phải gọt hướng sao cho các mầm hoa sau này sẽ vươn theo thế đã chọn. Không để chúng trổ lung tung, vô lối. Toàn là phải dò dẫm, đoán định, phỏng chừng, ấy mới là khó chứ.

Sau công đoạn ngâm cầu, người ta bắt đầu giai đoạn dưỡng hoa. Chủ yếu là dưỡng bằng nước sạch. Người chơi hoa ngâm củ thủy tiên trong các bát gốm hoặc sứ rồi hằng ngày bắt đầu quá trình chăm sóc rất tỷ mẩn, cẩn trọng. Sau mỗi lần gọt sửa, củ thuỷ tiên phải được lau rửa bằng nước nhiều lần cho sạch nhựa. Các cụ ta thường rửa thuỷ tiên bằng chổi lông gà hay chối tóc. Như thế vừa sạch sẽ, vừa tránh xây xước, tránh làm tổn thương tới các mầm đọt non và cả bộ rễ mới kịp nhú. Củ thủy tiên từ lúc nảy mầm, đâm rễ, trổ giò, kết nụ phải trải qua ba bốn lần gọt tỉa, sửa sang và hàng vài ba chục lần thay nước mới. Thủy tiên là giống hoa ưa sạch sẽ, tinh khiết. Bởi thế, nó cần được uống nước trong hàng ngày và phải được đặt ở nơi thoáng mát, không vương bụi bậm, không ướm hơi xú uế.

Bà Quách Hồng Huyền là con gái làng Yên Phụ lên làm dâu làng Nghi Tàm. Cả đôi bên nội ngoại của gia đình đều có nghề gọt tỉa thủy tiên. Có lần bà Huyền còn tìm sang tận Phúc Kiến - Trung Quốc để cất thủy tiên về Hà Nội làm hoa thủy tiên của nhà bà.

Huyền cũng thuộc diện làm đại trà, giá bình dân chứ không phải thuộc diện cắt tỉa nghệ thuật kỹ càng, giá đặc biệt. Nhưng được cái bà Huyền có tài đoán đúng cho thủy tiên nở trong khoảng từ chiều ba mươi đến sáng mồng một ta, đúng mong muốn của khách chơi hoa nên bán buôn khá đắt hàng. Từ năm 2000, bà bắt đầu mở rộng việc kinh doanh thủy tiên, có năm bà làm tới dăm trăm bát thủy tiên, nhưng sau phải giảm dần.

- Đau lưng lắm bác ạ. Làm nhiều không chăm chút được hàng ngày, cây nó không thể đẹp được. Có khi lúc cắt gọt mong nó trổ hoa thế nọ nhưng nó lại trổ ra thế kia. Con cái dỗ mãi nó cũng chả thích theo nghề. Năm Canh Tý vừa rồi là năm nhuận, đắn đo cẩn thận lắm rồi mà người tính chả bằng trời tính. Cả Hà Nội thủy tiên đều nở sớm. Hăm nhăm hăm bẩy tết mà đã trắng rực cả chợ hoa. May nhà em còn vớt vát được vài trăm bình nở hăm chín ba mươi.

Hút chết bác ạ. Với lại, trước đây Nghi Tàm cũng mấy chục nhà làm thủy tiên nhưng rồi đa phần cũng thu hẹp dần vì nhà cửa cứ xây cho thuê hết, đất cát chả còn mấy mà lấy chỗ làm hoa.

Giờ đây, mỗi nhà kinh doanh hoa thủy tiên ở Hà Nội đều có cách thức và bí quyết riêng để chăm sóc cho cây thủy tiên ở giai đoạn ươm cây, trổ nụ đầy khó khăn này. Ví như củ nào kém đâm rễ, phải đem vùi trong cát ẩm. Cát phải được đãi rửa thật sạch. Thế mà trước khi vùi củ hoa vào trong bồn cát, lại phải đặt nó trong một tấm vải bông mới và sạch tinh, để chống nhiễm khuẩn làm thối bộ rễ. Khi cụm hoa trổ đủ số mầm chính, ba, năm, bẩy, chín - số lẻ bao giờ cũng hay hơn: tam đa, ngũ phúc, thất hiền, cửu long, cụm hoa cần phải được đặt trong bình thuy tinh hay bát sứ, cho cụm cây cố định dáng vẻ. Lâu nay có bát nhựa thay thế vừa rẻ vừa đỡ sứt vỡ.

Như thế, các mầm cây và giò hoa, cánh lá mới vươn lên thẳng ngay, không bị xiên lệch, vẹo vọ. Bởi xiên lệch vẹo vọ là phạm phải một điều tối ky trong kỹ thuật tạo dáng thủy tiên. Hoặc như ở các nhà kinh doanh thủy tiên chuyên nghiệp, họ thường đặt những phên tre đan thành giàn, ngâm xăm xắp trong bể nước. Mỗi ô mắt phên sẽ thay cho công dụng giữ thăng bằng, cố định cho cụm hoa như ở trong bình, trong bát nhỏ, rất tiện cho việc thay nước hoa hàng loạt mỗi ngày. Lúc nào chuẩn bị đưa hoa ra chợ, mới nương nhẹ tay cho cụm hoa vào các bình bát. Tôi đã tận mắt trông thấy giàn dưỡng hoa đan bằng lưới tre hình ô vuông thả trên bể nước nông có đường dẫn nước vào ra của gia đình anh Nguyễn Văn Thanh ở làng Thanh Nhàn. Trong thời gian dưỡng thủy tiên chừng 25 đến 30 ngày, anh Thanh phải chăm thủy tiên như chăm con mọn:

- Hàng ngày phải thay nước mới và rửa sạch củ hoa, rễ cây, lá cây, mỗi ngày ít nhất một lần. Nếu trời nắng nóng thì rửa cây thay nước hai ba lần. Mệt lắm. Nhưng nếu lơ là một chút thôi là nhựa các vết cắt lại dễ làm thối nước, thối củ. Rồi mỗi ngày lại phải để ý sắp xếp lại lá, hoa và rễ sao cho khóm thủy tiên phát triển hài hòa, đẹp mắt.

Tuy nhiên, việc chăm sóc hoa trong giai đoạn này thật chẳng dễ dàng chút nào. Nhất là vào những năm gần đây, trong điều kiện thời tiết và môi trường Hà Nội có rất nhiều biến đổi bất lợi. Dân ta đi chợ mua hoa thủỷ tiên, khi hỏi đến giá cả, thường chê đắt rẻ, song ai đã từng tận mắt theo dõi những công việc của người làm hoa và cùng chia sẻ với họ bao bất trắc, gian nan của nghề hoa, mới cảm nhận rõ giá trị của mỗi dò hoa quý. Tháng chạp năm Đinh Sửu trước tết Mậu Dần 1998, thời tiết nước ta không thuận, mưa nắng thất thường, có buổi nồng nực hơn cả mùa hè. Môi trường và nguồn nước nhiều khu vực lại bị ô nhiễm nặng. Hàng chục nhà kinh doanh đã cầm chắc lỗ vốn bạc triệu. Riêng đợt thủy tiên mới ra giống của nhà anh Thanh ở làng Thanh Nhàn là có chút hứa hẹn cho triển vọng kha khá. Song chủ nhân của chúng cũng không giấu nổi nỗi lo âu, thấp thơm. Nhất là khi anh đã rót vào đợt thuỷ tiên ấy số vốn ban đầu vài chục triệu đồng. Đó là chưa kể tới các đợt hoa thí điểm hồi trước, khi được, khi mất, hồi anh Thanh mới bước vào nghề và Hà Nội mới gây dựng lại thú chơi thuỷ tiên.

Chừng vào khoảng tết ông Công, ông Táo, khi hơi xuân nồng nàn đã vây bọc khắp không gian, những giò thuỷ tiên sớm sẽ trổ hoa đợt đầu, đưa hương thơm thoang thoảng, nhẹ nhàng. Song mà vào ngày trước, những người chơi hoa thủy tiên sành điệu, cứ nhất định tìm cách hãm cho hoa nở đúng vào thời khắc giao thừa, mới cho là đúng phép. Bà Phúc Lâm Đỗ Thị Dung nhà ở phố Hàng Đồng cũ, là con cụ Ký Hanh, một viên chức dưới thời Pháp thuộc. Bà vẫn hãy còn nhớ cách thức thúc hoa và hãm hoa của cụ Ký Hanh khi xưa:

- Mỗi khi đến ngày 28, 29 giáp Tết Nguyên Đán mà nụ hoa coi vẻ còn se sắt, chưa có dáng sắp nở, thì phải lấy nước âm ấm thay luôn, để thúc nụ chóng mập. Còn nếu như thấy nụ hoa đã ra chiều muốn mở cánh, thì phải lấy chút lòng trắng trứng gà, phết một đôi lượt bên ngoài nụ, nhằm hãm cho hoa nở đúng lúc giao thừa. Thế mới gọi là đại cát cho năm mới.

Còn nếu như trong nhà không có người rảnh rỗi, hoặc là có người rảnh rỗi nhưng chẳng thành thục với nghệ thuật gọt tỉa thủỷ tiên, thì vào dịp giáp tết âm lịch, người ta sẽ tìm lên chợ hoa Cống Chéo - Hàng Lược. Nơi ấy, giữa một vườn đào quất, cây cảnh, hoa tươi rực rỡ muôn màu, những bình thủy tiên bé nhỏ, xinh xắn với vẻ đẹp khiêm nhường, duyên dáng, với hương thơm cao sang, độc đáo, luôn là điểm hấp dẫn bước chân của những người hâm mộ.

Những tụ điểm bán hoa thủy tiên mới nở rộ khoảng mươi lăm năm nay là chợ hoa Quảng An, chợ hoa Hoàng Hoa Thám, chợ hoa Vạn Phúc, và nhất là dọc đường phố Từ Hoa bên làng Nghi Tàm, một thủ phủ của thủy tiên Hà Nội.

Phần lớn khách chơi hoa thuy tiên vào dịp tết, thường là các cụ ông trí thức, văn nghệ sĩ cao tuổi. Có thể hiểu như là, họ đã từng trải qua biết bao thăng trầm, cũng như nếm trải biết bao hương vị đắng ngọt của cuộc sống, của nỗi buồn, niềm vui. Cái điểm dừng thủy tiên hoa, phải chăng là nơi ẩn chứa, nơi gửi gắm những điều tâm sự, những nỗi ước mong cao xa và thầm lắng khó nói thành lời ở cái tuổi ngoại tuổi tri thiên mệnh? Còn tôi, mỗi năm vẫn thường được cậu con trai đỡ đầu là giảng viên trường Đại học khoa học xã hội nhân văn đều đẳn đem biếu đôi bát thủy tiên, một bát dâng trên ban thờ, một bát trưng ở phòng khách. Thật ưng ý quá. Sáng mồng một tết năm nào cũng vậy, tôi thường mặc tấm áo dài mới chụp ảnh bên bình hoa thủy tiên rồi đưa FB chúc mừng họ hàng, bầu bạn gần xa.

Ngày xửa ngày xưa, Hà Nội từng có những kỳ thi hoa thủy tiên vào dịp đón xuân tại đền Bạch Mã và Ngọc Sơn cổ kính. Cụm hoa nào đoạt giải, được cả sắc hương lẫn dáng thế, sẽ được đưa lên kiệu rước trên phố Hà Nội cho bàn dân chiêm ngưỡng, tôn vinh.

Khi thủy tiên nở hoa, mỗi cụm hoa mang một dáng vẻ khác nhau theo lối đặt tên của các cụ xưa. Dáng phượng múa, dáng rồng bay, dáng hạc chầu, dáng tiên sa... Mỗi cụm hoa thực sự là một tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn độc đáo của bàn tay người yêu hoa, và là kết quả của nghệ thuật gọt tỉa thủy tiên khởi từ trước đó hàng tháng trời. Chính bởi vậy, người xưa mới ham thích thú chơi thuỷ tiên, thú chơi giàu sáng tạo và giàu tính thẩm mỹ, nghệ thuật. Ông Nguyễn Văn Chi, một chủ vườn hoa cảnh nổi danh ở làng Định Công chậm rãi:

- Các cụ ta xem thủy tiên khi nở hoa như một bộ mâm bạc chén vàng của nhà vua. Bình chọn một cụm thủy tiên đẹp, phải xét toàn diện. Lá phải xanh đều và uốn lượn theo hình thế nhịp nhàng chứ không thẳng đuồn đuỗn. Các dò hoa phải cao thấp hài hoà, chứ không đâm tua tủa ngang mặt nhau, rễ phải rậm, dài, mềm mại và trắng muốt, không bợn một nốt nâu ủng, không đan rối lẫn nhau, trông hệt như bộ râu của một lão ông đại thượng thọ. Thế mới là tuyệt hảo.

Việc ấy, ta cũng có thể hình dung lại qua câu chuyện của nhà văn Vũ Bằng in trong cuốn Mê Chữ của ông. Trong văn chương nghệ thuật, người Á Đông thường giữ quan niệm "Quý hồ tinh bất quý hồ đa". Trong chiếc bình pha lê trong suốt, cụm thủy tiên bé nhỏ lộ vẻ đẹp thơ ngây, trong trắng, dịu dàng, tựa như một bầy tiên vừa từ thượng giới bay xuống tắm mình trên dòng suối mát, giữa một cánh rừng cổ tích nguyên sơ.

Những năm đầu thế kỷ XXI, khi con đường ven hồ Tây chạy men làng Nghi Tàm được khai thông và đặt tên là phố Từ Hoa, thì người Hà Nội đã có cơ hội tìm lại những ngôi nhà của các nghệ nhân hoa cảnh nổi tiếng để đặt hoa thủy tiên đem về chơi Tết và đem đi biếu Tết. Nghệ nhân Nguyễn Văn Ninh, tức cụ Hai Ninh ở tuổi ngoại chín mươi, ngoài kỹ nghệ trồng địa lan và trà hoa nổi tiếng, đã kịp truyền lại cho các cháu nội kỹ nghệ tỉa hoa thủy tiên rất cầu kỳ, công phu, tạo nên những bình hoa duyên dáng, đẹp đẽ:

- Hoa phải là hoa đơn, cánh dõng dạc, nhuy phân minh. Hoa kép rối cánh, lại kém thơm, không mấy được chuộng. Lá thủy tiên cong cong hướng ra bên ngoài, lá thấp để tôn hoa cao. Hoa đan xen trên dưới hài hòà. Gọt củ lúc đầu mà sau được đúng như đoán định là không dễ đâu. Nhất thiết phải là dò hoa chớm nở đúng lúc giao thừa, mới thập phần hoàn hảo, toàn bích. Ngày trước, ở Hà Nội, thường có các cuộc thi hoa thủy tiên ở đền Bạch Mã trên phố Hàng Buồm và đền Ngọc Sơn giữa hồ Hoàn Kiếm. Hễ gia đình nào thắng giải ở hội thi hoa thủy tiên đền Ngọc Sơn hay đền Bạch Mã thì coi như đạt được niềm vinh hạnh hiếm có trong đời người. Họ thường tổ chức buổi rước hoa, khao giải linh đình lắm.

Vài mươi năm gần đây, thủy tiên đã hiện diện trên khắp các chợ hoa Hà Nội. Lọt giữa muôn hồng ngàn tía các loại hoa cảnh đông tây nam bắc, nước trong nước ngoài, những bình thủy tiên nhỏ bé, khiêm nhượng vẫn thu hút sự say mê, đắm đuối của những kẻ yêu những nét đẹp xưa cũ Hà Thành. Cụ bà phố cổ áo kép hoa tóc búi trễ khăn len quàng cổ ngắm đi ngắm lại bình thủy tiên hàm tiếu:

- Ông nhà tôi lúc còn sống yêu hoa thủy tiên lắm, toàn tự gọt hoa lấy. Nhưng ông mất lâu rồi. Năm nào tôi cũng mua một bình cúng trên ban thờ cho ông thỏa nguyện. Hoa mua ở chợ không đẹp bằng ông nhà tôi tự gọt tỉa, nhưng cũng gọi là cho có. Không thì cứ lâu nay, tại ngôi nhà cổ 87 Mã Mây đã hình thành Câu lạc bộ Hoa thủy tiên Hà Nội bao gồm hàng chục thành viên cả lớn tuổi lẫn nhỏ tuổi. Mọi người truyền cho nhau các thức chọn củ, tỉa hoa, chăm sóc hoa khá kỹ lưỡng. Có một lần tôi được mời lên ghi hình cùng Đài PT - TH Hà Nội trong chương trình Người Tràng An - Người Hà Nội tại nhà 87 Mã Mây. Tôi tình cờ được xem ngắm mấy mẫu hoa mà các thành viên trong CLB hiện trưng bày tại đó. Cảm quan ban đầu là các khóm hoa đều có hình thái ý tứ riêng rất điệu đà, duyên dáng, rất khác với các khóm thủy tiên bầy nhan nhản ngoài phố chợ, Thế rồi trên mạng xã hội, cũng xuất hiện nhiều bạn trẻ đam mê học hỏi cách gọt sửa thủy tiên, bất chấp nhiều kỳ thất bại ban đầu, củ chẳng ra củ, cây không ra cây. Có được mẫu hoa nào tạm ưng ý, các bạn ấy sẵn sàng chia sẻ chung vui với cộng đồng mạng. Tin chắc một ngày nào đó, các bạn sẽ thành công như ý với niềm đam mê nhiệt huyết, thật tâm.

Thế là một thú chơi cao sang vào dịp tết cổ truyền dân tộc đã và đang trở lại với người Hà Nội sau cái khoảng cách thời gian dằng dặc bằng cả mấy cuộc chiến tranh liên miên cộng lại, với biết bao đổi thay về thời cuộc trên đất nước ta.

Với mùi hương thơm ngát mà không nồng nã, ngạt ngào, quyến rũ mà sâu thẳm, kín đáo, dịu nhẹ mà chẳng nhạt nhoà, pha tạp, hương thủy tiên thật xứng là một thứ hương thanh cao, nồi trội trong thời khắc thiêng liêng của đất trời khi chuyển sang năm mới.

Trong không khí xum họp gia đình của ngày đầu xuân, hương thuỷ tiên lẫn trong làn khói hương trầm ấm áp, nồng đượm, hoà trong hương cam Canh, bưởi Diễn thơm thảo, ngọt ngào. Tất thảy, tạo nên một hương vị tết nhất cổ truyền đặc biệt Hà Nội, cho những kẻ xa quê khó cầm lòng khi tưởng đến.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội

Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội

"Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội" - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chạm bạc, đó là nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khá nổi tiếng ở Hà Nội. Vào những năm thuộc thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ trước, khi thị trường Đông Âu còn rộng mở, nghề chạm bạc phát triển thật rấm rộ. Các lớp học nghề liên tục được mở ra đào tạo được hàng trăm thợ chạm mới phục vụ cho các chiến dịch làm hàng xuất khẩu. Nhưng khi những chến dịch ổ ạt ấy qua đi một cách mau chóng, thị trường Đông Âu tan rã, thì hầu hết những người thợ được đào tạo theo lối cấp tốc ấy cứ theo năm tháng mà rơi rụng dần.

Ngô Mai Hương. Cản nhà cũ khuất sâu đường như biệt lập, cách xa sự đông đúc, sầm uất của dãy phố Bạch Mai. Nhưng khách cũng có thể dễ dàng tìm thấy nó nhờ sự dẫn dắt của những âm thanh nhà nghề quen thuộc và đều đặn hàng ngày. Ấy là tiếng đục chạm chí chát, lách cách, rộn rã.

Xưa nay, thế giới của những người thợ chạm bạc có lẽ chỉ quanh quẩn không xa khuôn bàn chạm rộng không đầy một thước vuông. Vậy mà từ đó, cả trời đất, núi non, cỏ hoa, chim thú, Thần Phật, dưới bàn tay người, đã hiển hiện, sống động và trường tồn dường như là vĩnh viễn. Nhìn thì hấp dẫn, nhưng người ngoài nghề khó mà học theo, nói chi đến việc đeo đuổi nghề đến suốt đời. Nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh bộc lộ đôi điều:

- Trong cuộc đời làm nghề hơn năm mươi năm qua, tôi cũng đã góp công đào tạo được vài ba lớp thợ trẻ. Tất cả cũng độ ba bốn chục người. Nhưng mà bây giờ chẳng còn mấy ai đậu lại với nghề.

Các cháu chúng chuyển hết sang nghề hàng vàng hay là một số nghề khác dễ phát tài hơn là nghề thợ chạm bạc. Nghề này ai phải nặng lòng lắm, mới trụ được, tựa như là người nghệ sĩ ấy, cứ say nghề là theo thôi, biết là nghèo mà cũng đành chịu.

Cũng sống trong một con ngõ nhỏ lọt giữa phố Bạch Mai, ngõ Giếng Hậu Khuông, cách không xa ngôi nhà của nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh, người thợ đôi bàn tay vàng Nguyễn Ngọc Nghiên hàng ngày vẫn bình thản và lặng lẽ ngồi bên chiếc bàn nghề cũ kỹ, từ tốn truyền nghề cho đứa con út và một cậu cháu gọi bằng bác. Vẫn là những tràng tiếng đục chạm vang lên rỉ rả, đều đặn như một điệu nhạc lúc vui, lúc buồn.

Chạm bạc, đó là nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khá nổi tiếng ở Hà Nội. Vào những năm thuộc thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ XX, khi thị trường Đông Âu còn rộng mở, nghề chạm bạc phát triển thật rầm rộ. Các lớp học nghề liên tục được mở ra đào tạo được hàng trăm thợ chạm mới phục vụ cho các chiến dịch làm hàng xuất khẩu. Nhưng khi những chến dịch ồ ạt ấy qua đi một cách mau chóng, thị trường Đông Âu tan rã, thì hầu hết những người thợ được đào tạo theo lối cấp tốc ấy cứ theo năm tháng mà rơi rụng dần. Âu cũng là thuận theo quy luật của cuộc sống. Nhưng điều đó không khỏi đem lại cho những người thầy một nỗi buồn thấm thía.

undefined
Nghề chạm bạc ở Hà Nội.

Song bao giờ cũng vậy, trong cái rủi lại có cái may. Số ít những người thợ nghề còn trụ lại, hoặc tiếp tục học nghề trong thời kỳ khó khăn nhất, lại chính là số con cháu, họ hàng thân thuộc của gia đình. Một lần nữa, phương pháp dậy nghề truyền thồng theo lối cha truyền con nối, lại khẳng định ưu thế khó phủ nhận trong thực tế. Mặc dù không phải hầu hết những đứa con của các gia đình thợ chạm bạc ở Hà Nội đều theo nghề cha ông. Số theo nghề cũng thật ít ỏi, mỗi nhà chỉ một vài người. Nhưng đa số họ đều là những người thợ giỏi đầy triển vọng.

Trong giới thợ chạm bạc ở Hà Nội, ông Nghiên nồi tiếng về thể loại tranh chân dung. Và chạm tranh chân dung cũng chính là thể loại khó nhất trong nghề. Chính bức chạm nổi Bác Hồ ngồi đọc báo ở Phủ Chủ tịch đã đem lại cho ông tấm huy chương vàng trong triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Việt Nam năm 1997. Và chính bức chạm đã trở thành một mẫu hình thị phạm quý giá, khi ông truyền lại những bí quyết của cách thức chạm bạc thể loại chân dung cho lớp trẻ.

Như những người thợ thức thời, ông Nghiên cũng không quá nghiêm ngặt với các lễ lối cũ, cách thức hành nghề cũ. Ông trông đợi rất nhiều vào khả năng sáng tạo của lứa thợ trẻ. Đó chính là sức sống mới của nghề truyền thống cha ông. Bởi vậy, ông chỉ quan tâm nhất đến việc phổ biến những kiến thức cơ bản ban đầu của nghề chạm bạc cho con và cháu, và rất tôn trọng ý tưởng cải biến những mẫu mã mới của chúng. Anh Nguyễn Ngọc Tú, con trai ông Nghiên ngồi bên khuôn bàn chạm bạc với dáng người thanh mảnh và nụ cười rất tươi tắn, hiền hậu trên gương mặt thanh tú:

- Các mẫu mã hoa lá ngày xưa của các cụ rất đẹp, rất nghiêm cẩn. Nhưng bây giờ nhiều khách hàng thích các mẫu mã mới, hoa lá thoáng đạt hơn. Nên nhiều khi mình phải cải biến đi một chút thì hàng mới dễ bán. Như mẫu hoa lan tây cánh dài mảnh và dáng bay thoát như thế này chẳng hạn.

Có một thực tế là cuộc sống của đa phần thợ thủ công mỹ nghệ ở Hà Nội, kể cả thợ mỹ nghệ kim hoàn, đều chưa thật khá giả. Cũng sống trong một con ngõ nhỏ khuất khúc giữa phố Khâm Thiên, ngôi nhà kiêm xưởng nghề của nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng thật là chật chội. Ông là một người đồng nghiệp giàu tâm huyết của nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh và người thợ đôi bàn tay vàng Nguyễn Ngọc Nghiên. Dòng chữ nổi theo lối đại tự mà ông thờ trong ngôi nhà gồm ba chữ: Đức Bản Giã. Ấy là cách viết tắt của một câu châm ngôn cổ: Đức giả bản giá: Nhà lấy đức làm gốc.

Theo nghiệp thợ, lấy công làm lãi, lấy tín làm đầu, trong làng thợ bạc ở Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng là người nhận được rất nhiều hợp đồng và đơn đặt hàng của khách trong và ngoài nước. Công thơ chính của xưởng thợ hiện nay cũng chỉ tương đương như lương công nhân lành nghề trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng chỉ có trong tay chừng hơn chục thợ thuyền, chủ yếu là con cháu, họ hàng, lại thêm điều kiện nhà xưởng chật chội, ông thường không đáp ứng đủ yêu cầu của khách hàng. Có một số công ty nước ngoài muốn đầu tư cho ông mở rộng quy mô sản suất.

Song ông tự lượng sức mình, sức thợ, nên đành từ chối. Thực ra là ông đang trông đợi rất nhiều ở thời kỳ tới, khi người con trai út của ông thực sự trưởng thành một cách vững vàng.

Như rất nhiều gia đình thợ chạm bạc ở Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng cũng chỉ có được một người con duy nhất theo nghề tổ tiên: Anh Nguyễn Ngọc Anh. Người thấp đậm, đôi mắt đen sẩm, năm nay Ngọc Anh mới 26 tuổi nhưng đã có gần hai mươi năm theo cha từ những nét đục chạm vụng dại đầu tiên, kể từ khi anh hãy còn là một cậu bé học trò lớp vỡ lòng, cầm chiếc búa nhỏ xíu còn chưa vững.

Bây giờ, có thể anh chưa đủ khả năng để thay cha đảm đương quản lý cả một xưởng thợ mỹ nghệ chạm bạc danh tiếng. Nhưng dường như anh đã bắt đầu thổi một luồng sinh khí mới cho xưởng nghề gia đình bằng những gì mà anh thâu nhận được từ luồng gió mạnh mẽ của thời đại. Đó cũng là điều mà người cha hằng đang mong đợi ở đứa con yêu. Anh Nguyễn Ngọc Anh tâm sự cùng chúng tôi bên chiếc máy vi tính, trong lúc anh đang hoàn thiện nốt mẫu trang trí mặt trống đồng trên một sản phẩm mới.
- Mình là con thì phải theo nghề cha thôi. Có điều là khi xưa, các cụ toàn vẽ mẫu bằng tay, có chỗ không đều đặn, sắc nét như ý muốn. Bây giờ thiết kế mẫu trên máy vi tính, nên có thể sửa sang hoàn thiện đến lúc nào thật ưng ý thì mới đem áp mẫu trên sản phẩm, đỡ tốn công sức rất nhiều.

"Có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa". Nhưng với tâm nhìn nhận, sức suy gẫm của một nghệ nhân bậc thầy ngành chạm bạc ở Hà Nội, người cha của anh không khỏi còn những điều lo lắng, trăn trở. Những lo lắng, trăn trở không chỉ cho nghiệp nhà, mà còn xa hơn thế và rộng hơn thế và sâu hơn thế.

Cho dù máy móc hiện đại như thế nào đi chăng nữa, thì các mẫu mã hoa văn cũng vẫn phải giữ được dáng nét và đặc trưng mỹ thuật cổ truyền dân gian trong các sản phẩm. Và mỗi sản phẩm làm ra đều phải mang dấu ấn bàn tay cá nhân người thợ. Nếu như không giữ được như vậy, thì sẽ chẳng ai còn tìm đến với thủ công mỹ nghệ dân tộc.

Tuổi ngoại bẩy mươi, Nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh ở Ngõ Mai Hương vừa có thêm một niềm vui mới. Có một cô học trò do ông dạy dỗ từ nét đục chạm đầu tiên sau năm năm trời, nay đã thành thục trong nghề. Đó chính là cô con dâu út của ông. Nhìn bức chạm bạc mới đang trong giai đoạn hoàn thiện mà đã hé lộ vẻ rực rỡ, sống động của hoa lá, cỏ cây dưới bàn tay cô thợ trẻ, người cha chồng không giấu nổi niềm sung sướng và tự hào thầm kín.

Thêm một người thợ, hơn nữa lại là một người thợ giỏi nghề, nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh còn có thể trông đợi thật nhiều ở nghiệp nhà và nghiệp tổ mai sau. Có thể lắm chứ, bởi bắt đầu từ năm chuyển giao sang thế kỷ mới, cùng với một số ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống của Hà Nội, nghề chạm bạc đang trên đà phục hồi và khởi sắc rõ rệt. Đang có hàng trăm gia đình thợ nghề giữ nhịp chạm quanh năm. Mở rộng và làm cho thông thoáng đầu ra của hàng hoa, đó có lẽ là điều trông chờ lớn nhất ở chính quyền thành phố và ngành tiểu thủ công mỹ nghệ Hà Nội của gia đình các nghệ nhân chạm bạc và các làng nghề truyền thống nói chung.

Ngày ngày, trong căn nhà nhỏ ở ngõ Mai Hương, tiếng đục chạm vẫn lách cách, râm ran. Nhưng liệu điệu nhạc nghề ấy, có thể hấp dẫn và thu hút lũ cháu nhỏ của ông? Câu hỏi đó còn chờ ở ngày mai.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ

BẢO TỒN THÚ CHƠI ĐỊA LAN GIỐNG CỔ - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, năng mai phơ phất non tơ, những đóá lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa toả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.

Ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Chi và bà Triệu Thị Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai nằm trong một khu vườn quanh năm rợp bóng xanh. Mùa hạ, ngõ vào nhà thơm ngát hương hoàng lan, mùa thu, dìu dịu hương quỳnh, hương quế. Hương hoa từ trên cao theo gió sớm, sương đêm, buông tỏả xuống mặt đất hiền hòa, tạo nên một bầu không gian thanh nhã và mộng mơ.

Nhưng qua ba tháng mùa đông khô cằn, khi những màn mưa xuân phơ phất vương bay trong trời đất, ngôi nhà của ông Chi lại chìm ngập trong một bầu hương thơm nồng nàn mà rất đỗi thanh tao. Ấy chính là hương thơm của hàng trăm chậu địa lan đang kỳ trổ hoa. Ông Chi mê đắm vì lan đã bao năm rồi không nhớ nổi: "Mỗi giống địa lan nó lại có dáng lá vẻ hoa khác nhau, hương thơm cũng thế. Hoàng vũ thơm ngọt, Mặc biên thơm ngát, Cẩm tố thơm dịu, Hoàng điểm thơm thanh... Chỉ nghe gió thổi từ xa xa đã biết khóm lan nào đang tỏa hương, Người cứ như đang bay lên mây ấy chứ".

Trong nền văn hóa cổ truyền các dân tộc Á Đông, sự vần chuyển của một năm thời gian vũ trụ được mã hóa bằng hình tượng các loài hoa quý giá và đặc sắc của bốn mùa: Xuân lan - Hạ liên - Thu cúc - Đông mai. Hoa lan mùa xuân, hoa sen mùa hạ, hoa cúc mùa thu, hoa mai mùa đông.

undefined
Hoa địa lan có nguồn gốc đầu tiên từ vùng Tây Nam Trung Quốc

Hoa lan, tự xa xưa đã được các bậc tiền nhân liệt vào hàng "vương giả chi hương" có lẽ không chỉ bởi chúng vốn được lưu truyền trong chốn cung vua, phủ chúa cao ngạo, thâm nghiêm, mà chính là bởi chúng mang thứ hương thơm không loài hoa nào trên thế gian sánh nổi. Tuy nhiên, ông cha ta tự xưa chỉ ngưỡng vọng các loài địa lan tức là các loại hoa được trồng trong đất, do tự tay người chăm sóc. Còn đối với các loài phong lan, tuy muôn hình vạn trạng, thắm sắc, đượm hương, thì cũng vẫn chỉ là cây rừng hoa núi, hoang sơ, lạ lẫm. Người ta yêu địa lan không chỉ bởi sắc đẹp và hương thơm của chúng, mà còn bởi vì, chúng là những tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào chính bàn tay kinh nghiệm và sự sáng tạo của những người yêu hoa.

Vậy mà, trong vòng nửa thế kỷ qua, người Hà Nội chỉ loáng thoáng nghe nhắc đến hoa lan qua câu tục ngữ: "Làm chúa chơi lan, làm quan chơi trà" hoặc là qua áng văn chương tuyệt mỹ của nhà văn người Hà Nội gốc, nổi tiếng hào hoa, lịch lãm Nguyễn Tuân:

"Vang bóng một thời". Trong những câu chữ được gọt giũa cầu kỳ đến mức điêu luyện ấy, vẫn đau đáu nỗi niềm của một kẻ nặng lòng hoài cổ, đang thả hồn chìm đắm trong những dòng hồi ức lung linh, kỳ ảo, nhớ về vẻ đẹp của thời quá vãng xa xôi tưởng sẽ không bao giờ sống dậy, chỉ còn lại đôi ánh hào quang mờ dần trong niềm tiếc nối khôn nguôi.

Thế rồi, khi nhắc tới khái niệm dân dã như ngọc lan, hoàng lan và sau này, khái niệm đó được làm giàu thêm bởi trăm loài phong lan hoang dã cùng những giống hoa lan được nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp hiện đại thì dường như không có tên tuổi bất kỳ một loài hoa địa lan cổ truyền nào lọt vào trong trí não những đứa trẻ Hà Nội sinh ra ở cái thời gian khó dằng dặc ấy.

Thì bỗng đâu, cũng thầm lặng, nhẹ nhàng như là trong khoảnh khắc lìa xa năm xưa, vào một sớm đầu xuân mới, dưới làn nắng nhẹ vương tơ, thấp thoáng hiện lên những dáng vẻ, những sắc màu như lạ như quen. Lan Hoàng Vũ như cơn mưa màu cốm non, lan Hoàng Điểm hoa nâu chấm vàng như gấm thêu, lan Cẩm Tố hanh vàng, cành vươn, cánh dài thon thả, thanh thoát như đôi cánh tay vũ nữ vút bay trong điệu khúc thần tiên.

Và người Hà Nội, cũng như chợt tỉnh giấc mơ, mừng rỡ đón chào những nàng tiên lan, những nàng tiên chỉ hiện hình trên thế gian, dưới một bầu trời bình yên, sán lạn, và chỉ khoe hương sắc bên những con người không mấy còn cay cực, vật vã bởi cuộc mưu sinh khốn khó. Hà Nội trong những năm cuối thế kỷ XX, dường như đã thoáng hiện dáng vẻ của một chốn địa đàng sơ khởi mà bao lớp người chúng ta từng mơ ước

Và cứ như thể đã quen biết tự trăm năm, người Hà Nội đã không lấy làm lạ lẫm khi gọi tên hàng chục hàng trăm loài địa lan quý hiếm đang tụ hội trở về đất kinh kỳ ngàn tuổi. Nào là Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Thanh Trường, Ngân Biên, Mạc Biên, Cẩm Tố, Hoàng Vũ, Hoàng Điểm, Tiểu Kiều, Đại Kiều... Những tên hoa cao sang, mỹ lệ đến thế mà lạ không, tưởng như ta đã từng biết đến trong những giấc mơ xa.

Nghe người ta nói, thì hoa lan có tới vài ba trăm loài, với hàng ngàn cá thể khác nhau. Song những dòng lan lưu truyền tại Hà Nội tương truyền có nguồn gốc từ hoàng thành, vương phủ, nên chúng mang hương thơm quý giá hơn hẳn địa lan ở các vùng miền khác trên đất nước. Bởi thế, chúng được giới chơi lan mến chuộng tha thiết.

Cho đến bây giờ, vườn cảnh nhà nghệ nhân Lê Quyết Bội tại làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây cũng chỉ có dăm bẩy chậu lan bầy rải rác quanh bể nước non bộ trước sân nhà. Lão nghệ nhân, tóc bạc trắng, thong thả cầm chiếc bình đồng nhỏ, khẽ khàng tưới nước vào từng chậu lan. Ngày xửa ngày xưa, cả một dải đất rộng lớn bên hồ vốn là thủỷ thổ của các loài địa lan cổ truyền...

Bằng một giọng nói trầm trầm, nghệ nhân đà đận kể: Lan là một loài cây rất kỹ kén đất. Vào mùa hanh khô, người ta tát ao, vét bùn. Gạt đi lớp bùn hoa trên mặt, người ta xắn lớp bùn thứ hai đem phơi khô trên sân nắng. Chừng độ ba bốn, thậm chí cho tới sáu tháng sau, khi bùn khô nẻ, hết sạch tạp chất, sâu bọ, người ta mới đem đập vỡ, sàng lọc, để đưa lên chậu trồng lan. Bởi vì rễ lan ưa thoáng khí và thoát nước.

Nghệ nhân Nguyễn Luân, một nhà làm hoa chuyên nghiệp của làng Nghi Tàm lúc nào cũng tha thiết với địa lan giống cổ:

- Người xưa truyền lại rằng, lan cũng như trà, tựa như các nàng phi tần, quận chúa, tiểu thư khuê các, hiếm khi lộ diện bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, sỗ sàng. Lan thường quen ẩn mình dưới tán lá rợp hay giàn thưa che nắng, như người đẹp núp bóng quân vương mà khoe hương sắc.

Chuyện xưa kể lại rằng, những khóm hoa trong cung vua phủ chúa sở dĩ tốt tươi, ấy là bởi hàng ngày chúng được các cung tần mỹ nữ dốc công chăm sóc. Chờ khi lan trổ hoa, các nàng sẽ có cơ hội đón rước đấng quân vương đến ngự lãm. Do chậm sinh sôi, nảy nở, nên lan phải được chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo và kỹ lưỡng.

Tuy nhiên, do là thứ cây khó tính, nên việc chăm sóc cũng phải vừa mức, tránh sự bất cập cũng như thái quá. Phân bón cho lan cũng không thể tùỳ tiện, phải ngâm ốc và cá vụn trong nước khoảng độ nửa năm cho hoai hết mùi hôi, rồi mới pha loãng mà tưới cho lan.

Chớ bao giờ nghĩ tới việc có thể dùng phân hóá học hay thuốc kích thích sinh trưởng. Thế thì thà trồng rau mà hái lá nấu canh.

Nghệ nhân Nguyễn Ninh ở làng Nghi Tàm, người sở hữu một vườn trà lan nức tiếng trong giới chơi hoa xứ Bắc với những khóm lan đắt giá tới hàng chục triệu đồng là một bậc cao thủ trong kỹ nghệ trồng và chăm sóc những giống địa lan giống cổ được cha ông truyền lại:

- Khách đến tham quan thì nhiều chứ mua bán thì không mấy.

Được giá thì vợ chồng tôi bán, không thì lại để chơi xuân. Tiền cũng quý nhưng lan còn quý hơn ấy chứ. Bán đi gây lại chả dễ trong cái thời tiết khí hậu ô nhiễm thế này. Lan giờ đây dễ bị nấm bệnh. Chữa bệnh cho lan có khi còn khó hơn chữa bệnh cho người. Lá lan hễ cứ xuất hiện một vài chấm đen là kém đi vẻ đẹp toàn bích. Người chơi mất hứng luôn. Một nhánh lan lụi đi thì ruột xót như muối vậy.

Mặc dù hoa lan mỗi năm chỉ nở có một lần, song kỳ hoa kéo dài chừng vài ba tháng, như thế, hương sắc của nó đã kịp trở thành niềm thân yêu quấn quýt khó rời. Hương hoa lại tuỳ theo thời khắc hay hướng gió mà tỏa lan gần xa, lúc thắm thiết, sực nức, khi lại nhạt nhòà xa xôi, như mơ như thực, như có như không. Bởi vậy càng khiến cho kẻ yêu hoa thêm say đắm, chờ đợi, ngóng trông.

Còn nhớ trong khúc Tỳ Bà Hành nồi tiếng, khi cô gái đẹp bến Tầm Dương buông tay đàn ngưng lặng trên mặt sông đêm, nhà thơ Đường Bạch Cư Dị đã thốt thành lời:

Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

(Lúc này lặng tiếng còn hơn cất tiếng)

Cái khoảnh khắc lan ngừng tỏả hương giữa hai đợt gió, cũng có thể ví như thế chăng?

Hoa lan có nhiều chủng loại. Mỗi loại thường chọn mùa trổ bông khác nhau. Có thứ lan nở mùa xuân, có thứ lan nở mùa hạ, song có thứ lan nở về mùa thu hay mùa đông. Lại có thứ lan nở cả bốn mùa. Các cụ ta khó tính, giới sĩ phu Bắc Hà vốn thế, vẫn chê lan tứ thời là thứ dễ dãi, rẻ tiền, như những kẻ xu phụ tiểu nhân ngoài xã hội, không biết giữ phẩm giá tư cách trong sự đổi thay của thời thế. Nói như vậy, quả là cũng oan uổng cho hoa. Song đã gọi là nghệ thuật, là thú chơi, có mấy khi và có mấy ai lại không thiên lệch một đôi phần.

Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, nắng mai phơ phất non tơ, những đóa lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa tỏả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.

Hàng năm, vào một ngày xuân đẹp trời, lan trong vườn nở rộ, nhà chủ thường mời gọi dăm ba người bạn chí cốt, thuộc diện “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đến chơi nhà. Khách gần, khách xa, đều không thể bỏ lỡ dịp may hiếm có trong năm.

Người ta ví, chăm được một chậu lan quý cũng tựa như chinh phục được một cô gái đẹp. Cuộc chinh phục càng khó khăn thì chiến công càng vẻ vang, và kẻ chiến thắng càng thêm phấn khích, tự hào.

Có lẽ bởi vậy mà trong giới chơi hoa, mới nảy sinh thú vui trưng hoa, thưởng hoa, bình hoa. Để mà ở đó, người ta có dịp kể lể, tán tụng, so sánh, phẩm bình về vẻ đẹp và hương thơm của từng khóm lá, từng dò hoa. Xưa nay, trong muôn loài hoa cảnh, chỉ có hoa lan, thứ hoa "vương giả chi hương" mới xứng đáng được chủ hoa mở tiệc đón mừng, khao đãi. Thành ngữ "bữa tiệc thưởng hoa" ra đời từ đó cũng nên.

Thực ra, cái đáng quý nhất ở các loài địa lan chính là hương thơm của chúng. Tự xưa, đối với dân các nước Á Đông thì ngay cả trong các khái niệm thuộc về mỹ cảm, cũng nặng chất duy lý. Tuy hướng đến sự toàn bích, tận thiện, toàn mỹ, song nếu xét nét riêng, thì cái sắc cái hình vẫn không thể sánh nổi cái thanh, cái hương.

Bởi thế, tuy hoa trà, hoa mẫu đơn được bầu là chúa các loài hoa mà các bậc tiền nhân, vẫn coi chúng là những thứ hữu sắc vô hương, chẳng coi trọng tôn thờ như đối với các loài hoa mang hương thơm như thuy tiên, địa lan.

Tuy mỗi giống địa lan đều có hương thơm đặc trưng riêng khó lẫn, nhưng tựu trung hương thơm của hoa lan rất dịu dàng và thanh tao, nhẹ nhõm và tinh khiết. Lại nói, trong cuốn truyện vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng miêu tả sự tinh tế đến mức quá kỳ cầu, sự sang trọng đến mức quá cao xa của thú chơi hoa lan, nhất là khi các bậc tiền nhân tố chức một bữa tiệc thưởng hoa.

Chờ khi trong vườn có đôi dò lan hé nở, nhà chủ thường lấy mươi tờ giấy tốt, làm khung nứa mỏng, nương theo chiều cao của ngọn hoa mà phất đôi ba chiếc lồng bàn nhẹ. Thế rồi dâu gai trong nhà phải rửa sạch từng viên đá cuội trắng tròn, đem tẩm kẹo mạch nha nấu từ mầm lúa nếp, xếp vào những đĩa nhỏ, bầy quanh gốc lan, đậy lồng bàn cho kín. Sau một ngày đêm ủ hương lan như thế, nhà chủ mới mở tiệc trà hay rượu, mời đôi ba người bạn tri âm tri kỉ đến thưởng hoa, và ngâm vịnh thơ phú, bình luận văn chương.

Chao ôi! Cái thú chơi cao sang đến vậy, thì làm sao có thể tồn tại nổi trong mấy mươi năm chiến tranh giặc giã, Tây Tàu nhộn nhạo, mới cũ bất phân. Nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Hà, cộng tác viên thân tín mảng văn hóa Hà Nội cho các báo đài thủ đô có lúc rất ngậm ngùi:

- Mấy chục năm chiến tranh bao cấp Hà Nội khổ quá. Người dân lo ăn chả đủ nói gì đến thú chơi. Bao nhiêu thứ hoa cảnh, chim chóc cứ lay lắt rồi tàn lụi mất mát dần. Tiếc sao mà tiếc! Dẫu bây giờ có khôi phục lại cũng sẽ chuệch choạc lắm. Vì các cụ cao niên tinh sành đã theo nhau trước sau đi xa hết. Sách vở thì chả có mà dẫn truyền.

Vậy mà chỉ chừng sau mươi năm khi chiến tranh kết thúc, non sông thống nhất cuộc sống trở lại thanh bình no ấm, thì theo đó, thú chơi hoa lan cũng như thú chơi hoa cảnh chim cá quý hiếm như thủỷ tiên, trà hoa, hoạ mi, chim yến, đã phục hồi một cách nhanh chóng.

Gần đây, giới yêu hoa ở Hà Nội gồm các bậc văn nhân, trí giả, nghệ nhân cây cảnh, các bậc cao niền và cả những người trẻ tuổi, đã dần dần nhóm họp thành những hội chơi nhỏ. Họ thường đi lại thăm thú vườn tược hoa cảnh lẫn nhau, bàn bạc hỏi nhau cách thức chọn giống, chăm sóc phòng bệnh cho hoa, tìm tòi sưu tập thêm những giống hoa lan quý hiếm, mới lạ. Và họ coi đó là niềm vui đích thực, là những khoảng thư giãn cần thiết, là sự dinh dưỡng tinh thần hữu ích trong cuộc sống còn bộn bề lo âu vất vả hôm nay.

Gia đình ông bà Chi - Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai cứ mỗi mùa hoa nở lại mở tiệc khao đãi đôi lần. Khách gần khách xa nườm nượp kéo đến. Văn nhân, nghệ sĩ, thương gia đều hiện diện.

Có các cụ cao niên trên phố cổ, lại thêm các chàng thanh niên nông dân mới vào nghề trồng lan. Xem hoa, ngắm lá, thưởng hương, trầm trồ, bàn luận sôi nổi. Cụ Đặng Trường Lâm tuổi ngoại bẩy mươi, nhà ở phố Nguyễn Trường Tộ, râu tóc bạc trắng nhưng đôi mắt vẫn rất tinh anh, giọng nói sang sảng:

- Trên phố bây giờ làm gì ai có nổi khu vườn lan trà rộng lớn như thế này. Cũng khó ai sưu tập đủ hầu hết các giống địa lan cổ như nhà ông Chi đây. Tôi thích nhất chậu lan Hoàng điểm này. Hoa như gấm thêu, lá xanh toàn bích không một nốt đen vết xước nào. Hoa này còn chơi hằng tháng nữa cũng chưa tàn.

Ông Nguyễn Văn Hùng, kỹ sư trồng trọt của sở nông nghiệp Hà Nội cùng mấy cậu thanh niên trẻ xúm xít quanh khóm lan Ngân biên trổ hoa nâu phớt ánh vàng thâm trầm, quý phái:

- Quanh năm ông bà Chi - Thái chăm chút, bón tưới, phòng bệnh rất vất vả. Nhưng khi hoa nở khắp vườn lại mời gọi anh em đến thưởng lan, chia vui. Mọi người học thêm được ở ông bà nhiều kinh nghiệm nhân giống, chăm sóc, đánh giá lan rất quý giá. Chậu Ngân biên này chẳng hạn, hiếm lắm đấy, lá nó xanh trong lòng mà viền hai viền trắng hai bên, rất điệu đà.

Nghệ nhân Nguyễn Luân, một trong ba nghệ nhân địa lan giống cổ tại làng Nghi Tàm ở tuổi ngoại tám mươi vẫn lưu giữ bên hiên nhà mấy khóm lan quý Hoàng Vũ, Thanh Trường, Mạc Biên:

- Tôi chỉ chơi lan giống cổ truyền, tự nhân giống, tự chăm bón.

Nhưng tôi già yếu rồi nên cũng chả có sức được như xưa. Mươi năm nay bên Trung Quốc người ta mang giống lan của mình về bên ấy nhân ra trong phòng thí nghiệm rồi đem trở về Việt Nam bán nhiều lắm, giá rất rẻ. Nhưng lan đó hoa mảnh, sắc nhạt mà mùi hương lại nhạt nhòa, chỉ chơi được một mùa rồi tàn lụi dẫn. Sao bằng hoa bên ta được.

Vườn lan của nhà anh Nguyễn Vinh Dũng ở làng Nhật Tân cũng là một địa điểm đầy sức thu hút giới chơi lan ở Hà Nội và cả các tỉnh ngoài Bắc, trong Nam. Anh chị có một lối chơi lan rất cao ngạo. Nếu không gặp được khách mua đúng ý, không đáng chỗ trao gửi những đứa con yêu dấu, anh chị Dũng thà để lại vườn, mỗi tuần cắt vài chục giò trưng trong chiếc bình lớn, khiến không gian trong nhà ngoài vườn đều thơm nức như trong động tiên.

Một người cùng thế hệ chơi lan với anh Dũng Nhật Tân, thế hệ ngõ hầu có thể tiếp nối thế hệ chơi lan lão niên của Hà Nội như cụ Ninh, cụ Bội, cụ Luân, ông Chi, đó chính là vua lan Trần Tuấn Anh ở Đình Thôn, Nam Từ Liêm. Trong khuôn viên vườn lan rộng hàng nghìn thước vuông mát rượi luôn đan cài hai ba tầng hoa cao thấp. Hàng nghìn khóm phong lan, địa lan, thạch lan mùa nào cũng ngập tràn màu sắc. Ban đầu khi bước chân vào thú chơi lan,

Tuấn Anh nghiêng về phong lan, thạch lan. Trong đó có tổi 5 loại lan mà anh kỳ công sưu tập từ các miền rừng sâu núi thẳm khắp đất nước và đã được các nhà nghiên cứu lan trên thế giới đặt tên là Lan Tuấn Anh. Sau dần, qua thời gian, các giống hoa địa lan giống cổ Hà Nội vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh cũng đã chinh phục Tuấn Anh từ vẻ đẹp thanh tao và hương thơm huyền diệu của chúng. Hơn thế, thú chơi địa lan giống cổ còn chinh phục Trần Tuấn Anh bằng ý nghĩa tinh thần cao sang lịch lãm của văn hóa cổ truyền người kinh kỳ Thăng Long Hà Nội.

Đã lâu lắm rồi, kể từ thời đi thăm vườn lan của nghệ nhân Lê Quyết Bội trên Nghi Tàm từ vài mươi năm trước cho đến gần đây, tôi mới được gặp lại một vài cụm lan Thanh Ngọc vô cùng quý hiếm tại vườn lan Trần Tuấn Anh. Anh đang cùng những người bạn cộng sự đêm ngày cần mẫn nhân lên giống địa lan quý hiếm ấy. Tuy nhiên không phải qua vài ba năm mà đã được như ý. Mặc dù giá mỗi nhánh lan thanh ngọc trên thị trường hiện nay lên đến vài ba triệu đồng thì các chủ hoa cũng chả thể làm sao cho nó phát triển nhanh như các loại lan nhân giống trong phòng thí nghiệm để trở thành lan thương mại đại trà trên thị trường. Cái khó và cái quý lại là ở chỗ chậm chạp khác thường của địa lan giống cổ.

Tuấn Anh mê lan đến thành giai thoại trong làng hoa. Mê đến nỗi lấy cô vợ nào thì cô vợ ấy cũng đều mà bỏ đi vì không chịu nồi cảnh anh chồng chăm lan hơn chăm vợ, yêu lan hơn yêu vợ. Tam tứ phen rồi đó chứ không phải ít. Muốn truyền đam mê hoa lan cho các con mà chúng lại thờ ơ, bỏ bễ. Đứa sang Mỹ sinh sống đã đành, đứa ở lại Việt Nam cũng thế nốt. Rốt cuộc là chỉ còn có mình Tuấn Anh ở lại giữa vườn lan với những người giúp việc xa lạ và một bầy chó dễ đến vài chục con ngày đêm sủa nhăng nhẳng canh vườn lan quý. Vườn lan Tuấn Anh thuê đất tại Đình Thôn, Nam Từ Liêm đã mấy chục năm nay, nhưng sang năm Tân Sửu 2021 sắp bị chủ đất bắt di dời để lấy đất xây nhà. Vua lan muốn có một khoảnh đất riêng ở ngoại thành để lập vườn lan mới, nhưng chả có cấp thẩm quyền nào chịu chứng nhận cho anh là đang sản xuất nông nghiệp để bán đất quy hoạch trang trại cho. Thế mới khó thay! Tuấn Anh ngậm ngùi lắm:

- Các cụ cao niên làng lan xứ Bắc đã đi xa gần hết. Đến thế hệ tôi thì chỉ có một vài người. Khá là đơn độc. Các bạn trẻ tham gia thú chơi lan hiện nay cũng đông đúc, giỏi giang lắm. Nhưng đa phần các cậu ấy chỉ quan tâm đến việc kinh doanh kiếm lợi với những giống lan thời thượng chiều đãi thị hiếu đám đông, chứ không mấy ai mặn mà với việc sưu tập, bảo tồn, phục tráng các giống lan cổ truyền của cha ông. Đó là sự thực.

Lâu nay, nếu như giới chơi phong lan đang bị cuốn hút vào những dòng lan đột biến giá tiền bạc tỷ thì giới chơi địa lan lại đang bị hấp dẫn bởi những dòng lan kiếm (dòng lan lá to hình giống chiếc kiếm) mới sưu tầm được tại những vùng rừng sâu núi thăm của Việt Nam và các nước Đông Nam châu Á.

Trước nhu cầu thị trường địa lan càng phát triển, mở rộng, các nhà khoa học đầu ngành trồng trọt ở nước ta cũng chẳng thể thờ ơ, nếu như không nói rằng, nhu cầu đó cũng tạo lập một cơ hội tốt cho họ thể hiện sự tinh nhạy và tài năng chuyên môn. Bắt đầu từ năm 1997, Trung tâm Hoa cây cảnh thuộc Viện di truyền nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đề tài khoa học nghiên cứu phát triển các loài hoa địa lan thơm Hà Nội. Chị Phạm Thị Liên là người được giao chuyên nghiên cứu về đề tài nhân giống vô tính trong phòng thí nghiệm để đưa ra trồng đại trà các giống lan quý cổ truyền dân tộc. Đó chính là đề tài bảo vệ luận án tiến sĩ của chị hoàn thành tốt đẹp vào năm chuyển giao thế kỷ, năm 2000. Tuy nhiên, đề án cũng chỉ dừng ở một vài giống lan thông dụng như lan

Hạc đính, lan Trần mộng chứ chưa đạt số lượng như mong muốn với những giống lan quý hiếm của cha ông.

Kể thêm hầu quý vị một câu chuyện nhỏ. Tôi vốn gắn bó với làng trẻ mồ côi SOS Hà Nội tại Mai Dịch từ khi làng trẻ mới hình thành vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, thấm thoắt đã hơn ba mươi năm. Ngôi nhà Hoa Phượng trong làng trẻ là nơi tôi nhận đỡ đầu một cháu nhỏ mồ côi cho nên với tôi là thân thiết nhất. Người mẹ của nhà Hoa Phượng tên là Ngô Thị Sinh. Mẹ Sinh sinh năm Ất Mão 1975. Chị cũng như tất thảy các bà mẹ SOS, đều là những người phụ nữ tình nguyện không xây dựng hạnh phúc lứa đôi để trọn đời cống hiến cho sự nghiệp nuôi dưỡng trẻ mồ côi cơ nhỡ. Mẹ Sinh không chỉ nuôi dạy các con rất khéo léo mà còn có tài trồng rau quả cho các con ăn hằng ngày và chăm hoa cảnh trang trí khuôn viên quanh năm rất giỏi. Tại mặt trước ngôi nhà Hoa Phượng, mẹ Sinh trồng đầy phong lan, địa lan. Mùa xuân đến, hoa nở rạng rỡ, hương thơm ngào ngạt. Nói thì bảo buồn cười, nhưng trong đó tôi rất thích mấy khóm địa lan vào hạng bình dân nhất, giới sành chơi lan chả bao giờ đoái hoài đến, nhưng vẫn nở hoa tím ngát, đẹp đến nao lòng, ấy là hoa Chu đinh lan. Mẹ Sinh thấy mỗi lần tôi vào làng trẻ cứ mê mẩn ra ngắm vào trông nên vồn vã:

- Chu đinh lan thường lắm chị ạ. Trồng cho đẹp mắt thôi. Để em gửi biếu chị mấy giò lan thơm chị chơi nhé!

- Ấy không! Chị đi suốt, có thời gian đâu mà chăm hoa. Nó lụi đi thì phí lắm em ạ. Thi thoảng chị vào chơi với mấy mẹ con và xem ngắm là vui rồi. Chăm hoa phải có tay, chứ có phải ai muốn là cũng được đâu.

Những thú chơi cổ truyền thanh lịch hào hoa cứ dần dần sống lại, chẳng cần đến một cuộc hô hào vận động rầm rộ tốn kém nào, phải chăng chúng cũng chính là những tín hiệu có giá trị đích thực từ một cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một sung túc và hài hòa của người Hà Nội hôm nay./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dư âm trống hội làng Mai

Dư âm trống hội làng Mai

"Dư âm trống hội làng Mai" là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Sau mỗi keo đấu vật thờ Thánh, có tính chất thao diễn tượng trưng, màn "xe đài" ông lão Tư Đẩy chỉ còn có thể chạy quanh bên xới, cổ vũ cho các trai đô trẻ trong làng. Nhưng đã mấy năm rồi, trai đô làng Mai không giật được giải của chính hội làng mình.

Mỗi năm sau trận chung kết, nhìn các trai đô thiên hạ hùng dũng giật giải, mình trần, khố đỏ lễ tạ thánh hoàng làng, lòng lão đô vật oai hùng một thời không khỏi thoáng chút ngậm ngùi, xót xa...

Trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai.

Tùng tùng tùng tùng... Những hồi trống hội làng Mai Động rung lên trong không trung. Lá cờ đại trước cổng đình bay như lượn sóng trong gió xuân. Khói nhang thơm hòa trong màn sương sớm bảng lảng giăng đầy lối ngõ. Đầu xuân sớm, khi cây đa đầu đình vừa kịp trổ lứa búp lộc non tơ đầu tiên mịn màng như nhung lụa thì những tiếng trống hội làng Mai đã trỗi dậy vang động khắp cả một vùng phố thị, xóm làng rộng lớn. Gần 2000 năm đã qua, những hồi trống hội làng Mai đã trở thành những lời mời gọi vô cùng linh diệu cho con dân làng Mai từ tứ xứ trở về quần tụ nơi chốn tổ trong ngày hội vật Mai Động truyền thống từ xa xưa. Ca dao cổ Hà Nội đã có câu: Thanh Trì có bánh cuốn ngon / Có lò đấu vật, có con sông đào.

Ngày mùng bốn tháng Giêng âm lịch hàng năm chính là ngày khai hội của làng quề Mai Động đã bao đời nay. Hội làng Mai Động có những màn đấu vật đã từng nổi danh khắp xa gần.

Ông lão Tư Đẩy năm ấy tuổi đã ngoại bẩy mươi, tóc trắng như cước. Song nhìn những đường bước cùng với những mảng miếng tren xdi vat cia ong lac, thi cac do tre trai tu6i doi muci cũng thế mà học theo. Ông lão Tư Đẩy chính là một trong những đại diện sáng giá của làng vật Mai Động vào những năm giữa của thế kỷ XX. Nhưng theo quy luật của tạo hoa, không ai có thể trẻ mãi.

Hàng chục năm nay, ông lão Tư Đẩy chỉ có thể thi đấu thao diễn tượng trưng trong những keo vật thờ Thánh, keo vật khai hội mà thôi. Keo vật thờ mang tính nghi lễ và ước lệ cao với động tác đầu tiên gọi theo lối cổ là múa Xe đài bái Thánh.

undefined
Trống hội làng Mai

- Già rồi, lão chỉ lấy chén rượu làm vui thôi. Chứ mà thời trai trẻ thì lão đánh bay hết. Tư Đầy làng Mai chưa có thua keo nào bao giờ. Nhưng mấy năm nay thì chịu rồi. Nhường cho lới trai trẻ thôi.

Mai Động, xưa là hương Cổ Mai là vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long, thuộc huyện Thanh Trì cũ.

Tương truyền, vào những năm đầu công nguyên, có một người trai đô gốc ở xứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa) tên là Tam Trinh, người họ Nguyễn, ra nơi đây mở lò luyện võ cho trai đinh trong vùng. Mùa xuân năm 40, theo lời hiệu triệu của Hai Bà Trưng, Đô Trinh đã dẫn đầu 3000 trai đô trong vùng lên đường diệt giặc, góp công thu lại giang sơn gấm vóc. Hội vật làng Mai tương truyền cũng khởi nguồn từ ấy, trải đã kể gần hai ngàn năm. Lễ khai hội nhằm ngày mồng bốn tháng giêng, khi hương xuân, vị tết còn nồng nàn trên từng ngõ xóm. Lễ hội diễn ra tại sân đình Mai Động, nơi mà dân làng lập làm nơi thờ tự Đức Thánh Tam Trinh là thành hoàng tối linh, tối hảo của muôn đời.

Mở đầu dịp hội xuân làng Mai Động bao giờ cũng là lễ rước kiệu của Đức Thánh Tam Trinh từ nghè Mai Động ra đình Mai Động.

Tiếp đó là lễ dâng hương trang trọng và linh thiêng để tưởng nhớ công ơn của Đức Thánh với bà con dân thôn và khắp cả một vùng đất rộng lớn lân cận.

Lệ vật Mai Động có hai vai trọng tài đó là trọng tài trống và trọng tài sới.
Cuộc thi đấu sẽ bắt đầu khi trọng tài trống nổi hồi tróng khai hội. Tiếp đó, trọng tài sới sẽ giữ phần chỉ huy trận đấu, phân định thắng thua.

Sới vật được mở ngay trước sân đình, mở đầu cuộc thi bao giờ cũng là màn đấu vật do các lão đô vật kì cựu đã từng nhiều năm thi đấu và giật giải trong các kì hội làng thể hiện gọi là keo vật thờ

Thánh. Ngày đầu tiên trong cuộc thi đấu vật Mai Động, ngày 4 tháng Giêng bao giờ cũng dành cho các đô vật tuổi thiếu niên và nhi đồng thể hiện tinh thần trân trọng những mầm non tài năng của quê hương. Tuy nhiên, không khí thi đấu bao giờ cũng rất sôi động. Từ những giải đấu thiếu niên này biết bao thế hệ trai đô Mai Động đã trưởng thành và giành giải ở các cuộc thi dành cho các đô vật trưởng thành lừng danh toàn quốc. Ngày thứ hai, mùng 5 và ngày thứ ba, mùng 6 tháng Giêng là dành cho các cuộc thi đấu của các đô vật trưởng thành. Tự bao năm qua, sới vật Mai Động không chỉ là nơi hội tụ của các trai đô, lão đô trong làng mà còn thu hút danh tài từ tứ chiếng đến tỉ thí, so tài. Lệ thi vật dân gian truyền thống Mai Động không quy định cân nặng hay tuổi tác, chỉ là các trai đô trên 18 tuổi trở lên là có thể thách đấu và nhận lời thách đấu.

Sới vật sân đình Mai Động chính là nơi các trai đô thể hiện bằng hết các miếng võ dân gian cổ truyền đã được rèn tập suốt bao năm tháng. Không khí của các cuộc thi đấu cứ theo thời gian mà hun máu đến mức cao độ và buổi thi đấu kết hội vào chiều ngày 6 tháng Giêng. Lệ làng Mai Động quy định, mỗi đô vật sẽ thi đấu ba keo, thời gian mỗi keo không quy định dài ngắn. Cứ hẽ thắng thua rõ ràng là kết thúc. Có khi keo đấu chỉ bắt đầu vài mươi giây đã kết thúc, có khi keo đấu kéo dài vài giờ đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cựu đô vật Nguyễn Đoàn Thụy, người làng Mai Động còn nhắc nhớ:

- Sau ba keo đấu liên tục, hễ đô vật nào thắng cả ba đối thủ khác nhau thì đô ấy được giải. Nhưng mà trong lịch sử hội vật Mai Động có nhiều năm trời đã sập tối mà cuộc đấu vẫn dằng dai quyết liệt cho nên vẫn chưa phân định được giải. Vậy là các bô lão trong làng đành đi đến quyết định là chia đôi giải.

Những năm gần đây, giải thưởng cao nhất hầu như đều được trao cho các trai đô đến từ các sới vật ngoài làng Mai Động. Cụ Triệu Văn Hữu người làng Mai Động bày tỏ niềm tiếc nuối:

- Giải vật thờ Thánh bao giờ cũng phải trung thực, công minh.

Ai xứng đáng thì được nhận giải vào bái Thánh. Nhưng mà trước đây trai đô Mai Động thường khó để trai đô thiên hạ giành giải như mấy năm gần đây. Nghĩ cũng có chút chạnh lòng.

Khác với mọi hôm, lão đô Dũng hôm nay dậy từ rất sớm, lũ cháu nhỏ đang đợi ông dẫn ra đình dự hội, ngày hội mà chúng hằng mong mỏi suốt một năm ròng. Bà nhà biết ý, đã sắp cho ông một bộ quần áo đẹp. Chẳng gì thì bốn mươi năm trước, khi ông còn là một trai đô trẻ giỏi giang trong làng, sau lớp ông Tư Đẩy.

Đã có biết bao cô gái làng Mai từng phải lòng anh đô Dũng, rồi rốt cùng chỉ mình bà được theo ông về làm bạn. Thế mà, ra đến đám hội, ông đã hầu như quên mất có bà đi theo. Ông lao vào không khí đám hội bừng bừng, sôi sục. Chuyện đó là lẽ thường ở làng Mai này, khi mà ở làng, máu mê vật dường như lúc nào cũng chảy rừng rực trong huyết quản mỗi người đàn ông. Hào hứng xem lũ trẻ trong làng thi đấu, ông Dũng như sống lại cả một thời thơ ấu mê say thuở nào. Nhưng lũ trẻ làng Mai bây giờ thi đấu với nhau xem ra chỉ có chung một quyết tâm chiến thắng bằng sức lực, mà chẳng hề biết đến những mảng miếng, lệ luật võ vật dân tộc cổ truyền. Kể cũng tội nghiệp, chúng nào có được học hành luyện tập đến nơi đến chốn bao giờ đâu.

Lệ làng từ xa xưa trước ngày vào hội từ những lò vật nhỏ nằm rải rác trong khắp các thôn xóm đã diễn ra những cuộc đấu tập rèn luyện những miếng võ vật cổ truyển của làng Mai cho các đô vật, đặc biệt là các đô vật trẻ tuổi lớp cháu con. Rồi cứ tiếp nối như thế ông truyền cho cháu, cha dạy cho con, anh rèn cho em. Gia đinh, họ hàng và xóm giềng động viên, cổ vũ nhiệt liệt, đó chính là một trong những lề lối để giữ lại truyền thống thượng võ của cha ông xưa và rèn luyện sức khỏe cho người dân trong cả làng. Đó cũng chính là những cuộc rèn tập để chờ đến các cuộc đua tài hội xuân làng Mai Động. Nhưng nếu chỉ nhìn bề ngoài, khó ai biết được những thăng trầm của lò vật làng Mai. Ông Dũng than thở:

- Ngày xưa trai trẻ chúng tôi ăn có lúc chả đủ no nhưng luyện tập thì hăng hái lắm. Bây giờ đám trai trẻ chúng nó cứ say mê những trò gì chả biết. Đất làng vật mà chả mấy ai còn tập tành rèn luyện như ngày xưa.

Nếu như ông lão Tư Đẩy là đại diện cho lớp đô vật làng Mai vào những năm 50, ông Dũng là đại diện cho thế hệ kế tiếp ở thập kỷ 60, thì anh chàng trọng tài của trận đấu hôm ấy, anh đô Toàn là một trong những người đại diện cho lớp trai đô của làng vào thập niên 80 của thế kỷ XX. Anh đô Toàn, người nghềnh ngàng cao lớn chẳng khác nào pho tượng ông tướng cửa đình. Giọng nói nghe ồm ồm, ra dáng con nhà nòi võ vật. Trong ký ức của anh, làng Mai chưa bao giờ không sẵn những đô tài nổi danh, đặc biệt là những đô vật trước anh một thế hệ, thế hệ của thập niên 70, thế kỷ XX với biết bao ngón nghề mà anh từng khâm phục. Những chuyện đó như cũng đã lùi xa vào dĩ vãng, mỗi khi nhớ tới, là một lần lòng kiêu hãnh lại xen chút ngậm ngùi:

- Ví dụ có những miếng sườn nhanh, mà người ta gọi là sườn cóc. Nghĩa là vào sới có thể vật ngã đối thủ trong tích tắc. Lại có những miếng như là miếng sườn quỳ. Khi bị đối phương đánh ngã, ngã quỳ trên sới rồi mà vẫn có thể dùng miếng sườn quỳ ấy quật ngã lại đối phương. Lại có khi đã ở cuối thế lồng tay tư, sắp gục mà dùng được miếng vật, gọi là miếng moi, quay ngang đánh ngã đối phương. Nhưng những miếng vật hay như thế, bây giờ hiếm thấy ở lớp trẻ.
Có nhiều yếu tố khiến cho phong trào vật ở Mai Động chỉ dừng ở bề nổi, chỉ dừng ở vẻ rực rỡ hình thức trong lễ hội, mà không đi vào chiều sâu của việc rèn luyện thể dục, thể thao, bảo vệ sức khỏẻ, duy trì tinh thần thượng võ. Trước hết là do thiếu các điều kiện luyện tập như sân bãi, kinh phí. Như nhiều làng xã ven đô, làng Mai Động, không mấy chốc sẽ trở thành phố. Dấu ấn văn hoa làng quê xưa cũ đang dần phôi pha. Những tập tục cổ truyền hầu như cũng đang sắp lạt phai theo năm tháng, hoặc bị chìm lấp dần trong nhịp sống đô thị hiện đại. Nhưng ngẫm lại thì nguyên nhân dẫn đến sự mai một dần của phong trào luyện tập võ vật thường xuyên ở Mai Động, chính là thiếu một sự quan tâm, động viên, và thiếu trách nhiệm tổ chức, tập hợp của chính quyền và các cơ quan chức năng hữu quan, như ngành văn hóa thông tin và ngành thể dục thể thao.

Có một mảnh vườn nằm sâu giữa làng trước đây từng là một xới luyên vật có hàng chục trai đô của làng góp mặt. Nhưng giờ đây, nó hầu như đang bị bỏ hoang. Bà Lê Thị Loan, một người phụ nữ có ông chồng và cả hai đứa con trai đều mắc máu mê vật, đang dùng chiếc chổi tre quét sàn sạt trên mảnh vườn lỏng chỏng mấy tay tạ cũ gỉ cùng mấy món đồ nghề luyện tập thể dục mốc thếch:

- Mấy năm trước, bố con chúng cũng gọi được thêm mấy đô trẻ trong làng đến tập luyện. Tập xong, có mùa giành giải nhất đấy.

Thế nhưng mà rồi phường phố chẳng có gì quan tâm động viên, duy trì, nên bố con chúng cũng nản. Mấy năm rồi toàn là người thiên hạ về giật giải của làng thôi. Trai làng chỉ vật ở vòng ngoài, không mấy ai vào đến vòng kết.

Nguyễn Văn Trường là một chàng trai Mai Động cách đây ba bốn năm đã từng giật giải hội làng. Không hiểu sao, có lúc ma đưa lối, quỷ dẫn đường, chàng trai đô đã sa vào làn khói ma tuý đây huyễn hoặc. Tại Mai Động, đó không phải là trường hợp đáng buồn duy nhất. Bây giờ, Trường đang trong giai đoạn cai nghiện tại nhà, khó khăn và khổ sở biết mấy. Có lẽ, chỉ có trò luyện vật cho lũ trẻ là niềm vui bé nhỏ của chàng trai. Liệu rồi anh có trở lại được phong độ của một thời không xa lẫy lừng trên xới vật? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.

Thiếu đi một lớp trai đô thời hiện tại, đó là một thiệt thời cho đất làng Mai. Thế nhưng đối với những con người giàu tâm huyết trong làng, thì việc bắt đầu trở lại chưa bao giờ lại có thể coi là muộn. Nhất là khi lớp trẻ mê vật trong làng, cũng hàng trăm đứa.

Chúng mê từ tiếng trống hội làng mà mê sang những mảng miếng thần tình của cha ông. Hướng cho chúng vào một niềm mê say lành mạnh, tức là đã góp phần giúp cho lớp trẻ có điều kiện lánh xa những tệ nạn xã hội nguy hiểm như cờ bạc, nghiện ngập, những tệ nạn đang lây truyền khá là mạnh mẽ ở ngay chính mảnh đất văn hiến lâu đời này. Ông lão đô vật Dũng ở tuổi ngoại lục tuần vẫn tràn ngập hy vọng ở lớp trẻ. Giữa những buổi luyện tập, ngẫu hứng, ông thường kể cho chúng về một thời hào sảng, trẻ trung năm nào:

- Ngày xưa, khi ông còn trai trẻ, dịp lễ hội mùa xuân, thường nhóm bạn đi vật hội khắp các làng xã mấy tỉnh thành, thắng thua đều háo hức lắm. Đến dịp hội Gióng mồng chín tháng Tư âm lịch mới coi như kết thúc. Con người ta qu nhất là sức khoẻ. Có sức khoe mới có thể làm ra của cải, gây dựng cuộc sống ấm no.

Trong đám hội làng Mai Động mồng 4 tới mồng 6 tháng Giêng, người ta vẫn thường bắt gặp rất nhiều gương mặt già trẻ gái trai từ khắp nơi về tụ hội. Đặc biệt là người dân trên các phố Hà Nội.

Một ông lão mặc bộ com lê màu ghi sáng, đội chiếc mũ phớt sang trọng tươi cười xưng tên là Lê Văn Hùng, nhà ở số 71 phố Nguyễn Lương Bằng. Tuy đã ở tuổi ngoại bẩy mươi nhưng chưa năm nào ông bỏ một mùa hội làng Mai. Mỗi lần dự hội, ông như thấy mình thêm một lần trẻ lại:

- Nghe tiếng trống thúc là thấy như mình cũng muốn lao vào xới vật. Người cứ như uống được liều thuốc tiên. Tôi còn sống còn mong đến mùa xuân, còn đi xem hội vật làng Mai. Thật đấy.

Còn mấy cô nữ sinh trung học, đang còn khoác nguyên ba lô sách vở trên vai, những gương mặt sáng ngời và những đôi mắt lấp lánh đang háo hức chờ đón điều gì sau hồi trống kết hội? Nguyễn Thanh Mai, nữ sinh trường trung học phổ thông Minh Khai rất hồ hởi:

- Chúng em vừa tan buổi học đầu xuân mùng sáu tết là về ngay đây còn kịp xem màn chung kết. Nghe trống giục rất phấn khích. Giống như tham gia trò chơi cảm giác mạnh. Xem ai thắng giải chúng em vào xin chụp kiểu ảnh đưa FB cho oách ạ.

Khoảng trên chục năm trở lại đây, luồng gió đổi mới trong nền kinh tế xã hội của thành phố đã thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ làm sống dậy những truyền thống văn hóa tinh thần tốt đẹp trong quá khứ. Truyền thống thượng võ lâu đời của dân làng Mai cũng trở lại rạng rỡ cùng những kỳ hội làng mùa xuân.

Vợ chồng anh đô Toàn dù hàng ngày phải lao tâm lăn lộn chốn thương trường vì cuộc mưu sinh thường nhật, nhưng mỗi dịp tết đến, xuân về, không bao giờ quên mua một cành đào thật lớn dâng lên ban thờ tổ. Đó chính là ý nguyện của ông nội anh thưở sinh thời, khi cụ còn là một đô vật nổi danh hàng đầu của làng Mai những năm trước Cách Mạng Tháng Tám. Bởi vì hội làng Mai mở đúng dịp Tết Nguyên đán, cùng với mùa đào hoa rực rỡ. Và sâu xa trong ý nguyện đó, là ước mong cho truyền thống thượng võ của người làng Mai mãi mãi rỡ ràng, cho mãi mãi hội làng Mai xứng danh trong nỗi nhớ và niềm tự hào không chỉ của người làng Mai.

Sau mỗi keo đấu vật thờ Thánh, có tính chất thao diễn tượng trưng, màn xe đài ông lão Tư Đẩy chỉ còn có thể chạy quanh bên xới, cổ vũ cho các trai độ trẻ trong làng. Nhưng đã mấy năm rôi, trai đô làng Mai không giật được giải của chính hội làng mình. Mỗi năm sau trận chung kết, nhìn các trai đô thiên hạ hùng dũng giật giải, mình trần, khố đỏ lễ tạ Thánh hoàng làng, lòng lão đô vật oai hùng một thời không khỏi thoáng chút ngậm ngùi, xót xa... Trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai.

Và anh độ Toàn cũng vậy, vẫn khắc ghi trong dạ một nỗi buồn sâu thẳm. Thế nhưng khi tiếng trống hội làng bắt đầu trỗi dậy, anh lại mê say lao vào vị trí trọng tài mà dân làng giao phó. Mà phẩm chất cao đẹp nhất của người trọng tài là công bằng và phân minh, trung thực và vô tư.

Kể từ khi được phục hồi, danh tiếng của hội vật Mai Động ngày càng trở nên sáng giá thu hút rất nhiều danh tài tứ xứ, kể cả các tuyển thủ trong đội tuyển vật quốc gia về tranh tài và đoạt giải.

Người được giải sẽ được trao phần thưởng lên tới hàng triệu đồng do dân làng Mai Động đóng góp và được mang nguyên trang phục thi đấu đơn sơ vào lễ tạ Đức Thánh hoàng làng. Tuy nhiên, trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai. Và anh đô Tài cũng như biết bao những cựu đô vật của làng Mai, vẫn hằng gửi gắm bao hy vọng vào lớp đô vật tý hon của làng. Chờ tới những mùa hội làng xuân mới, sẽ lại có lúc, anh kiêu hãnh giương cao cánh tay của trai đô làng Mai trong niềm vui chiến thắng.
Tùng tùng tùng tùng... Tùng tùng tùng tùng... Nhớ sao những hồi trống vật làng Mai.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới

Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới

“Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới” là nhan đề bài viết theo Chuyên trang Hồ sơ sự kiện được đăng tải trên Tạp chí Cộng sản, là bài Podcast mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Gia tộc Rothschild là “triều đại” ngân hàng - tài chính của các tỷ phú gốc Do Thái giàu hàng đầu thế giới. Báo chí gọi Rothschild bằng những cái tên khác nhau như “chủ của các ngân hàng trên thế giới”, “hoàng đế tài chính của người Do Thái” hoặc “Nhà nước ngầm” đang nắm quyền kiểm soát thế giới và tài trợ cho các cuộc chiến tranh, xung đột và “cách mạng màu” để lật đổ các chính phủ không đáp ứng lợi ích của họ.

Lịch sử hình thành và phát triển của Rothschild

Tên tuổi nhiều gia tộc tài phiệt của người Do Thái gắn liền với thành phố Frankfurt on Main của nước Đức. Gia tộc Rothschild cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuối thế kỷ XVII, Frankfurt on Main là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở nước Đức và có quan hệ thương mại chặt chẽ với các thành phố lớn khác của châu Âu.

Ở Frankfurt on Main có sàn giao dịch chứng khoán lâu đời hàng đầu thế giới. Từ thế kỷ XVI, các giao dịch lớn bằng cổ phiếu đã được thực hiện tại các hội chợ Frankfurt. Đến thế kỷ XVIII, người Do Thái gần như độc quyền buôn bán kim loại quý, kim cương và các loại hàng xa xỉ ở châu Âu, mang lại cho họ đòn bẩy ảnh hưởng đối với tầng lớp quý tộc.

Sự hiện diện của người Do Thái trong hệ thống tài chính châu Âu thu hút sự chú ý đặc biệt sau cuộc Chiến tranh Napoleon (1803 - 1815) bởi sau cuộc chiến này đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của gia tộc Rothschild.
Người sáng lập gia tộc Rothschild là Mayer Amschel, sinh năm 1743 tại khu ổ chuột dành cho người Do Thái ở Frankfurt on Main. Cha của Mayer Amschel là Amschel Moses Bauer - người quản lý một văn phòng đổi tiền được trang trí bằng một biểu tượng dưới dạng chiếc khiên màu đỏ khắc hình ảnh con đại bàng được mạ vàng.

Vì thế, về sau Mayer Amschel chọn từ Rothschild để đặt tên cho dòng họ của ông, có nghĩa là “chiếc khiên màu đỏ”. Từ đó, tên của Mayer Amschel được đổi thành Mayer Rothschild.

Năm lên 12 tuổi, Mayer Rothschild đến thành phố Hanover và bắt đầu học việc tại ngân hàng Oppenheimer - một gia tộc ngân hàng của người Do Thái. Khi trở về Frankfurt on Main, Mayer Rothschild bắt đầu sự nghiệp bằng hoạt động kinh doanh tiền đúc từ kim loại quý và đồ cổ, chủ yếu là huân, huy chương cổ.

Vì vậy, có giả thuyết cho rằng, tài sản kếch sù của gia tộc Rothschild bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh tiền đúc. Từ năm 1764, Mayer Rothschild bắt đầu cung cấp tiền xu và vàng cho Hoàng đế William IX và Bá tước Hesse-Kassel - một trong những vị quân chủ giàu nhất châu Âu thời bấy giờ.

Từ năm 1769, Mayer Rothschild trở thành chủ một ngân hàng tư nhân và là nhà cung cấp tài chính chủ yếu cho gia tộc Hesse-Kassel.

Bộ luật gia tộc Rothschild do Mayer Amschel soạn thảo Mayer Rothschild là chủ nhân đầu tiên của gia tộc Rothschild. Để duy trì và phát triển gia tộc, Mayer Rothschild soạn thảo bộ luật gia tộc gồm 5 điều.

Điều 1, chỉ giao quyền quản lý doanh nghiệp cho các thành viên trong gia tộc. Chỉ có nam nhân mới được tham gia kinh doanh và chỉ có nam nhân trực hệ mới có quyền được thừa kế.

Con trai cả trong các gia đình của gia tộc là chủ nhân của gia đình có quyền ra quyết định trên cơ sở đồng thuận của các thành viên khác.

Điều 2, nam nhân chỉ được phép kết hôn với chị em họ thế hệ thứ hai để tài sản tích luỹ được và tên tuổi chỉ thuộc về gia tộc và phục vụ cho sự nghiệp chung của gia tộc. Nữ nhân chỉ được phép kết hôn với giới quý tộc và vẫn duy trì đức tin của mình là Do Thái giáo.

Điều 3, không được phép kê khai tài sản của gia đình, cũng không được tiết lộ quy mô tài sản, kể cả trong trường hợp phải ra hầu tòa. Tranh chấp giữa anh em chỉ được giải quyết trong nội bộ gia đình.

Điều 4, các thành viên trong gia tộc sống hòa thuận, tin tưởng và yêu thương nhau, cùng chia sẻ lợi nhuận một cách bình đẳng.

Điều 5, các thành viên gia tộc duy trì lối sống khiêm tốn, tiết kiệm bởi đây là một trong những yếu tố làm nên sự giàu có.

Điều 6, quyền lãnh đạo gia tộc được trao cho thành viên nào có năng lực hơn tất cả trong việc làm giàu cho gia tộc mà không phụ thuộc vào thâm niên hành nghề hay tuổi tác. Nhờ sự tập trung quyền lực này mà gia tộc Rothschild đã vượt qua mọi cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.

Các thành viên thế hệ đầu tiên của gia tộc Rothschild

Mayer Rothschild là người đặt nền móng cho khối tài sản khổng lồ của Rothschild và có 5 con trai được đặt tên là Amschel, Solomon, Nathan, Karl, James, tất cả đều mang họ Rothschild.

Chính các con trai của Mayer Rothschild đã nhân số tài sản của gia tộc lên gấp hàng nghìn lần, trong đó có 2 người kiểm soát 5 ngân hàng ở các thành phố lớn nhất châu Âu. Amschel Rothschild - con trai cả của Mayer Rothschild - đứng đầu ngân hàng ở Frankfurt on Main năm 1812, sau khi cha ông qua đời.

undefined
Gia đình Rothschild.

Về sau, do Amschel Rothschild không có con nên sau khi ông qua đời, quyền quản lý ngân hàng được chuyển cho các cháu trai của ông. Nathan Rothschild mở một doanh nghiệp ở London - nơi ông thành lập ngân hàng N. M. Rothschild & Sons vào năm 1811. Năm 1814, ngân hàng này tài trợ cho cuộc chiến chống lại Napoleon.

Năm 1816, Solomon Rothschild mở một ngân hàng ở Vienna và là người thành lập chi nhánh Rothschilds ở Áo. Ông là nhà công nghiệp và là chủ đất lớn nhất ở Áo, sở hữu các mỏ than ở Vitkovica và một nhà máy sản xuất nhựa đường ở Dalmatia.

Trái với bộ luật của gia tộc, Nathan Rothschild kết hôn với Chana Cohen - con gái của tỷ phú Barent Cohen và là người Do Thái giàu nhất châu Âu thời bấy giờ. Con trai Nathan Rothschild là Lionel Rothschild tiếp tục mở rộng đế chế tài chính của gia đình. Một chi tiết khá thú vị là Karl Marx - người sáng lập chủ nghĩa Marx xuất thân từ gia đình bên ngoại của Barent Cohen.

Chính gia tộc Rothschild xây dựng đế chế tài chính ở Anh, phần lớn dựa vào vị thế của các nhà tài phiệt gốc Do Thái có quan hệ họ hàng thân thiết. Gia tộc Rothschild nhanh chóng phát huy ảnh hưởng rất lớn trong giới tài chính Anh. Chính Nathan Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu để thành lập Ngân hàng Anh trong 2 năm 1825 - 1826.

Năm 1885, con trai của Nathan Rothschild là Nathaniel Rothschild trở thành huân tước và là người Do Thái đầu tiên được gia nhập câu lạc bộ các huân tước của nước Anh. Thủ tướng Anh David Lloyd George gọi Nathaniel Rothschild là người đàn ông quyền lực nhất nước Anh vào năm 1909.

Karl Rothschild - con trai thứ tư của Mayer Rothschild - mở ngân hàng ở Naples và trở thành người đứng đầu chi nhánh Naples của gia tộc Rothschild và trở thành chủ ngân hàng của Giáo hoàng và Vương quốc xứ Sicilia.
Con trai út James Rothschild khởi đầu kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Paris và thành lập công ty kinh doanh De Rothschild Freres. Ông là một trong những nhà tài trợ cho các nhà cách mạng thế kỷ XIX, trở thành đồng minh của Mỹ và là bạn thân của Tổng thống Abraham Lincoln.

James Rothschild từng tuyên bố: “vũ khí đích thực không được cất giữ trong kho trang bị của các bộ trưởng chiến tranh ngu ngốc mà là trong ngân hàng của tôi”.

Tài sản của Rothschild

Gia tộc Rothschild tuân thủ rất nghiêm ngặt các điều luật của triều đại này và không tiết lộ quy mô tài sản của mình. Theo ước tính thận trọng của giới phân tích tài chính, tính đến năm 2024 tài sản của gia tộc Rothschild có thể vượt quá 3.500 tỷ USD.

Ngoài khối tài sản khổng lồ bằng USD này, gia tộc Rothschild còn sở hữu khối tài sản vô hình có giá trị không kém. Đó là tài nguyên thông tin. Từ những năm đầu thập niên thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild đã tạo ra mạng lưới đại lý và bộ máy thông tin nhanh nhạy nhất thế giới.

Họ là những người đầu tiên biết được mọi chuyện đang diễn ra ở thủ đô các nước trên thế giới và thu về bội tiền trên sàn giao dịch chứng khoán. Gia tộc Rothschilds thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường bằng mọi cách mà pháp luật không cấm.

Nathan Rothschild từng tuyên bố: “ai sở hữu thông tin sẽ kiểm soát thế giới”. Chính Nathan Rothschild là người biết trước Napoleon sẽ đại bại ở trận Waterloo. Với thông tin này, ông kiếm được 40 triệu bảng Anh trên sàn giao dịch chứng khoán.

Gia tộc Rothschilds ở Nga

Từ thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild theo đuổi mục tiêu chính ở Nga là thiết lập quyền kiểm soát các mỏ dầu ở Baku. Từ năm 1886, Ngân hàng Rothschild Brothers sở hữu cổ phần của Công ty thương mại và công nghiệp dầu mỏ Biển Đen - Caspian và bắt đầu tham gia tích cực vào việc phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ ở vùng Caucasus. Rothschild từng tài trợ cho các dự án xây dựng tuyến đường sắt Baku - Batumi.

Từ năm 1887, họ độc quyền vận chuyển dầu mỏ từ Azerbaizan. Đến năm 1890, Rothschild kiểm soát 42% lượng dầu xuất khẩu từ Baku. Công ty dầu mỏ Rothschild thuê tàu chở dầu để vận chuyển qua kênh đào Suez và kiểm soát dầu từ Baku tới thị trường trên khắp các châu lục. Gia tộc Rothschild mua tàu chở dầu trên biển Caspian và xà lan chở dầu trên sông Volga.

Cuộc cách mạng năm 1905 ở Nga châm ngòi cho cuộc khủng hoảng trong ngành sản xuất dầu mỏ do các cuộc đình công, đốt phá các cơ sở sản xuất dầu, làm tê liệt hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của Rothschild sang châu Âu.

Năm 1912, dự đoán trước cuộc cách mạng sẽ bùng nổ vào năm 1917, Rothschild quyết định ngừng kinh doanh dầu mỏ ở Nga và bán tất cả tài sản ở Nga cho Công ty Royal Dutch Shell của Anh - Hà Lan.

Trong kỷ nguyên Chiến tranh lạnh, gia tộc Rothschilds từng tài trợ cho các dự án nhằm làm tan rã Liên Xô. Chính Rothschild tài trợ cho chiến dịch bí mật đưa Mikhail Gorbachev lên cầm quyền và tiến hành công cuộc “cải tổ” và phong trào ly khai trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô.

Vai trò của “nhà nước ngầm” Rothschild

Gia tộc Rothschild đứng đằng sau các dự án chính trị có ý nghĩa toàn cầu. Karl Marx và V. I. Lênin đều cho rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Là đế chế tài chính - ngân hàng lớn bậc nhất thế giới, Rothschild có ảnh hưởng đến các dự án chính trị có tác dụng làm thay đổi thế giới.

Dự án hình thành “nhà nước toàn cầu”. Gia tộc Rothschild chủ trương cùng với các tập đoàn tài phiệt Mỹ, đứng đầu là các tập đoàn tài phiệt Rockefeller và Morgan, thành lập “nhà nước toàn cầu” để giành quyền kiểm soát thế giới thông qua các công cụ tài chính.

Theo chủ trương đó, họ nỗ lực biến quá trình toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh thành quá trình “Mỹ hóa thế giới” thông qua vai trò độc tôn của đồng USD, Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF).

Dự án xây dựng trật tự thế giới mới đơn cực sau Chiến tranh lạnh. Trật tự thế giới mới là chủ trương của Rothschild và các tập đoàn tài phiệt Mỹ thiết lập các công cụ xuyên quốc gia để giành quyền kiểm soát thế giới sau khi Liên Xô tan rã và trật tự thế giới đơn cực sụp đổ.

Dự án thành lập câu lạc bộ các tỷ phú vàng. Đây là câu lạc bộ của các nước phát triển kinh tế hàng đầu ở phương Tây với tổng dân số khoảng 1 tỷ người coi phần còn lại của thế giới chỉ là nguồn tài nguyên làm giàu cho họ.

Đối với giới tinh hoa của câu lạc bộ tỷ phú vàng, các nước phát triển cao ở phương Tây là “vườn địa đàng”, phần còn lại của thế giới là bãi thải công nghiệp, đồng thời duy trì quyền kiểm soát thế giới ngoài phương Tây trong trạng thái “hỗn loạn có kiểm soát”. Chính vì thế, chiến tranh, xung đột, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... bùng phát với tần suất ngày càng lớn.

Dự án tài trợ cho các cuộc “cách mạng màu”. Gia tộc Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu cho các cuộc “cách mạng màu” và đảo chính vũ trang ở châu Phi, Georgia, Kyrgyzstan, Trung Đông, Ukraina và nhiều quốc gia khác.

Trong đó, gia tộc Rothschild chọn ra tổng thống và thủ tướng của nhiều nước và khi cần sẽ loại bỏ họ. Rothschilds cũng là nhà tài trợ cho tiến trình Brexit đưa Anh rút khỏi EU./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên

Cho đến bây giờ, ven nội thành cũ ở Hà Nội, chỉ còn có 2 chợ còn mang chút dấu ấn xưa cũ và còn giữ lệ họp theo phiên. Đó là chợ Mơ ở phía Nam , họp vào ngày 2, ngày 7 và chợ Bưởi ở phía Tây Bắc, họp vào ngày 4, ngày 9. Tuy nhiên, từ ngày cả 2 ngôi chợ này được xây dựng thành trung tâm thương mại, thì phong vị xưa cũng mai một đi nhiều, chỉ là còn chút nét xưa rơi rớt

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên

Vào những năm cuối của thế kỷ 20, người Hà Nội cứ mở cửa ra đường, chưa cần đi tới chợ là đã có thể cùng lúc mua được hàng trăm loại mặt hàng khác nhau, từ mớ rau con cá cho đến cả áo quần, mũ nón. Nhưng vẫn có những thứ mà hễ cần đến, thì cứ nhất định phải đợi tới 6 ngày nhất định trong tháng âm lịch, đánh một chuyến lên chơi chợ Bưởi.

undefined
Chợ Bưởi.

Ông Nguyễn Văn Biên, người ở phường Dịch Vọng quận Cầu Giấy loay hoay trở đi trở lại bên mấy lồng thỏ con hồng hồng, xam xám. Vườn nhà rộng, lũ trẻ lại thích nuôi con gì là lạ, khác khác với gà vịt, ngan ngỗng, chó lợn. Vậy thì chỉ có con thỏ là hay nhất, lũ trẻ lại có thể chơi được với chúng. Nên hôm nay nhất định phải kiếm được một đôi.

Anh Hoàng Mạnh Hùng nhà ở trong khu phố cổ quận Hoàn Kiếm thì tha thẩn bên mấy hàng cây hoa cảnh, trên tay đã cầm sẵn một gốc hoa lý đỏ, thứ hoa leo giàn không rụng lá theo mùa, lại nở bông đúng vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền. Thứ cây này mới xuất hiện ở Hà Nội chừng mươi năm, gây trồng hơi khó, nên các hàng rong trên phố không sẵn. Chỉ có lên chợ Bưởi đặt hàng mới có. Cây ở chợ Bưởi vừa rẻ vừa hợp ý hơn hẳn ở các hàng rong trên phố.

Cho đến bây giờ, ở Hà Nội, chỉ còn có 2 chợ còn mang dấu ấn xưa cũ và còn giữ lệ họp theo phiên. Đó là chợ Mơ ở phía Nam thành phố, họp vào ngày 2, ngày 7 và chợ Bưởi ở phía Tây Bắc thành phố họp vào ngày 4, ngày 9.

Ca dao Hà Nội cổ có câu: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên / Ngày tư, ngày chín cho duyên đèo bòng.

Ngày xửa ngày xưa, chợ Bưởi vốn đã được định vị ở nơi đây trên đất làng Yên Thái ở bờ Tây Nam của Hồ Tây. Chợ nằm ở trung tâm của vùng Kẻ Bưởi cũ, giữa một vùng làng nghề thủ công làm giấy, dệt lụa, dệt lĩnh, nấu nha, nuôi lợn, trồng dâu...

Kẻ Bưởi gồm gần chục làng mang tên Nghĩa Đô, Trung Nha, Vạn Long, Bái Ân, Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài, Đông Xã, Hồ Khẩu...

Chợ Bưởi nằm bên chốn hợp lưu giữa 2 con sông tự nhiên Tô Lịch và Thiên Phù, nên thuận lợi trong việc giao lưu buôn bán trên bến dưới thuyền. Chợ lại nằm kề vòng tường thành bao quanh kinh đô Thăng Long, nên dân cư tập trung qua lại khá đông đúc. Người xưa có câu, "nhất cận thị, nhị cận giang" là thế.

Đặc sản chợ Bưởi

Chợ Bưởi tự xưa vốn là nơi buôn bán hàng hoá của dân các làng nghề trong vùng. Theo các thư tịch cũ còn lại. Chợ Bưởi từng có tới 15 gian hàng bán buôn các loại giấy do dân các làng nghề Kẻ Bưởi làm ra. Đó là giấy bản của làng Yên Thái, giấy moi của làng Hồ Khẩu, giấy quỳ của làng Đông Xã, giấy xề của làng Yên Hoà. Nhưng cho đến bây giờ thì chị Ba, một người hàng giấy thật thà bộc bạch:

- Tôi là con gái làng Bưởi, bán hàng ở chợ cũng đã lâu, nhưng làng Bưởi bây giờ chẳng còn mấy nhà làm giấy, giấy này tôi phải ra chợ Đồng Xuân cất về.

Cô hàng trẻ tuổi kế bên thì nhanh nhảu:

- Giấy này không phải giấy Bưởi chị ạ, mà là giấy Bắc Ninh. Giấy Bưởi thì khổ rộng hơn và mặt mịn hơn. Nhiều người vẫn hỏi, nhưng không hiểu tại sao dân trong làng không làm nữa.

Tuy nhiên, cũng không hẳn là nghề làm giấy ở vùng này đã mất hẳn. Bằng cớ là tại chợ, ở gian hàng sắt, vẫn thấy người ta bầy bán những con dao xén giấy đặc chủng sắc như nước, hình cong cong tựa một chiếc hái lúa và một số dụng cụ chuyên dụng khác như liềm xeo giấy, thép can giấy do người làng Xuân Đỉnh ở phía Bắc Hồ Tây đem về hoặc các loại khung phơi, sọt, sề, rổ rá, thúng từ các làng Cổ Nhuế (Từ Liêm) đem xuống, hay các làng Văn Quán (Phú Xuyên), Tự Khoát (Thanh Trì) đem lên. Trong làng duy chỉ còn vài cơ sở làm giấy nhuộm màu cho các nhà làm hàng mã hay học sinh dùng làm thủ công và giấy vệ sinh các loại.

Ở chợ Bưởi, còn có các hàng nông cụ phục vụ cho bà con nông dân các vùng xung quanh. Những là cuốc cày, xén hái, mai thuổng... màu thép loáng lên xanh ngời trong ánh nắng. Song xem ra người mua cũng thưa thớt...

Chợ Bưởi trước đây còn là nơi đầu mối bán buôn các loại hàng lụa lĩnh của các làng nghề ven Hồ Tây thuộc vùng Kẻ Bưởi. Phương ngôn kẻ chợ có câu: "Lĩnh Hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã". Nhưng bây giờ đi cả chợ, bói cũng không ra một tấm lĩnh cổ truyền. Nghề dệt lĩnh Bưởi đã đi vào dĩ vãng từ những năm trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Bây giờ, khắp chợ tràn ngập vải vóc lụa là nhập từ nước ngoài về. Ngày xưa, chợ còn là nơi bán buôn các loại hàng hoá do dân trong vùng sản xuất như mạch nha An Phú, bánh kẹo Xuân Đỉnh, cốm Vòng (Dịch Vọng)... Bây giờ, những mặt hàng này cũng vẫn thấy bày bán loáng thoáng trong chợ, chưa mất hẳn bóng dáng.

Chợ Bưởi cũng còn là nơi mà bà con các vùng ven Hà Nội đem hàng nghề truyền thống đến bán buôn. Bây giờ, cứ đến ngày chợ phiên, ở phía cổng chợ lối lên xuống từ đường Hoàng Hoa Thám, người ta vẫn ngóng bóng bà bán kẹo bột làng Lủ (Thanh Trì) đầu trùm khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, miệng ăn trầu bỏm bẻn. Hai đầu quang gánh lỉnh kỉnh những là kẹo vừng, kẹo lạc, bỏng ngô, bỏng gạo bọc trong những tấm lá chuối khô chéo lạt rơm và lủng lẳng mấy xâu bánh men rượu như những mảnh trứng nhện trắng màu vôi bột, còn dính mươi mảnh vỏ trấu vàng ươm.

Ông hàng thừng chão Trung Văn (Từ Liêm) quần nâu áo cánh, quạt nan phành phạch ngồi giữa đám thừng sợi to nhỏ quấn vòng, tết vặn đủ các kiểu. Ông kể rằng:

- Chợ Bưởi cách đây dăm sáu chục năm trước chỉ có hai cầu chợ ngói. Còn thì đều là lều lán tạm. Còn sau hoà bình lập lại 1954 mới làm lại tất cả bốn năm cầu chợ. Cây bóng mát cũng mới trồng từ dạo ấy. Ngày xưa, tôi bán toàn thừng giang, thừng tre, thừng nứa, thừng đay, thừng gai... Nhưng bây giờ làng tôi làm cả thừng ni lông, thừng nhựa, vô khối!

Chợ Bưởi, theo tên gọi dân gian lâu đời vốn là chợ bán hoa quả, chủ yếu là hoa quả các làng trong vùng. Phương ngôn kẻ chợ có câu: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên / Riêng đến tháng tám lại thêm phiên rằm / Ai ơi nhớ lấy kẻo lầm / Đi mua hoa quả chơi rằm trung thu.

Nhưng mà chợ Bưởi bây giờ, không chỉ có hồng, na, bưởi, chuối, nhãn, mà còn có đủ thức hoa quả trăm miền trên đất nước và cả hoa quả từ nước ngoài đem về như táo Mỹ, xoài Thái, mận Úc... và cơ man nào là hàng hoa quả Trung Quốc, cứ vàng tím, đỏ xanh khắp các dãy hàng. Và rồi thì ngay cả đến tivi, cát sét, máy vi tính cũng đầy rẫy, sáng choang.

Ở chợ Bưởi, người ta có thể lựa mua được những thứ rau quả tươi ngon còn thấm đẫm sương đêm mới được cất về từ những làng rau chuyên canh ven sông Tô và sông Nhuệ, hay kể cả các loại rau quả đặc sản của các vùng trên đất nước. Và cũng ở chợ Bưởi, các loại cá tôm tươi rói như thể vừa được cất lưới từ mặt nước Hồ Tây hay đưa từ các lồng cá trên sông Nhuệ, các thuyền cá trên sông Hồng đem về.

Những mặt hàng tươi sống ở chợ Bưởi hình như có rẻ hơn ở các chợ trong trung tâm thành phố chừng vài ba giá. Có lẽ do bà con nông dân lên đây đỡ được một vài đoạn đường xa, và thuế má ở chợ nghe chừng cũng có nhẹ nhàng hơn.

Chợ Bưởi - Chợ cây giống

Một trong những mặt hàng đặc sắc ở chợ Bưởi là cây giống các loại từ các làng trồng hoa cây cảnh cổ truyền ven hồ Tây như Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân hoặc các xã vùng rau hoa như Tây Tựu, Phú Thượng đem về vào các buổi chợ phiên. Số lượng các mặt hàng cây hoa giống tăng lên gấp hàng chục lần so với ngày thường. Người dân nội thành bây giờ nhà cửa khang trang hơn nhiều. Họ thường tìm lên đây tầm mua vài khóm thiên lý, lan tiêu, bìm bìm, tầm xuân, ti gôn, đai vàng. Các loại cây trồng chậu như: địa lan, thiết mộc lan, ngũ gia bì, mai tứ quý, sen cạn, vàng anh, xoan táo, đinh lăng, đuôi lươn, mỏ vịt...

Các loại cây hoa đẹp như hồng, huệ, nhài, tường vi, dâm bụt, trinh nữ, cẩm tú cầu... trăm thức khác nhau, mỗi thứ một vẻ. Thậm chí, muốn tìm mấy giống cây ăn quả, hay những cây bóng mát loại lớn, người Hà Nội cũng chỉ tìm lên chợ Bưởi. Nào là ngọc lan, hoàng lan, bằng lăng, gạo gai, phượng vĩ. Rồi các giống cây ăn quả đặc sản như hồng Xiêm Xuân Đỉnh, cam Canh, bưởi Diễn... thứ gì cũng có, song cũng tuỳ theo mùa, theo tiết, hợp với việc bán giống, trồng cây. Duy chưa thấy bao giờ chợ Bưởi bán cây giống như đào Nhật Tân hay quất Quảng Bá, mà chỉ vào dịp giáp tết, bán cây và hoa đến lứa dùng chơi tết mà thôi.

Nhưng đi chợ Bưởi mua cây cũng phải có chút kinh nghiệm. Ví như chớ ham cây rẻ khi bầu đất nơi gốc cây hoàn toàn là đất mới. Như vậy, cây dễ bị đứt rễ, đem về trồng vài hôm là héo rũ. Người sành sỏi khi mua cây, ngoài việc chọn dáng vẻ cây gốc, còn chú ý đến bầu đất gốc cây phải được người làm vườn ra ngôi sẵn từ cách đó ít hôm, hoặc trồng vào giỏ tre hay chậu đất một thời gian.

Tuy nhiên, cây cảnh, cây hoa giống ở chợ Bưởi chỉ là những loại cây thông thường, chủ yếu phục vụ nhu cầu các gia đình thị dân dễ tính. Còn muốn mua các loại cây giống, cây thế, cây hoa, cây quả quý hiếm, nhất thiết phải tìm đến tận các nhà trồng vườn chuyên nghiệp mới được xứng ý.

Bà cụ già tên là bà cụ Gái, áo cánh phin nõn, tóc bạc như tơ, tươi cười trò chuyện:

- Nhà tôi ở Nghĩa Đô, có mảnh vườn rộng, tự tay tôi trồng cấy ngải cứu, lá lốt, tía tô, dấp cá, ớt. Tất cả những cây này đến phiên chợ Bưởi là tôi đem ra bán.

Chị phụ nữ tên là Lan người làng Đăm bộc tuệch:

- Nhà em chỉ có 2 sào rưỡi đất ruộng, cấy không đủ ăn, nên quanh năm mùa nào vụ ấy, em làm thêm các loại cây giống như rau ngót, xương sông, mùi tàu, dọc mùng. Ngoài ra còn làm thêm các loại cây cảnh như tố nữ, sen cạn, lan, nhài. Mà chỉ đem đi chợ Bưởi mới có khách, đem các chợ khác không có mấy người mua. Em bán cây giống ở chợ đã 20 năm rồi.

Chợ Bưởi - chợ con giống

Một chị hàng trùm khăn vải vẩy một nắm cơm nguội lên chiếc sọt nan thưa và rộng, bầy ngan con vàng ươm kíu kíu vươn cổ lên đớp đớp. Anh lái lợn túm đôi chân con lợn tháu kêu eng éc, miệng liến láu, tay vung vẩy chỉ trỏ phô nết hay ăn chóng lớn của chú ỉn cho bà khách vấn khăn nâu, túi áo cánh găm chiếc kim băng to tướng.

Cậu bé chừng năm, sáu tuổi níu quần bố mếu máo đòi mua cả lồng mấy chú chó con lông hung hung vàng. Được đi chợ Bưởi một hôm là nguồn vui tột bậc của lũ trẻ thành phố vốn quanh năm sống trong phố xá chật hẹp, tù túng, toàn người là người.

Bà hàng gà giống, khăn kẻ vuông buộc trùm trán, giọng người trên Phùng vóng vót:

- Tôi đi chợ quanh năm, cứ mồng 2, mồng 7 chợ Mơ, mồng 4 mồng 9 lên chợ Bưởi, mồng 5 mồng 10 thì vào chợ Hà Đông, ngày 3, ngày 6 sang chợ Sa. Gà Đông Tảo nuôi nhanh lớn nhất. Mấy năm nay có thêm gà Tam Hoàng, gà Long Phượng giống Tàu, nuôi cám cò lớn nhanh lắm, với mấy giống gà Tây nữa. Nhưng dân Hà Nội vẫn chuộng gà ri ta chân nhỏ mỏ vàng, nuôi lâu lớn nhưng thơm thịt.

Một ông đặc nông dân, áo đại cán sờn khuỷu tay, khăn len kẻ xanh đỏ vắt xộc xệch trên đầu đang vạch đuôi mấy con ngan giống săm soi:

- Phải chọn giống ngan đực, ngan trâu, nuôi nó mới mau lớn, chắc thịt, dôi cân, lắm lã i. Nuôi ngan cái chỉ tổ ỉa toèn toẹt suốt ngày, bẩn cả sân lẫn vườn. Ngan đực thế nào à, xem đây! của quý rõ ràng ràng ra nhé, nhưng không phải ai cũng biết đâu.

Một tràng cười rộ lên rầm rĩ át cả tiếng quàng quạc ran ran của hàng mấy chục lồng ngan ngỗng gà vịt.

Nghe nói ngày xưa, vào phiên chợ 19 tháng chạp âm lịch hàng năm, chợ Bưởi còn có bán cả các loại đại gia súc như trâu, bò, ngựa... bây giờ thì không thấy có.

Người ta thường nói: "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Nhưng mà, kỳ thực, chỉ cần đi chợ Bưởi một giờ thôi, thì có khi cũng đong đầy cả mấy túi khôn. Nào là cách chọn gà, chọn vịt, chọn chó, chọn mèo, chọn chim, chọn thỏ. Chỉ riêng có cách chọn chó thôi nhé, nghe một chốc cũng ù tai. Những là tam khoanh tứ đốm. Những là tứ túc mai hoa. Rồi lại còn tứ túc huyền đề gì gì nữa...

Ông đeo kính túm gáy con mèo tam thể nhấc bổng trước mặt thằng cu cháu. Con mèo thảng thốt kêu meo meo mấy tiếng, mình mẩy co dúm, chân sau chạm tai. Thằng cu bé hếch mắt nhìn theo không chớp. Ông nó gật gù:

- Hay chuột lắm đây, chứ chẳng đuỗn đuồn đuồn như con mướp lấm đằng kia.

Cô hàng mèo được lời như cởi tấm lòng, cười toe cười toét dang tay âu yếm đón lại chú mèo như không nỡ bán, trong lúc cu con cứ kéo áo ông mếu máo đòi mua bằng được.

Nhưng mê mấy cũng không tày phiên chợ Bưởi giáp tết. Ngồn ngộn những hoa thơm, quả lạ, chiu chít gà vịt ngỗng ngan, tươi rói lá dong, lạt màu, rộn ràng, lộng lẫy véo von hàng trăm lồng chim, chậu cá. Và đào Nhật Tân, quất Quảng Bá, hoa Tây Tựu ken thành một dòng suối hoa rực rỡ chảy tràn sang tận các ngả đường từ Lạc Long Quân đến Thuỵ Khuê, Hoàng Hoa Thám rồi xuôi về hàng trăm ngả phố Hà Nội.

Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Thưởng mai mùa xuân

Thưởng mai mùa xuân

“Thưởng mai mùa xuân” là nhan đề bài Podcast của Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quỳ vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Sự cuốn hút của hoa mai có lẽ đã bật lên từ sự tương phản, khác biệt lạ kỳ. Giữa thân hình mảnh mai, vóc dáng gầy guộc với sương gió lạnh lùng, giá băng khắc nghiệt. Giữa vẻ yếu đuối, mềm dịu bên ngoài và sự mạnh mẽ, quyết liệt bên trong. Giữa sức chịu đựng cùng cực với thế vươn lên hết mình. Hoa mai có lẽ là biểu trưng cao nhất cho sự đối chọi, mà cũng chính là sự hòà hợp tuyệt vời giữa chữ nhẫn và chữ dũng của cốt cách, tinh thần con người, trước cuộc đời bao bất trắc, gian nan mà cũng chứa chan hy vọng và niềm vui: Chúng phương dao lạc độc huyên nghiên / Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên.

undefined
Hoa mai loài hoa mang niềm vui xuân sang, tết đến - Loài hoa mang màu nắng của đất trời phương Nam

Trăm hoa đều tàn tạ, duy chỉ có (hoa mai) hé nở, chiếm hết cảnh đẹp nơi vườn nhỏ. Đó chính là hai câu mở đầu của bài thơ thất ngôn bát cú mang tựa đề "Mai Hoa" của một nhà thơ nổi tiếng đời Tống. Nhà thơ Lâm Bô. Ông vốn là người tài trí hơn đời, nhưng ghét mùi tục luy, ghét cảnh bon chen chốn quan trường nên suốt đời chỉ ở ẩn trên núi Cô Sơn, coi mai là vợ, hạc là con. Nghệ thuật thưởng mai, không còn nghi ngờ gì, có xuất xứ chính là từ Trung Quốc. Khoảng 3000 năm trước, người ta đã nhắc tới mai, thoạt đầu như một thứ cây ăn quả trong dân gian. Sử sách Trung Quốc có ghi, vào thời Xuân Thu, ở đất Tây Chu, người dân đã biết trồng mai.

Ngôi nhà cũ kỹ của nghệ nhân Lê Quyết Bội nằm lọt trong làng hoa cổ Nghi Tàm bên sóng nước Hồ Tây. Góc hiên nhà có một cửa sổ nhỏ hình mặt trăng. Vào cứ xuân, ông thường đặt ở dưới chân tường bốn chậu cảnh quý. Đó là tùng, trúc, cúc, mai. Người xưa truyền rằng, đó là bộ cây Tứ Hữu, bốn người bạn thiết. Bởi chúng đều có sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, như tình bạn bất chấp sự đổi thay của thế cuộc. Nhất là tùng, trúc, mai, còn được liệt vào bộ Tam Dũng, ba thứ cây có khả năng xanh tốt vượt qua sự khắc nghiệt của mùa đông giá lạnh. Mà đầu bảng vẫn là cây mai. "Tiên hưởng bách hoa đầu thượng khai" - Mai nở trước muôn hoa, đứng đầu bảng xuân. Mai được coi là biểu tượng của sự thanh cao, lòng cương trực và khí phách ngang tàng, bất khuất của các bậc chính nhân, quân tử, anh hùng, trượng phu. Nghệ thuật thưởng mai, theo thời gian, đã lan dần sang các nước phương đông, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa.

Từ thời nhà Lý, nhà thơ Mãn Giác Thiền sư đã có một bài thơ nổi tiếng nhắc tới hoa mai. Nguyễn Trãi vị anh hùng dân tộc, đệ nhất công thần triều nhà Lê từng ca tụng: Càng thuở già, càng cốt cách. / Một phen giá, một tinh thần.

Người đời yêu kính hoa mai bởi sự kiêu dũng, hiên ngang trước mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt, bởi hoa mai đem lại hương thơm thanh tao và sắc đẹp tuyệt mỹ. Và hơn tất cả, hoa mang lại cho thế gian linh hồn của mùa xuân.

Mai có rất nhiều chủng loại, ở Trung Quốc, có tới 230 loại mai. Riêng về màu sắc, được chia làm ba loại chính là hồng mai, hoàng mai và bạch mai. Ở Hà Nội, chi mai là giống mai trắng điểm hồng đã được lưu truyền qua nhiều đời. Bên hồ Tây, những làng hoa cổ truyền như Nghi Tàm, Nhật Tần vốn là xứ sở của chi mai.

Chi mai hay còn được gọi là Nhị độ mai, vì mỗi năm hoa thường nở hai lần. Cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần mỗi ngày trên đất Hà Nội càng thêm tươi mới, phong phú và đa dạng. Bởi vậy, ở làng đào Nhật Tân mấy năm gần đây, bên cạnh những luống đào rực rỡ, là vẻ đẹp trắng trong, dịu dàng của những vườn mai đang kỳ trổ bông.

Khác với giống đào ưa đất mới phù sa màu mỡ, giống mai không kén đất, không cần chăm bón kỹ càng. Duy nhất, mai chỉ cần được giữ ẩm vừa độ. Mai không chịu được úng ngập, úng ngập sẽ gây thối rễ mai. Mà bộ rễ là một phần vẻ đẹp chính yếu của cây mai. Công phu nhất của người trồng mai chính là tạo nên được những bộ rễ có hình dáng xù xì, gân guốc, cổ quái, ấy là cách để nhấn mạnh độ già cỗi của gốc mai. Người trồng hoa thoạt đầu trồng cả gốc mai xuống đất như các thứ cây thông thường. Chờ cho cây phát triển đến độ thích hợp theo ý nhà vườn, họ sẽ nhấc cây khỏi mặt đất và trồng lại ở độ sâu nhỏ hơn trước. Hoặc tìm cách bới đất cho rễ cây lộ thiên, rồi uốn tỉa cho thành các hình thế khác nhau. Nào Cửu long tranh châu, nào Bát tiên quá hải, nào Ngũ phúc lâm môn...

Sở dĩ người ta kỳ cầu tạo nên vẻ già cỗi cho mai, chính là vì chiều theo thị hiếu dường như là bất biến của người chơi mai tự cổ chí kim. Kỳ lạ thế, tiêu chuẩn của một cây mai đẹp thật khác xa so với muôn hoa. Có bốn tiêu chí để định giá vẻ đẹp của cây mai. Đó là người ta quý già chứ không chuộng non, quý mảnh chứ không ưa mập, quý thưa chứ không thích dày, và cuối cùng là quý nụ chứ không mong nở. Chính bởi vậy, người mê đào thì dù sớm thế nào cũng phải đợi tới qua rằm tháng chạp, mới có thể lên dinh chọn đặt cây cho tết âm lịch. Chính lúc ấy, người ta mới có thể xem nụ mà đoán hoa. Còn người yêu mai có thể lên vườn chọn mai từ dịp nhà vườn đang mùa tuốt lá, tức là từ tiết đông chí, giữa tháng mười một âm lịch. Khi ấy, cây mai đã chớm lộ vẻ đẹp của vóc dáng, hình thế. Mà vóc dáng, hình thế, đó mới chính là tinh thần, cốt cách của hoa mai.

Chốn nhân gian ngàn đời luôn vui ít buồn nhiều. Trong thập đại danh khúc cổ nhạc của Trung Hoa có tới bẩy bài mang âm hưởng buồn man mác hoặc buồn tới mức bi thiết, não nùng. Chỉ có 3 bài là có những đoạn mang âm hưởng vui vẻ, lạc quan, phấn khích. Trong đó có khúc "Mai hoa tam lộng". Có một giai thoại về

"Mai hoa tam lộng". Đó là câu chuyện về Nhân Hồng Hạo vào thời Nam Tống. Ông vốn là một người được sai đi sứ nước Kim nhưng rốt cuộc bị bắt lại mất hơn mười năm. Mười năm dài chờ đợi đằng đăng được hồi hương, mười năm sống trong sự uy hiếp rồi dụ dỗ của kẻ địch, tâm ông chẳng sợ, lòng dạ chẳng sờn, vẫn hiên ngang từ chối mọi ưu sách, ông một mực bảo trì phong thái cao thượng, coi nhẹ hư vô ở đời. Danh sĩ Cao Bá Quát, một bậc kỳ nhân quê ở làng Sủi (nay thuộc xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm) là người tài ba, cao ngạo.

Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do ông lãnh đạo dù thất bại song vẫn để lại cho người đời tiếng thơm khí phách của một bậc chính nhân quân tử không chịu khuất phục trước cường quyền triều Nguyễn.

Tương truyền Cao Bá Quát đã để lại đôi câu thơ nổi tiếng: Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. (Mười năm vất vả gian truân tìm kiếm cổ. Một đời chỉ cúi đầu bái lạy hoa mai).

Sở dĩ tôi chỉ dám viết hai chữ "tương truyền", bởi cũng có một thuyết khác cho rằng đôi câu thơ trên không phải do danh sĩ họ Cao sáng tác mà là của một nhà nho khác sống cùng thời. Nhưng dẫu sao đó vẫn là đôi câu thơ tuyệt hay về phẩm chất của người quân tử ngày xưa.

Ngẫm ngợi sâu xa thì sự cuốn hút của hoa mai có lẽ đã bật lên từ sự tương phản, khác biệt lạ kỳ. Giữa thân hình mảnh mai, vóc dáng gầy guộc với sương gió lạnh lùng, giá băng khắc nghiệt. Giữa vẻ yếu đuối, mềm dịu bên ngoài và sự mạnh mẽ, quyết liệt bên trong. Giữa sức chịu đựng cùng cực với thế vươn lên hết mình.

Hoa mai có lẽ là biểu trưng cao nhất cho sự đổi chọi, mà cũng chính là sự hòà hợp tuyệt vời giữa chữ nhẫn và chữ dũng của cốt cách, tinh thần con người, trước cuộc đời bao bất trắc, gian nan mà cũng chứa chan hy vọng và niềm vui: Cử đầu hồng nhật cận - Đối ngạn nhất chi mai. / Ngửng đầu mặt trời mọc - Bên suối một nhành mai.

Bài thơ "Thướng sơn" của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đời vào thời khắc cách mạng Việt Nam đang đứng trước một bước chuyển lớn lao có lẽ đã không chỉ dừng ở tầng ý nghĩa văn chương, nghệ thuật, mà hơn thế, còn mang ý nghĩa tư tưởng, nhân sinh quan cách mạng sáng đẹp tuyệt vời.

Trong dân gian, nếu như giới thương nhân và người lao động bình dân tết đến thường thích chơi đào bích với sắc hoa đỏ tươi, nụ hoa đông đúc, cánh hoa dày dặn, ý cầu mong cuộc sống sung túc, đủ đầy, rực rỡ, ấm áp, thì giới trí thức, văn nghệ sĩ thường thích đào hồng phai và hoa mai trắng muốt, hầu gửi gắm tâm hồn phong nhã, hào hoa, coi thường những ước muốn trần tục đời thường. Hoa mai vì thế, như thể để dành riêng cho giới sĩ phu, trí giả, văn nghệ sĩ nghênh đón xuân sang.

Đôi vợ chồng nghệ sĩ sân khấu Hà Nội Kim Thanh - Vinh Mậu ngay từ thời trẻ đã cùng nặng lòng yêu hoa mai. Đối với họ, hoa mai là biểu trưng cho tình yêu thanh cao và bền chặt. Đứa con gái út của đôi vợ chồng nghệ sĩ được sinh ra với cái tên chọn sẵn: Mai Chi. Sau này, anh trở thành một tác gia sân khấu chèo, khán giả Hà Nội còn nhớ tới anh với vở chèo Vòng phấn Cap - ca - dơ, còn chị trở thành một nhà giáo ở khoa kịch nói trường nghệ thuật Hà Nội. Bao gian khó và bao thăng trầm trong cuộc đời, rồi cũng đã lùi lại phía sau. Giờ đây, cả hai vợ chồng đều đã ở cái tuổi đã rời xa ánh đèn sân khấu, lặng lẽ trở lại với đời thường. Thế sự xoay vần, nghề chơi lại có lúc trở thành nghiệp sống. Một cửa hiệu hoa cảnh ra đời trên phố Hoàng Hoa Thám, đã trở thành nơi tụ hội của giới tao nhân, mặc khách Hà Thành. Anh và chị lấy tên loài hoa mà họ yêu quý nhất mà đặt tên cho cửa hiệu của nhà, hiệu hoa cảnh Nhất Chi Mai.

Bận rộn quanh năm, tuy vậy, anh và chị vẫn giữ một phong thái sinh sống và ứng xử bình hòà, giản dị và cao nhã, như chẳng hề nhuốm mùi tục luy chốn thương trường. Mỗi thời khắc xuân vê, anh chị lại cùng chăm chút cho những chậu mai, chờ người đồng điệu. Cái nghiệp chèo anh dày công đeo đuổi, trải qua mấy khúc thăng trầm, giờ đang gặp vận hội hồi sinh, dù còn là mong manh, thắc thỏm, song cũng phần nào giúp cho anh vơi nhẹ nỗi trở trăn nghề nghiệp.

Ông xã tôi vốn là dân kinh doanh và công cuộc làm ăn cũng đã trải qua lắm khúc thăng trầm, có lúc rầm rộ nổi tiếng trên thương trường, rồi có khi đã hầu như mất hết cả sản nghiệp, để lại hệ lụy vô cùng nặng nề cho gia đình, vợ con, bầu bạn. Nhưng khi thoát vòng lao lý ở tuổi ngoại ngũ tuần, anh vẫn gắng gỏi đứng dậy bắt đầu một công việc làm ăn dù nhỏ lẻ chỉ bằng một phần trăm, một phần nghìn thời trai trẻ. Cốt là để khắc phục dần những hậu quả thất bại trong những năm tháng trước đó. Ông xã tôi cũng rất thích hoa mai trắng, có lẽ bởi đã một thời vốn từng theo học hàm thụ đại học tổng hợp văn trong thời gian anh là hạ sĩ quan biên phòng đóng quân tại Hà Nội. Tôi thì rất thích tích truyện dân gian Nhị độ mai. Cô con gái út của vợ chồng tôi cũng được đặt tên Hạnh Nguyên là đặt theo tên nàng công chúa trong tích truyện ấy. Ý là mong cho con vượt qua khổ nạn gia đình đến được cuộc sống hạnh phúc tươi đẹp.

Năm nào bên cạnh quất đào vàng thắm, hồng rực trong phòng khách, vẫn là một gốc mai trắng thanh mảnh, dịu dàng. Cuối năm trước, ông xã tôi đã thanh thản về với cõi người hiền sau mấy năm trời kiên trì chống chọi với những căn bệnh hiểm nghèo. Tết đến, theo lệ cũ, tôi vẫn rước một gốc mai trắng về phòng khách và tạm bỏ thú chơi đào quất hằng niên. Gốc mai trắng năm ấy tự nhiên lại trổ hoa rạng rỡ khác thường. Một mình bên song cửa rộng mở chào đón nắng xuân, những cánh lá xanh non rung rinh bên những đóa hoa trắng tinh khôi. Thấp thoáng đan xen là những đốm nụ điểm màu hồng tươi rói.

Chợt nhớ câu thơ xưa của Mãn Giác thiền sư cách đây gần mười thế kỷ: Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận / Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. (Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một nhành mai)

Kính thưa quý vị, bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh

Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh

“Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh” là nhan đề bài Podcast ngày hôm nay của tác giả - nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hoá - Xã hội, Đài PT-TH Hà Nội. Bài viết được in trong cuốn sách “Hà Nội mến thương” của tác giả. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Màn bái Thánh của hội vật cầu Thúy Lĩnh do lớp cầu thủ thiếu niên thi đấu tranh tài cướp trái bòng vô cùng hào hứng, sôi động và mang khí thế tranh đua quyết liệt ngay từ phút ban đầu. Những hồi trống cầm nhịp rầm rộ khiến cả một không gian rộng lớn bên bên sân đình tràn ngập niềm hứng khởi mở màn ngày hội tươi vui. Trái bòng vàng rực rỡ bay lượn trên bầu trời ban mai lấp lánh ánh bình minh tạo một hình ảnh thật thơ mộng, bay bổng và quyến rũ lòng người.

Sớm đầu xuân trong sáng, cảnh vật thơ thới, tiếng trống hội rộn rã thôi thúc bước chân người. Lá cờ đại ngũ sắc trước khuôn viên đình làng bay cao trong gió như vượt lên triền đê con sông Hồng, in bóng trên những cánh bãi dâu ngô xanh biếc sắc xuân. Nhóm phóng viên lần đầu tiên đến tham dự hội làng Thúy Ái trong năm đầu tiên làng phục dựng hội làng sau nhiều năm đứt quãng vì chiến tranh và đói nghèo nên thật dễ hòa chung vào niềm vui nao nức của bà con dân làng cũng như con dân Thúy Lĩnh khắp từ trong ngoài nước đổ về.

Thuý Ái là một thôn làng thuộc địa phận xã Lĩnh Nam,huyện Thanh Trì sau đổi là làng Thuý Lĩnh phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai. Nằm bên ngoài con đê sông Hồng, tự xa xưa, người dân Thúy Lĩnh sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt vải lụa. Tên gọi Thúy Lĩnh có nghĩa là một tấm lụa biếc nói lên niềm tự hào về nghề truyền thống lâu đời của miền quê bên sông Hồng.

undefined
Hội vật cầu xuân Thuý Lĩnh

Thời kỳ sau ngày tiếp quản Thủ đô 1954, Thuý Lĩnh đã trở thành một vùng trồng rau chuyên canh của Hà Nội cho đến tận giờ đây.

Những năm cuối thế k XX đầu thế kỷ XXl, từ một một làng quê nghèo nàn, Thuý Lĩnh đã và đang trên đà đô thị hóa nhanh chóng. Nhà cửa mọc lên san sát, đường xá mở mang rộng rãi, khang trang.

Tuy nhiên, cho đến tận giờ đây, Thuý Lĩnh vẫn giữ riêng cho thôn làng một cụm di tích văn hóa lịch sử cổ kính mang dấu ấn của những thời kỳ hình thành và phát triển làng xã dưới chế độ phong kiến. Đó là ngôi chùa Thuý Lĩnh mang tên chữ là chùa Diên Khánh. Chùa có lịch sử tạo dựng từ những năm cuối triều nhà Lê đầu triều nhà Nguyễn. Những khóm hoa và cây cảnh cổ thụ trong sân chùa đã in dấu thời gian trải hàng trăm năm có lẻ tỏa bóng trên mái đình cổ kính.

Đình làng Thuý Lĩnh có lịch sử lâu đời hơn, tương truyền là từ thời Lý. Hoặc là đình được xây dựng bởi những người dân đầu tiên ra khai hoang lập làng đã đem theo tập tục phụng thờ đức thánh Linh Lang Đại vương, tức hoàng tử Lý Hoằng Chân đời nhà Lý, là vị thần trấn Tây thành Thăng Long. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng, khi Linh Lang đại vương thắng trận, dẹp yên giặc Tống phương Bắc, đã tung lá cờ chiến thắng lên trời cao. Ở vùng đồng bằng Bắc bộ, có tới 269 nơi trông thấy bóng cờ bay ngang qua và đều lập đình đền thờ Đức Ngài làm thành hoàng làng, người bảo trợ cho sự thịnh vượng bình yên cho dân thôn. Thuý Lĩnh chính là một trong 269 làng quê đó.

Hàng năm, làng Thuý Lĩnh mở hội xuân tại đình làng vào các ngày mùng 4 mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng âm lịch, trùng với kỳ hội làng Mai Động thờ đức thánh Nguyễn Tam Trinh thời Hai Bà Trưng.

Theo các cụ lão niên trong làng kể lại, thì tục vật cầu ngày xuân của làng Thuý Lĩnh là một trong những nghi lễ phụng thờ đức Linh Lang Đại Vương thành hoàng làng, thể hiện tinh thần thượng võ của quân tướng Đức Linh Lang và cũng là truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta trong lịch sử. Tục vật cầu ngày xuân của làng Thuý Lĩnh đầu năm mới cũng là để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình hòa hiếu, xóm làng an vui.

Sới vật cầu mùa xuân của làng Thuý Lĩnh tự xa xưa được mở ngay trước sân đình. Sau này, do quy hoạch đường xá mới, sới vật chuyển sang mé bên phải sân đình. Lễ vật cầu Thuý Lĩnh quy định rất rõ về kích thước quy mô sới vật, về cách thức chuẩn bị sới vật trước khi vào trận đấu. Đời sau cứ chiếu lệ cũ mà theo, dù đứt nối bao nhiêu năm cũng vẫn vậy.

Mở đầu tất cả các cuộc thi đấu vật cầu Thuý Lĩnh bao giờ cũng là trò cướp trái bòng xuất phát từ trò chơi bóng bưởi của của trẻ em các vùng nông thôn Bắc bộ xa xưa. Trò cướp bòng này cũng được coi là nghi thức thờ Thánh nhất thiết của hội xuân làng Thuý Lĩnh. Màn bái Thánh được tiến hành tại trước ban thờ vọng lập ngay trên sới vật. Tuy nhiên màn bái Thánh của Hội vật cầu Thúy Lĩnh có khác với màn bái Thánh của hội vật truyền thống Mai Động. Nếu như màn bái Thánh của hội vật Mai Động chủ yếu là do một lão đô vật biểu diễn các động tác xe đài uyển chuyển, mạnh mẽ thì màn bái Thánh của hội vật cầu Thúy Lĩnh do lớp cầu thủ thiếu niên thi đấu tranh tài cướp trái bòng vô cùng hào hứng, sôi động và mang khí thế tranh đua quyết liệt ngay từ phút ban đầu. Những hồi trống cầm nhịp rầm rộ khiến cả một không gian rộng lớn bên sân đình tràn ngập niềm hứng khởi mở màn ngày hội tươi vui. Trái bòng vàng rực rỡ bay lượn trên bầu trời ban mai lấp lánh ánh bình minh tạo một hình ảnh thật thơ mộng, bay bổng và quyến rũ lòng người.

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hình tượng trái bòng vàng hay là trái cầu đỏ chính là biểu trưng cho hình ảnh của mặt trời, nguồn gốc của năng lượng sự sống của vũ trụ và loài người, nhất là đối với người dân sinh sống tại những đất nước thuộc nền văn minh lúa nước. Đó còn là hình ảnh biểu trưng cho hạnh phúc và sự phồn thịnh, sự sinh sôi nảy nở của muôn loài trên trái đất.

Tuy nhiên, khi vào thi đấu chính thức, sẽ có một quả cầu bằng gỗ sơn đỏ có kích thước to lớn gấp ba gấp tư trái bóng đá như mọi người thường quen thuộc. Đó là trái cầu hằng ngày được bày trang trọng trước ban thờ Thánh trong đại đình mang ra sau màn tế Thánh khai hội vừa được các bô lão trong làng hoàn thành cùng những giai điệu nhạc lễ dân tộc truyền thống.

Tục vật cầu Thuý Lĩnh chia các đội thi đấu theo các lứa tuổi khác nhau: Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên. Mỗi đợt thi đấu gồm 8 cầu thủ, chia làm bốn đội. Mỗi đội gồm hai người, mang đai lưng cùng màu nhau và cùng màu với lá cờ chuẩn cắm ở hố xuất phát của đội đó. Bốn màu là: xanh - đỏ - tím - vàng. Các tuyển thủ cởi trần, mặc quần trắng thắt lưng màu theo màu cờ của đội thi. Ai nấy trông đều vạm vỡ, sức vóc và bừng bừng khí thế.

Mỗi đợt vật cầu được gọi là một phiên. Một phiên thi đấu kéo dài khoảng 1/4 khắc, tức là 30 phút. Nhiều nhất là đến 45 phút. Tiếng trống thúc từng hồi liên tục, giục giã.

Kíp làm phim chia làm hai nhóm với hai quay phim, hai kỹ thuật và hai biên tập viên và một đạo diễn chạy quanh liên tục không có một phút nào được nghỉ ngơi mà có những khoảnh khắc như vẫn trượt khỏi ống kính máy quay.

Nếu như hội vật Mai Động mỗi keo vật vẫn có hai đô vật cùng nhau thi đấu tay không thì hội vật cầu Thúy Lĩnh, mỗi phiên vật bao gồm 8 cầu thủ cùng thi nhau chạy đua, luồn lách, vờn vỡ, tranh cướp trái cầu gỗ đỏ rực thì không khí thêm bội phần rộn rã, quyết liệt. Chưa cần đến cuối phiên đấu, các cầu thủ đều đã lấm lem màu bùn đất suốt từ đầu đến chân. Thật là một cảnh tượng đầy phấn khích.

Lễ vật cầu ở Thúy Lĩnh có hai ngôi trọng tài. Trọng tài là những người có kinh nghiệm thi đấu vật cầu lâu năm và có uy tín trong dân làng bởi sự công minh, trung thực, không thiên vị. Trọng tài cũng rất cần có sức khỏe tốt, có sự dẻo dai và phải hết sức nhanh châ, tinh ý để có thể phát hiện các lỗi sót của cầu thủ và phân định thắng thua rạch rồi, minh bạch, được ban giám khảo và người xem tán đồng nhiệt liệt.

Hội vật cầu Thuý Lĩnh diễn ra mỗi năm chỉ có một kỳ ba ngày. Thế nhưng muốn chiến thắng ở cuộc thi không phải là điều dễ dàng. Ngoài sức khỏe trời phú, mỗi tuyển thủ đều phải có sự rèn luyện thường xuyên hàng ngày cộng thêm những tố chất khác nữa.

Như là sự nhanh nhẹn, mưu mẹo, khéo léo, dẻo dai và biết chớp thời cơ đúng lúc, bất ngờ.

Bên cạnh ban thờ là chỗ ngồi của ban giám khảo cuộc thi gồm các cụ lão niên có uy tín trong làng và thông hiểu lệ tục trò chơi vật cầu cổ truyền. Các thành viên trong ban giám khảo sẽ thay thế nhau đổi phiên đánh trống cầm chịch theo từng phiên thi đấu.

Tiếng trống lúc nào cũng vang vang, mạnh mẽ, thôi thúc. Mỗi khi có một đội tuyển thủ nào đưa được trái cầu về đúng hố cắm cờ của đội mình theo đúng thể thức, không phạm luật câu giờ hay ngoại biên, thì được coi là đạt một giải con. Đại diện của đội đoạt giải sẽ ra trước ban thờ bái Thánh và nhận thẻ điểm màu xanh có ghi trị giá số tiền thưởng ngay trong thẻ.

Nếu đội nào liên tục đạt ba giải con liên tiếp, không đứt quãng, sẽ được nhận một giải cái, thể hiện bằng một thẻ đỏ, có ghi số tiền thưởng ngay trên thẻ. Nếu đoạt nhiều giải con nhưng không liên tục, cũng không thể được nhận giải cái. Điều đó khiến cho các đội thi đấu phải dốc sức với quyết tâm rất lớn. Và đó cũng trở thành yếu tố kích thích sự hứng thú thi đấu cho các tuyển thủ và sự hấp dẫn cao độ với khán giả tham dự. Nếu sau 30 phút thi đấu mà không đội tuyển nào đoạt được giải cái thì trận đấu buộc phải kết thúc để nhường sân bãi cho lớp tuyển thủ mới.

Ngắm những đội cầu thủ phải ra sân khi chưa nhận được giải cái với những gương mặt đỏ bừng tức bực, hối tiếc lại càng thấy không khí cuộc đấu hấp dẫn biết chừng nào.

Người xem hội vật cầu Thúy Lĩnh xúm quanh vòng trong vòng ngoài, tha hồ hò hét vỗ tay cổ vũ đội nhà. Trời tháng Giêng còn giá rét mà họ cởi phăng áo ngoài quàng vai quàng cổ, mặt đỏ bừng, cơ khản đặc. Lắm lúc họ như muốn lao mình vào trận đấu như thể mình cũng là một thành viên đội vật cầu. Nhất là khi có cầu thủ nào trượt chân ngã hay về đúng trái cầu thì khí thế các cổ động viên càng như nổ bùng. Câu tục ngữ "Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tới xem hội" ứng vào cảnh tượng này thật không sai chút nào.

Tám đội trong vòng bán kết được chia làm 2 bảng, mỗi bảng 4 đội, mỗi đội có 2 người chơi chính để thi đấu. Mỗi trận đấu kéo dài 40 phút. Sau khi 2 bảng thi đấu sẽ chọn ra 2 đội có điểm cao nhất ở mỗi bảng để vào thi đấu trận chung kết.

Trận chung kết bao giờ cũng thu hút đông đảo người xem nhất. Tiếng hò hét cổ vũ ầm ầm như muốn át cả những hồi trống cầm nhịp dồn dập vang lừng.

Đội thắng cuộc bất chấp mình mẩy lấm bê bết bùn đất, họ cùng nhau tâng cao trái cầu gỗ đỏ rực trên bầu trời rực rỡ ánh nắng xuân in hình trên những rặng cây xanh tươi. Đó là một khuôn hình đại toàn cảnh thật tráng lệ trong cuốn phim phóng sự của chuyên mục Hà Nội ngàn năm văn hiến.

Tiền thưởng của hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh chủ yếu do bà con dân làng và các nhà hảo tâm đóng góp tài trợ. Tiền thưởng tuy không cao song có giá trị động viên tinh thần rất lớn. Đó là vinh dự rất lớn cho đội tuyển đó trong hội thi. Đội tuyển của hai chàng trai này vừa đoạt được một giải cái sau ba phiên thi đấu khá cam go.

Chiều ngày mồng sáu tháng Giêng là ngày kết hội của hội vật truyền thống Mai Động, Hoàng Mai và cũng là ngày kết hội của hội vật cầu Thúy Lĩnh, Lĩnh Nam. Và bà con dân làng hai vùng quê lại hẹn cùng nhau chờ đến dịp hội làng tháng Giêng năm tới trong những trận đấu sôi động và đầy bất ngờ cùng những gương mặt các đội tuyển thủ trẻ trung mới mẻ lớn lên từ chính mảnh đất của làng quê thân thương.

Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Đôi ván cờ ngày xuân

Đôi ván cờ ngày xuân

“Đôi ván cờ ngày xuân" là nhan đề bài Podcast của tác giả: Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung - Nguyên trưởng ban Văn hoá - Xã hội; Đài PT-TH Hà Nội, bài viết trong cuốn sách “Hà Nội mến thương” của chính tác giả với nhiều bài viết ý nghĩa về những nét văn hoá độc đáo về mảnh đất và con người đất Kinh Kỳ. Xin mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Tự ngàn năm xưa, cầm kỳ thi hoạ, vốn là bốn thú chơi tao nhã của người Á Đông. Có nhiều người ngờ rằng, câu chuyện cuộc cờ tiên vỗn là không có thực. Mà cái có thực, hình như là sự thoát tục, cao siêu của một thú chơi đẹp đẽ và tao nhã trong chốn nhân gian. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, thì cờ tướng du nhập vào nước ta muộn nhất là vào thời Bắc thuộc, cách đây trên ngàn năm. Đó là một thú chơi văn hóa, hay là một môn thể thao trí tuệ, hay là tổng hòa cả hai, người ta thường không mấy phân tách rạch ròi.

undefined
Cuốn sách "Hà Nội mến thương".

Thoạt nhìn, khó ai đã đoán đúng tuổi của cụ ông Nguyễn Đắc Dần nhà ở phố Hoàng Hoa Thám, đoạn gần chợ Bưởi. Râu tóc bạc như tơ, nhưng dáng người quắc thước, nước da đỏ au đi đứng nhanh nhẹn, đường hoàng, vững chãi, nói năng vui vẻ, hài hước, cụ vốn chỉ là một viên chức bình thường của ngành đường sắt về nghỉ hưu từ mấy chục năm nay. Con cái đã phương trưởng, đàng hoàng, mỗi người mỗi cơ, mỗi ngũ, hàng ngày cụ thong dong tận hưởng những thú vui tuổi già mà cụ hằng ưa thích. Nhất là thể dục dưỡng sinh và võ dân tộc. Nhì là chơi hoa cây cảnh và ba là thú đánh cờ. Chiều cụ, anh con trai út tuổi Đinh Dậu những lúc rảnh việc thường hầu cờ cùng cha vài ba ván. Khi cao hứng, cụ thường kể cho con những giai thoại xung quanh thú chơi cờ. Ai được nhìn thấy cụ ngồi đánh cờ bên chiếc bàn gỗ lên nước sẵm bóng, cạnh chậu lan mặc biên thơm một làn hương dịu ngọt, sẽ có thể ngỡ mình đang được xem một cuộc cờ tiên. Cụ Nguyễn Đắc Dân luôn lưu giữ bên mình một cuốn sổ tay cũ kỹ, nhiều trang đã ở vàng, không biết đã có từ bao năm rồi. Trong đó cụ ghi chép những thế cờ độc đáo. Đặc biệt, có một thế cờ mà cụ tâm đắc mãi, không chỉ vì cái hay thông thường của một nước cờ cao mà còn hơn thế. Đó chính là nước cờ do cụ chủ tịch nước Hồ Chí Minh sáng tác và đựợc in trên báo Lao Động năm 1966. Cụ Dẫn đã từng lấy nước cờ này đem đố rất nhiều bậc đại cao thủ làng cờ Hà Nội, mà chưa ai giải nỗi. Ngay như cụ Dần, cũng chỉ giải nồi theo bài dẫn đăng kèm trên số báo sau.

Khi chén rượu, khi cuộc cờ.
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

Tự ngàn năm xưa, cầm kỳ thi hoạ, vốn là bốn thú chơi tao nhã của người Á Đông. Có nhiều người ngờ rằng, câu chuyện cuộc cờ tiên vốn là không có thực. Mà cái có thực, hình như là sự thoát tục, cao siêu của một thú chơi đẹp đẽ và tao nhã trong chốn nhân gian.
Theo các nhà nghiên cứu văn hoa, thì cờ tướng du nhập vào nước ta muộn nhất là vào thời Bắc thuộc, cách đây trên ngàn năm. Đó là một thú chơi văn hoá, hay là một môn thể thao trí tuệ, hay là tổng hòà cả hai, người ta thường không mấy phân tách rạch ròi. Nhất là khi đã vào cuộc cờ, lại trong một khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp, hữu tình cùng những người bạn thân thiết. Khi hương xuân, vị tết tràn ngập không gian, người ta có thể dành thời gian tận hưởng đôi ba niềm vui vì thành quả của một năm trời vất vả trong cuộc mưu sinh vốn không ít những lo lắng, ưu phiền khó tránh. Niềm vui ấy sẽ càng được nhân lên trong những cuộc cờ người ở hội làng.
Cách đây gần sáu mươi năm, có một chàng trai Hà thành say mê cờ tướng vào hạng nhất. Chàng trai Nguyễn Tấn Thọ từng ba năm liền đoạt giải cờ chùa Vua, một giải cờ dân gian danh tiếng nhất xứ Bắc và được khắc tên trên tấm bia đá của chùa. Hội cờ chùa Vua mở vào ngày mồng 6 tháng Giêng năm mới. Tương truyền, vào thời Lê cách đây trên năm trăm năm, có một vị hoàng tử con vua nổi tiếng mê cờ. Ngài đã cho dựng một ngôi chùa trên đất làng Thịnh Yên phía nam kinh thành Thăng Long để thờ vị vua cờ huyền thoại Đế Thích và lập sân đấu cờ trước sân chùa cho dân chúng vui xuân. Cho tới bây giờ, vua cờ Nguyễn Tấn Thọ vẫn được giới danh thủ đất Hà Nội tôn vinh là bậc cao cờ hạng nhất. Đã từ nhiều năm nay, vào ba tháng mùa xuân, hiếm ai có thể tìm thấy ông tại nhà. Ông thường được hàng trăm làng xã ở khắp vùng đồng bằng, trung du Bắc bộ mời gọi làm cố vấn cho các hội cờ xuân thôn quê. Hào hưng với việc khôi phục lại một nét đẹp của mùa xuân xứ Bắc, vua cờ Nguyễn Tấn Thọ hầu như không nghĩ mình đã ở tuổi ngót bát tuần. Nhưng cái tinh thần của cờ tướng trong thời kỳ mới, ông hầu như thấu hiểu tới tận cùng.
Hà Nội còn có một bậc kỳ thủ cao niên rất nồi danh là vua cờ Lê Uy Vệ, cụ từng là phó chủ tịch Liên đoàn cờ Việt Nam. Dù nghỉ hưu đã mấy chục năm song giới kỳ thủ đất Bắc vẫn tôn vinh cụ là người có chuyên môn xuất sắc và có những nước cờ rất hào hoa, thoáng đạt. Ngắm lão vương Lê Uy Vệ diện áo gấm đỏ, đội khăn xếp đỏ, gương mặt hồng hào, đôi mắt tinh anh, ai đó đều mong ước cụ sống sống lâu trăm tuổi và mỗi dịp hội cờ chùa Vua mùa xuân, cụ lại hiện diện như một biểu tượng tuyệt đẹp của thú chơi cao nhã cổ truyền dân tộc.
Mùa xuân năm ấy, ở độ tuổi ngót tám mươi, nhà nghiên cứu văn hóa phương đông Ngô Linh Ngọc vẫn được người Hà Nội tôn vinh là người toàn tài cầm kỳ thi họa trong giới trí giả ở Việt Nam. Riêng đối với cờ, ông từng là người sáng lập ra hội cờ Thuyền Quang vào năm 1936, năm mở đầu phong trào mặt trận dân chủ Đông Dương ở Việt Nam, với rất nhiều hoạt động nhằm tôn vinh và phục hồi những nét đẹp trong nền văn hóa dân tộc. Trong tủ sách gia đình, có hai cuốn sách mà ông yêu quý nhất. Đó là cuốn
Trung Quốc tượng kỳ từ điển, và Tượng kỳ toàn thư. Hai cuốn sách dây cộp, có các thế cờ minh hoa cho cách dánh, có chú thích, có diễn giải một cách sáng sửa, rõ ràng. Ong Ngọc khi trò truyện với chúng tôi cứ ao ước hoài rằng chừng nào Việt Nam có được đôi ba cuốn sách như vậy thì bộ môn văn hóá thể thao cờ tướng sẽ có cơ phát triển mạnh mẽ hơn.
Vài mươi năm trước, với bút danh Kỳ Hữu, ông đã là một cây bút hàng đầu của tạp chí Người chơi cờ Việt Nam. Ông từng sưu tâm và cải biên hàng trăm thế cờ nổi tiếng của phương đông để giới thiệu với làng cờ tướng Việt Nam, góp phần không nhỏ cho phong trào cờ tướng của Hà Nội. Tuy nhiên, có một công trình nghiên cứu mà ông đang say mê theo đuổi, đó là việc sưu tẩm, các áng văn thơ cổ kim về để tài cờ tướng. Nhất là các bài thơ cờ của các bậc vua chúa ngày xưa và các vị lãnh tụ thời nay. Nào thơ của Hán Vũ Đế, thơ của Đường Thái Tông bên Trung quốc, thơ của Lê Thánh Tông, thơ của Hồ Chủ tịch ở Việt Nam. Nếu ai đó có cùng sở thích, xin hãy tìm đến ngôi nhà nhỏ của nhà thơ Ngô Linh Ngọc ở Khu tập thể Trường Đại học Bách khoa. Được hầu chuyện một người như ông, hẳn là ta có thể quên thời quên khắc.
Nhưng mà người Á Đông từng truyền tụng nhau câu danh ngôn cổ: "Rạp dẫu có dựng dài ngàn dặm, buổi tiệc nào là buổi tiệc không tan". Bất cứ một niềm đam mê nào cũng bao hàm một sự thái quá. Mà không phải sự thái quá nào cũng có thể được xã hội chấp nhận. Trong kho tàng sưu tầm của nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Linh Ngọc, có một chỉ dụ của vị Hoàng Đế họ Đinh nước Việt cách đây gần 10 thế kỷ về việc ra hình phạt với người quá ham mê đánh cờ mà bỏ bễ việc công. Cụ còn nhắc đến bài hịch tướng sĩ của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn với lời nhắc nhở phê bình quản sĩ chớ ham cờ tướng, chớ ham đá gà, chó ham đàn hát mà lơ là việc quân.
Tiến sĩ Nguyễn Viết Chức có một thời từng đảm đương vị thế quan chức đầu ngành của sở văn hóa thông tin Hà Nội. Cơ quan của ông đóng tại bờ hồ Gươm. Mỗi khi kết thúc giờ làm việc, ông thường quá bộ sang đường, tìm vào câu lạc bộ cờ Ngọc Sơn, nơi ông là hội viên không chính thức từ hàng chục năm nay. Cởi chiếc áo khoác, đặt chiếc máy điện thoại di động trước mặt, thế là ông chủ mục vào bản cờ với hai bên quân xanh, quân đỏ. Bạn cờ của ông có nhiều người là quan chức trong ngành tư tưởng văn hóa của trung ương và Hà Nội. Nhiều vị đã nghỉ hưu song không ít vị còn đương chức. Hôm ấy tôi trông thấy cả nhà thơ Vũ Duy Thông, vụ trưởng vụ báo chí của Ban văn hóá tư tưởng Trung ương và một vài nhân vật quen thuộc trong chính làng báo của chúng ta. Họ tìm đến cờ tướng để giải trí hay là để rèn luyện, hay là cả hai. Trong cương vị hiện thời, ông có thể nói gì đây về một thú vui chưa dễ được hiểu, được quan niệm một cách thuần nhất.


Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.


Nhưng ở độ tuổi của cụ ông Nguyễn Đắc Dần, tuổi ngót chín mươi thì một năm 365 ngày đều có thể coi là những ngày xuân, xuân bất tận và vui bất tận. Có thể lắm chứ, bởi ván cờ chính của cuộc đời, cụ đã hoàn thành trên mọi phương diện, tuy chẳng vẻ vang cao xa, nhưng cũng đủ để cháu con nể trọng, mến yêu. Hôm nay, vừa rời cuộc biểu diễn võ dân tộc ở câu lạc bộ người cao tuổi quận Cầu Giấy, cụ ông Nguyễn Đắc Dần lại cầm chiếc bình tưới cho mấy chậu địa lan trước khi thong thả ngồi vào bàn cờ tướng.
Nếu ai đó có lòng đến thăm cụ ở cửa hàng hoa cảnh Nhất Chi Mai, xin hãy nhớ đừng chúc cụ sống lâu trăm tuổi. Bởi cụ sẽ không bằng lòng đâu. Cụ vẫn nói rằng cụ còn có thể sống lâu hơn thế nữa kia. Hãy chờ mà xem. Ván cờ hay nhất của cụ còn đang ở phía trước.
Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng. Thân mến chào tạm biệt quý vị!

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ và dấu mốc những năm Tỵ

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ và dấu mốc những năm Tỵ

“Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ và dấu mốc những năm Tỵ” là nhan đề vài viết của Đại tá, Nhà báo Đỗ Phú Thọ, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Năm Ất Tỵ 2025 có khá nhiều sự kiện kỷ niệm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Năm Ất Tỵ 2025, nhân dân cả nước nói chung và ngành Công Thương nói riêng có khá nhiều sự kiện kỷ niệm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đặc biệt, nhiều sự kiện đã diễn ra vào những năm Tỵ.

Năm Ất Tỵ 2025 này có khá nhiều sự kiện kỷ niệm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Sự kiện đầu tiên ở trong những ngày đầu xuân Ất Tỵ, đó là kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2025) mà Bác Hồ chính là người sáng lập. Người là tác giả đầu tiên của Cương lĩnh thành lập Đảng: Chính cương, sách lược vắn tắt; Chương trình hành động vắn tắt, Điều lệ Đảng…, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng ta.

Nhiều người đều biết, Đảng ta ra đời vào mùa xuân Canh Ngọ. Thế nhưng có lẽ ít người biết rằng, để có sự kiện đặc biệt đó vào đầu xuân mới, trong năm Kỷ Tỵ 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều hoạt động nỗ lực cho việc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Thái Lan thì được tin Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội đang bị tan rã. Tháng 5/1929, Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội được tiến hành tại Hương Cảng, trong đại hội, vấn đề thành lập Đảng được thảo luận, nhưng không đi đến thống nhất, đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi đại hội về nước, đến ngày 17/6/1929 tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25/7/1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9/1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.

undefined
Chủ tịch Hồ Chí Minh

Những sự kiện trên phản ánh xu thế của cách mạng Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: Thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Cuối năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Thái Lan về Trung Quốc để chuẩn bị việc hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình chuẩn bị cho Hội nghị hợp nhất được bắt đầu từ ngày 6/1/1930 (tức ngày 7 tháng Chạp năm Kỷ Tỵ). Sau những buổi bàn luận kỹ càng, Người đã quyết định triệu tập Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Nhận được tin, các đoàn đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng lần lượt đến Hồng Kông vào những ngày giáp Tết. Hội nghị bắt đầu ngày mùng năm Tết Canh Ngọ (tức ngày 3/2/1930). Sau 5 ngày thảo luận sôi nổi và khẩn trương, Hội nghị đã nhất trí tán thành hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

11 năm sau sự kiện thành lập Đảng và 30 năm sau kể từ năm Bác Hồ từ bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, mùa Xuân Tân Tỵ (năm 1941), Người từ nước ngoài trở về Tổ quốc qua biên giới Việt - Trung, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Cùng năm 1941, vào tháng 5, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Hội nghị đã xác định rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của cách mạng Đông Dương. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên là Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, cách mạng Việt Nam chuyển hẳn sang một thời kỳ mới. Hơn 4 năm sau, Cách mạng Tháng Tám thành công, Tổng Khởi nghĩa thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Mùa xuân Quý Tỵ 1953, sau 8 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi, chuẩn bị bước vào giai đoạn tổng công kích 1953-1954. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Thơ chúc Tết xuân Quý Tỵ, 1953”. Bài thơ có đoạn: “Mừng năm Thìn vừa qua, / Mừng Xuân Tỵ đã tới. / Mừng phát động nông dân,/ Mừng hậu phương phấn khởi./ Mừng tiền tuyến toàn quân/ Thi đua chiến thắng mới. / Mừng toàn dân đoàn kết, / Mừng kháng chiến thắng lợi./ Mừng năm mới, nhiệm vụ mới,...”

Thơ chúc Tết của Bác như hồi kèn thúc giục toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lao vào trận tuyến để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vào năm sau (1954).

Mùa Xuân năm Ất Tỵ 1965, Bác Hồ bước vào tuổi 75 và bắt đầu suy nghĩ viết Di chúc để lại. Như thường lệ, Bác gửi thơ Xuân tặng đồng bào và chiến sĩ cả nước:

“Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới. / Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi. / Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi, / Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới, / Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi, / Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng, / Chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi! / Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!”

8 giờ 30 phút ngày mồng một Tết Ất Tỵ, Bác gặp mặt hơn 2 vạn đại biểu các dân tộc trong tỉnh Quảng Ninh để chúc mừng năm mới. Nhân dịp này, Người tặng quân và dân Quảng Ninh lá cờ thưởng luân lưu cho toàn ngành than và thiếp chúc Tết cho những đơn vị, cá nhân có thành tích.

Gần trưa mồng một Tết, Bác rời Hòn Gai tiếp tục đi chúc Tết nhân dân huyện Yên Hưng. Bác “xông đất” một số gia đình xã viên Hợp tác xã Khe Cát. Bác rất vui khi thấy trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng gia đình nào cũng có bánh mật, bánh chưng, chè Ba Đình và hoa đẹp. Bác thân mật chúc Tết các gia đình, gần gũi thân thương như một người ông đi xa trở về.

Đầu Xuân mới Ất Tỵ 2025 này, đọc lại Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có quyền tự hào báo cáo với Người rằng, ước nguyện của Người đã và đang được toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện. Đặc biệt, mùa Xuân này là dấu mốc quan trọng để dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới với mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” theo đúng ý nguyện của Bác trước lúc đi xa.

Bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên

Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên

“Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên" là nhan đề bài viết của tác giả Công Minh, Báo Công Thương xin được gửi đến quý vị khán giả trong chương trình Podcast ngày hôm nay.

Bài viết:

Lịch sử 95 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trưởng thành, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”.

Vai trò gương mẫu của đảng viên xuất phát từ vị trí hết sức quan trọng của đảng viên của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm; mọi nghị quyết, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do các đảng viên chấp hành, triển khai thực hiện. Người cũng nêu rõ mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng nhân dân.

Từ vai trò, vị trí quan trọng đó, đòi hỏi đảng viên phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, không được làm trái với nghĩa vụ đảng viên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ đảng viên”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh đến vấn đề kỷ luật Đảng, khẳng định sức mạnh vô địch của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam chính là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Đảng ta là một đảng cầm quyền, phải giữ gìn Đảng thật sự trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân và muốn được như vậy thì mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

undefined

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ sống còn của Đảng là phải không ngừng xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn có những chủ trương, giải pháp tích cực, hiệu quả để đảng viên thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình. Cụ thể: Đảng phải ra sức tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Trong Đảng phải luôn nghiêm chỉnh thực hành phê bình và tự phê bình, Đảng phải hoan nghênh, khuyến khích, tạo thuận lợi để quần chúng nhân dân thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phải thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt của chi bộ, giữ nghiêm minh kỷ luật của Đảng và thực hiện chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng.

Trước hết, đội ngũ đảng viên cần thật sự tự giác, rèn luyện phấn đấu cả trong lời nói cũng như việc làm, ở mọi lúc, mọi nơi, trở thành những gương sáng để quần chúng nhân dân noi theo. Từng đảng viên cần chú ý khi có thành tích, kết quả tốt thì không chủ quan, kiêu ngạo; khi có khuyết điểm thì phải thẳng thắn chỉ ra và tích cực sửa chữa, khắc phục để tiến bộ. Đặc biệt, hiện nay, nhiều cán bộ, đảng viên đã phát huy vai trò chủ động, tích cực tuyên truyền, vận động để gia đình, người thân cùng gương mẫu, làm tốt theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới.

Cùng với nỗ lực tự giác rèn luyện phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên thì rất cần sự vào cuộc, đồng hành, giúp đỡ của các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ sống còn của Đảng là phải không ngừng xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt. Người yêu cầu các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân “có cơ chế chính sách, quy định, cách làm phù hợp, tích cực, tạo thuận lợi, giúp đỡ, đồng hành cùng cán bộ, đảng viên trong tiên phong, gương mẫu. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc giúp đỡ cán bộ, đảng viên vượt qua sai phạm, khuyết điểm. Người nhắc nhở: “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”.

Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại tăng cường các hoạt động chống phá xuyên tạc về đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Chúng xuyên tạc, bịa đặt trên mạng xã hội rằng, đảng viên cộng sản đều hư hỏng, không chịu rèn luyện, phấn đấu, không còn uy tín với nhân dân. Thậm chí chúng còn trắng trợn, kích động, kêu gọi trên mạng xã hội: Cộng sản là thảm họa cần phải có vũ khí để chống lại…

Nhưng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân luôn hiểu rõ bản chất thâm độc, xấu xa của những kẻ xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, cán bộ, đảng viên vẫn làm tròn nghĩa vụ phẩm chất, đạo đức, uy tín của người đảng viên, vẫn giữ được uy tín trong nhân dân và quần chúng nhân dân vẫn vững vàng tin yêu, kiên định tiến lên trên con đường cách mạng tươi sáng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, nhân dân đã lựa chọn với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cán bộ, đảng viên đã và đang tiếp tục phấn đấu làm tốt trách nhiệm, nghĩa vụ, tình cảm của mình với Đảng, nhân dân, đất nước, theo tinh thần Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra: “Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần đặt lợi ích chung lên trên hết, mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, đột phá, dũng cảm hy sinh để đất nước phát triển”.

Nội dung Podcast của chúng tôi đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo.

Chương 6: Những cuộc chiến dầu mỏ: Sự trỗi dậy của Royal Dutch và sự suy vong của đế chế Nga

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo. Hành tung của anh được một nhân viên của Standard Oil ở Singapore nhanh chóng ghi lại và báo cáo về New York: "Một người đàn ông có tên Abrahams, nghe nói là một người cháu của M. Samuel, của… Xanh-đi-ca của nhà Samuel, từ London tới và ngay lập tức đi đến Kutei, nơi có tin đồn rằng nhà Samuel thuê được những khu vực rộng lớn có dầu. Vì Abrahams chính là người đã khởi đầu lĩnh vực kinh doanh dầu lửa trong các bể chứa ở Singapore và Penang, xây dựng nhà máy ở cả hai nơi này nên chuyến đi của anh ta tới Kutei có thể mang một ý nghĩa nào đó".

Quả thật là như vậy. Vì Mark Abrahams được các bác cử tới để khai thác mỏ dầu mà công ty dầu mỏ của nhà Samuel rất cần để duy trì địa vị, thậm chí là để bảo đảm sự sống còn. Trong vụ làm ăn này, Marcus Samuel bị đặt dưới áp lực của sự cưỡng bách vốn có trong lĩnh vực kinh doanh dầu lửa. Bất kỳ ai hoạt động trong ngành này cũng luôn đi tìm sự cân bằng. Khi đầu tư vào bộ phận này của dầu lửa, họ đồng thời phải đầu tư cả vào bộ phận khác để duy trì tính khả thi của khoản đầu tư trước đó. Muốn đầu tư của mình có giá trị, các nhà sản xuất cần thị trường.

Marcus Samuel từng nói: "Sản xuất ra dầu lửa đơn thuần hầu như chỉ đem lại giá trị thấp nhất và địa vị kém hấp dẫn nhất cho thứ nhiên liệu này. Phải tìm được thị trường. Trong khi đó, các hãng lọc dầu lại cần cả nguồn cung và thị trường, vì một nhà máy lọc dầu không được sử dụng thì cũng không hơn gì đống sắt thép phế liệu. Các công ty cần có dầu để mua và bán, nếu không, chắc chắn họ sẽ thua lỗ. Mức độ cấp thiết của những nhu cầu đó thay đổi tùy theo từng thời điểm, tuy nhiên tính cưỡng bách cơ bản thì lại là một hằng số của ngành công nghiệp.

Cuối thập niên 1890, với khoản tiền đầu tư khổng lồ vào tàu chở dầu và hệ thống kho chứa, Marcus Samuel rất cần một nguồn cung cấp dầu lâu dài. Là một thương gia, ông quá hiểu rõ điều này. Hợp đồng dầu lửa với nhà Rothschild sẽ hết hạn vào tháng 10 năm 1900. Liệu ông có thể hy vọng được gia hạn hợp đồng? Dù sao, mối quan hệ giữa ông và nhà Rothschild là một mối quan hệ không bền vững và luôn có khả năng những ông chủ nhà băng này quay sang thỏa thuận với Standard Oil. Ngoài ra, việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu lửa của Nga là rất nguy hiểm.

Samuel phàn nàn, cước phí vận tải ở Nga thay đổi tùy tiện khiến các nguyên lý kinh tế rối tung, biến ngành kinh doanh dầu lửa ở Nga thành một lĩnh vực "giật gấu vá vai" và "đẩy những ai buôn bán dầu lửa với nước này vào một vị thế bất lợi lớn so với các đối thủ Mỹ hùng mạnh". Ngoài ra, những mối nguy hiểm khác như: Sản lượng dầu lửa từ vùng Đông Ấn Hà Lan đang tăng lên, cùng với những quãng đường vận tải ngắn hơn và cước phí vận tải rẻ hơn, khiến Samuel gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng cạnh tranh ở vùng Viễn Đông.

Mặt khác, bất cứ lúc nào, Standard Oil cũng có thể huy động mọi nguồn lực để mở một cuộc chiến tổng lực nhằm hủy diệt Shell. Samuel hiểu một điều rất đơn giản rằng ông cần phải khai thác dầu, phải có dầu thô của chính ông để bảo vệ thị trường và những khoản đầu tư của mình – thực tế là, để bảo đảm sự sống còn của Shell. Tiểu sử của Samuel viết: "Trong cuộc săn tìm dầu lửa, ông chỉ còn thiếu nước hóa điên".

Rừng nhiệt đới

Năm 1895, nhờ những nỗ lực của một kỹ sư khai mỏ người Hà Lan đã có tuổi và bị ám ảnh bởi dầu lửa, người đã dành cả quãng đời trưởng thành của mình trong những khu rừng nhiệt đới ở Đông Ấn, Samuel đã thuê được một mỏ dầu ở khu vực Kutei thuộc Đông Borneo. Mỏ dầu này trải dài hơn 50 dặm dọc theo bờ biển và vươn sâu vào tận trong rừng. Khu rừng rậm rạp và xa xôi này chính là nơi Mark Abrahams được phái tới giám sát công việc khai thác dầu. Anh không hề có kinh nghiệm khoan tìm hay lọc dầu. Tuy anh đã tổ chức việc xây dựng các kho chứa dầu ở Viễn Đông, nhưng điều đó hầu như chẳng giúp được gì trong nhiệm vụ mới và khó khăn hơn nhiều. Sự thiếu kinh nghiệm của Mark Abrahams còn được phản chiếu trên một quy mô lớn hơn trong trường hợp của chính Marcus Samuel. Đó là cái cách ông làm kinh doanh – nỗi ác cảm với công việc tổ chức cũng như phương pháp phân tích và lên kế hoạch có hệ thống, cùng với sự thiếu hụt đội ngũ quản lý và nhân viên có năng lực – đã khiến công việc trong khu rừng nhiệt đới ở Borneo càng thêm khó khăn.

Những con tàu luôn đến sai giờ và chở thiết bị không đúng yêu cầu, thậm chí còn không có cả bảng kê khai hàng hóa. Hàng hóa được dỡ ngay xuống bãi biển, buộc các công nhân phải dừng mọi việc khác để tập hợp và xếp loại các thiết bị. Nhiều thiết bị được chở tới cuối cùng cũng bị vứt lay lắt cho đến khi hoen gỉ trên những bãi cỏ mọc cao. Thậm chí, không có sự điều hành lộn xộn và rời rạc từ London, công việc ở đây cũng đã vô cùng khó khăn. Borneo là một nơi xa xôi với thế giới bên ngoài, còn hơn cả Sumatra. Cảng gần nhất để lấy hàng tiếp tế và thiết bị cách đó một nghìn dặm, ở tận Singapore.

Con đường liên lạc duy nhất với Singapore là thông qua những con tàu lẻ loi đi ngang qua Borneo một hai tuần một lần. Các nhóm công nhân, bị chia ra trên những khu vực khác nhau của mỏ dầu, phải liên tục vật lộn với rừng rậm. Họ cố gắng lắm mới mở được một con đường dài bốn dặm để đi ngang qua khu rừng tới một nơi có dầu rỉ ra được gọi là Điểm Đen, nhưng chỉ trong vòng một vài tuần cây cối mọc rậm trở lại.

Về mặt nhân công, dự án phải phụ thuộc vào những người khuân vác đưa từ Trung Quốc sang vì các nhà tuyển người địa phương không mấy tha thiết với công việc này. Bệnh tật và những trận sốt liên tục tấn công những người làm việc trên các khu khai thác dầu. Thông thường, mỗi khi Abrahams ngồi dậy lúc nửa đêm để viết báo cáo gửi về nhà, chính anh cũng ở trong trạng thái nửa mê sảng vì sốt. Tỷ lệ tử vong của những người làm việc tại nơi này, gồm các công nhân Trung Quốc, các nhà quản lý châu Âu và thợ khoan Canada, rất cao. Một số người chết trên tàu, thậm chí trước khi họ tới nơi. Những mảnh gỗ mà họ cố gắng dùng để xây bất cứ thứ gì, dù là một ngôi nhà, một cây cầu hay một bức tường, đều nhanh chóng mục ruỗng.

undefined

Marcus Samuel.

"Những cơn mưa nhiệt đới nóng, ẩm, làm mục rữa và phá hủy mọi thứ" dai dẳng bám lấy họ. Một lần nữa, những người nhà Samuel ở London và Mark Abrahams ở Borneo bắt đầu trao đổi thư từ với những lời lẽ xỉ vả mạnh mẽ, đầy bão tố, như họ đã làm trong những ngày xây dựng các kho chứa dầu ở vùng Viễn Đông. Bất kể Abrahams làm việc gì và công việc đó khó nhọc và đáng nản đến mức nào, các ông bác của anh cũng không cảm thấy hài lòng. Họ không thể hiểu được thực trong khu rừng nhiệt đới này. Khi Marcus Samuel cằn nhằn rằng những ngôi nhà xây cho người châu Âu làm việc tại mỏ dầu là "những tòa biệt thự" sang trọng, trông giống như "hai khu nghỉ mát", Abrahams giận dữ đáp lại: "Những tòa biệt thự" của họ tạm bợ đến nỗi "một cơn gió mạnh hoặc trận mưa to có thể mang đi cả mái nhà. Những ngôi nhà ở đây chỉ thích hợp để nhốt lợn".

Tuy vậy, bất chấp tất cả, tháng 1 năm 1897, giếng dầu đầu tiên đã được phát hiện, và tới tháng 4 năm 1898, giếng dầu phun đầu tiên được tìm thấy. Tuy nhiên, từ chỗ phát hiện ra dầu đến sản xuất thương mại còn cần thêm nhiều nỗ lực. Ngoài ra, dầu thô Borneo lại có hàm lượng dầu hỏa thấp. Mặc dù vậy, khi chưa được lọc, loại dầu này có thể được dùng làm dầu nhiên liệu. Tính chất này của dầu thô nặng Borneo đã đặt nền móng cho một tầm nhìn mà sau này, Samuel luôn hăng hái theo đuổi. Ông gọi tầm nhìn này là "vai trò to lớn mà dầu lửa, ở dạng hợp lý nhất của nó, có thể nắm giữ, vai trò của năng lượng".

Khi thế kỷ XX đang đến gần, Samuel nhìn về phía trước để tiên toán, và đúng như vậy, trong tương lai vĩ đại của dầu lửa, đây sẽ không chỉ là một nguồn chiếu sáng mà còn là một nguồn năng lượng. Còn Marcus Samuel sẽ trở thành người đề xướng mạnh mẽ nhất việc chuyển tàu bè từ chạy than sang chạy dầu. Sự phát triển có tính chất lịch sử đó đã thật sự nhen nhóm vào những năm 1870, khi ostaki, tên gọi Nga của phần bã thừa trong quá trình lọc hóa lấy dầu hỏa, lần đầu tiên được sử dụng để chạy tàu trên biển Caspi thành công. Chính sự thúc bách về nguồn năng lượng đã làm nảy sinh phát minh này: Nga phải nhập khẩu than từ Anh với chi phí rất cao, còn củi lại rất hiếm hoi tại nhiều vùng của đế quốc này. Sau đó, những con tàu đi trên tuyến đường sắt mới xuyên Siberia bắt đầu sử dụng dầu nhiên liệu do công ty của Samuel cung cấp qua Vladivostok, thay vì dùng than hay củi. Hơn nữa, vào thập niên 1890, Chính phủ Nga cũng khuyến khích sử dụng dầu lửa làm nhiên liệu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung.

Tại Anh, trong một số trường hợp, ngành đường sắt cũng chuyển từ dùng than sang dùng dầu nhằm giảm lượng khói thải ra ở các khu vực đô thị hoặc vì những lý do an toàn đặc biệt, như khi chở các thành viên của gia đình hoàng tộc. Tuy nhiên, nhìn chung, than vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn vì trên thực tế, than là cơ sở cho ngành công nghiệp nặng ở Bắc Mỹ và châu Âu phát triển trên quy mô rộng. Than cũng là nhiên liệu cho các đội tàu thương mại và hải quân trên thế giới. Và tầm nhìn của Samuel vấp phải sự phản đối mạnh mẽ ngay trên phân đoạn thị trường mà ông quan tâm nhất – Hải quân Hoàng gia Anh. Ông đã bỏ ra hơn một thập kỷ tìm cách mở cánh cửa vào thị trường này, mà không thu được kết quả nào.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)

Kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 8 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà nam giới thiệu, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

CHƯƠNG 7: "NHỮNG TRÒ GIẢI TRÍ" Ở BA TƯ

Cuối năm 1900, Antoine Kitabgi, một tướng quân Ba Tư bảnh bao, đã tới Paris. Có lúc ông được cho là người gốc Armenia, lại có lúc được cho là người gốc Georgia, Kitabgi từng giữ nhiều vị trí trong Chính phủ Ba Tư, kể cả chức Tổng giám đốc Cục Hải quan. Một nhà ngoại giao Anh nói, Kitabgi "là người tinh thông các vấn đề phương Tây, có thể vạch ra một thỏa thuận hoặc đề xướng những hoạt động thương mại". Đó là những kỹ năng thích hợp cho nhiệm vụ của ông. Lý do bề ngoài của chuyến viếng thăm là lễ khai mạc Triển lãm Ba Tư ở Paris, nhưng mục đích chính của Kitabgi lại là tìm kiếm một nhà đầu tư ở châu Âu muốn thuê mỏ dầu ở Ba Tư. Kitabgi không chỉ phục vụ lợi ích của riêng mình – chắc chắn ông sẽ được đền đáp thỏa đáng – mà còn phục vụ cho lợi ích của Chính phủ Ba Tư. Trong những vấn đề rất hiển nhiên mà Chính phủ Ba Tư đang phải đối mặt, việc thiếu tiền trầm trọng.

Theo Thủ tướng Ba Tư thì nguyên nhân là do "tính hoang phí của Shah". Kết quả của những nỗ lực của tướng Kitabgi sẽ chứng minh đây là một vụ giao dịch có quy mô lớn nhất trong lịch sử. Mặc dù số phận của thỏa thuận này như ngàn cân treo sợi tóc trong vòng nhiều năm, nhưng nó sẽ mở ra kỷ nguyên dầu lửa ở Trung Đông và cuối cùng, đẩy khu vực này tới vị trí trung tâm của những bất đồng quốc tế về chính trị và kinh tế. Còn bản thân Ba Tư – hay Iran, như quốc gia này được biết tới từ năm 1935 trở đi – sẽ nổi lên với vị thế cao trên trường quốc tế, một vị thế chưa từng có kể từ thời kỳ đế quốc Ba Tư và Parthi cổ đại.

undefined
Mỏ dầu ở Ba Tư

"Một nhà tư bản hạng nhất"

Ở Paris, Kitabgi tìm sự giúp đỡ của một nhà ngoại giao Anh đã về hưu. Sau khi cân nhắc, ông ta báo cáo Kitabgi: "Tôi đã nói chuyện với một nhà tư bản hạng nhất về vấn đề dầu lửa. Ông ấy tuyên bố sẵn sàng xem xét chuyện này". Nhà tư bản đó là William Knox D’Arcy. Sinh năm 1849 ở Devon, nước Anh, D’Arcy nhập cư vào Australia và tại đây, ông trở thành luật sư tại một thị trấn nhỏ và nảy sinh niềm đam mê đặc biệt với môn đua ngựa. Với bản tính sẵn sàng nắm bắt cơ hội, D’Arcy đã tổ chức một nghiệp đoàn để đưa một mỏ vàng cũ trở lại hoạt động. Mỏ này hóa ra vẫn còn rất nhiều vàng, và sau đó, ông quay về Anh sống cuộc đời cực kỳ giàu có. Sau khi người vợ đầu tiên qua đời, ông cưới Nina Boucicault, một nữ diễn viên nổi tiếng, người có những thú tiêu khiển rất xa xỉ. Thậm chí, Enrico Caruso đã tới hát trong những bữa tiệc tối của đôi vợ chồng này. Ngoài ngôi nhà ở London, D’Arcy sở hữu hai điền trang ở ngoại ô và một trong hai lô riêng ở trường đua Epson – lô kia là của Hoàng gia Anh. Ông là một nhà đầu tư, một nhà đầu cơ, một nhà tổ chức các nghiệp đoàn, nhưng không phải là một nhà quản lý, và ông đang tìm kiếm một cơ hội đầu tư mới. Triển vọng về dầu lửa ở Ba Tư đã hấp dẫn D’Arcy. Lại một lần nữa, ông sẵn sàng chộp lấy cơ hội, và với việc nắm bắt cơ hội này, ông sẽ trở thành người sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa ở Trung Đông. Những khu vực có dầu ở Ba Tư đã được biết đến trong nhiều thế kỷ.

Ở đất nước này, dầu đã được sử dụng cho nhiều mục đích như chít thuyền và gắn các viên gạch. Năm 1872, rồi năm 1889, Nam tước Julius de Reuter, người sáng lập hãng tin Reuters, đã thuê được hai mỏ dầu ở Ba Tư. Tuy nhiên, việc làm đó đã gây ra sự chống đối lớn ở Ba Tư và Nga. Thêm vào đó, những nỗ lực tìm kiếm dầu cũng không thành công và gây ra nhiều lãng phí. Cuối cùng, hợp đồng thuê hai mỏ dầu này đã bị huỷ bỏ. Trong thập niên 1890, một nhà địa chất người Pháp bắt đầu xuất bản các báo cáo dựa trên nghiên cứu mở rộng của ông ở Ba Tư, cho thấy tiềm năng lớn về dầu lửa ở đây. Công trình của ông được nhiều người biết tới, trong đó có tướng Kitabgi, người rất muốn gài bẫy D’Arcy và hứa hẹn với nhà triệu phú này về một "nguồn của cải vô biên". Làm sao người ta có thể không quan tâm? Nhưng trước tiên cần phải giành được quyền thuê đất đã.

Ngày 25 tháng 3 năm 1901, đại diện của D’Arcy rời Paris, đi qua Baku và tới Tehran vào ngày 16 tháng 4. Các cuộc đàm phán tại thủ đô của Ba Tư diễn ra chậm chạp và liên tục đứt quãng nên lúc rảnh rỗi, đại diện của D’Arcy lại đi tìm mua những tấm thảm và hàng thêu. Nhà trung gian lâu năm Antoine Kitabgi thì bận rộn hơn. Theo công sứ Anh tại Ba Tư, ngài Arthur Hardinge, thì Kitabgi "bằng một cung cách rất chu đáo, tìm kiếm sự ủng hộ của tất cả các bộ trưởng và cận thần quan trọng của Shah. Thậm chí, Kitabgi còn không quên cả tay người hầu vẫn mang tẩu thuốc và cà phê sáng cho Shah".

Anh chống lại Nga

Trước đây, Ba Tư là đế quốc cổ đại dưới sự trị vì của Cyrus Đại đế và Darius I. Cho tới thế kỷ V, quốc gia này trải dài từ Ấn Độ tới khu vực ngày nay là Hy Lạp và Libya. Sau đó, đế quốc Parthia nổi lên trên khu vực Iran ngày nay và trở thành đối thủ đáng gờm của đế quốc La Mã. Ba Tư là một ngã tư lớn cho các hoạt động mậu dịch và các cuộc chinh phạt giữa châu Á và phương Tây. Từng làn sóng nối tiếp nhau của những đoàn quân và nhiều dân tộc đã đi qua nơi này, và từng định cư tại đây. Alexander Đại đế như cơn lốc quét tới từ phương Tây, Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ ào tới từ phương Đông.

Cuối thế kỷ XVIII, một vương triều tham lam mang tên Qajar đã giành được quyền kiểm soát một đất nước đã bị chia nhỏ thành các công quốc của những viên thủ lĩnh giành thắng lợi trong chiến tranh và những liên minh bộ tộc. Việc cai trị của các Shah Qajar trong một thế kỷ rưỡi diễn ra không dễ dàng. Vào thế kỷ XIX, một đất nước vốn quen với việc xâm lược các dân tộc khác nhận ra mình đang là đối tượng của một áp lực mới từ bên ngoài – cuộc cạnh tranh thương mại và ngoại giao giữa Nga và Anh để giành quyền thống trị Ba Tư. Điều này tất yếu khiến các Shah Qajar bận tâm, vì họ đang tìm cách làm cho hai cường quốc này chống lại nhau. Sự thù địch giữa Anh và Nga đã biến Ba Tư thành một vấn đề lớn trong chính sách đối ngoại của Anh. Ngài Curzon, toàn quyền Ấn Độ, coi Ba Tư là một trong những "mảnh ghép của một bàn cờ, nơi người ta đang chơi một ván cờ để giành quyền cai trị thế giới".

Đầu thập niên 1860, Nga bắt đầu nỗ lực mở rộng và thôn tính khu vực Trung Á. Quốc gia này còn vươn tầm ngắm qua Trung Á, tính tới chuyện kiểm soát các nước láng giềng và thôn tính được một cảng nước ấm. Đối với Anh, sự bành trướng của Nga là mối đe dọa trực tiếp đến Ấn Độ và những tuyến đường dẫn tới đây. Năm 1871, Bộ Ngoại giao Anh tuyên bố, bất kỳ nguồn lực nào giúp tăng cường sức mạnh của Ba Tư chống lại bước tiến của Nga cũng "có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ Ấn Độ". Nga đang trên đà mở rộng khắp khu vực. Năm 1885, Nga mở cuộc tấn công vào nước láng giềng Afghanistan và suýt làm nổ ra một cuộc chiến tranh giữa Nga và Anh. Cuối thế kỷ XIX, Nga lại tiếp tục gây áp lực với Ba Tư. Trong bối cảnh đó, Anh tìm cách duy trì nguyên trạng Ba Tư để làm một vùng đệm giữa Nga và Ấn Độ. Hai cường quốc đã tranh giành ảnh hưởng đối với Ba Tư thông qua những hợp đồng thuê đất, những khoản vay và các công cụ ngoại giao kinh tế khác. Tuy nhiên, khi bước sang thế kỷ mới, địa vị của Anh ở đây trở nên bấp bênh, vì Ba Tư dường như đã nằm trong vòng kiểm soát của Nga.

Trong khi nền kinh tế của Ba Tư đã hòa nhập đáng kể vào nền kinh tế Nga, Nga còn tìm cách xây dựng một căn cứ hải quân ở vịnh Ba Tư. Theo lời của vị công sứ người Anh Hardinge, Shah Muzaffar al-Din của Ba Tư "chỉ là một đứa trẻ lớn tuổi" và "bản thân chế độ quân chủ của Ba Tư đã già cỗi và bị quản lý yếu kém trong thời gian dài. Chế độ này có nguy cơ bị lật đổ ngay lập tức khi bất kỳ một cường quốc bên ngoài nào đưa ra mức giá cao nhất hoặc đe dọa lớn tiếng nhất đối với những kẻ cai trị đã thoái hóa và không còn khả năng tự vệ". Hardinge lo sợ rằng, cường quốc ấy rất có khả năng là nước Nga, vì "Shah và các bộ trưởng của ông ta đang ở trong tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào Nga, do sự phung phí liều lĩnh và hành động thiếu suy nghĩ của họ". Người Nga không quan tâm nhiều đến khía cạnh kinh tế của mối quan hệ này. Một quan chức Nga nói: "Chúng tôi được lợi gì khi buôn bán với bảy hay tám triệu kẻ nhếch nhác và lười biếng?". Thực tế, điều mà người Nga muốn là áp đặt quyền chi phối chính trị lên Ba Tư và gạt những cường quốc khác ra khỏi nước này.

Theo Hardinge, mục tiêu "quan trọng nhất" trong chính sách của Anh là chống lại một cuộc xâm nhập "đáng ghê tởm" vào Ba Tư. Đây chính là điều mà D’Arcy và kế hoạch kinh doanh dầu lửa của ông có thể hỗ trợ. Một hợp đồng thuê mỏ dầu cho người Anh sẽ góp phần lấy lại thế cân bằng với Nga. Vì thế, Anh đã ủng hộ vụ làm ăn của D’Arcy. Khi phát hiện ra cuộc đàm phán thuê mỏ dầu, viên công sứ Nga nổi giận, tìm cách cản trở và đã thành công trong việc kéo dài quá trình đàm phán. Tuy nhiên, đại diện của D’Arcy đã đặt thêm 5.000 bảng nữa lên bàn đàm phán, vì theo những gì mà người này báo cáo với D’Arcy, "Shah muốn có ngay một ít tiền và đòi có tiền thì mới ký hợp đồng". Số tiền đưa thêm đó đã có tác dụng, và ngày 28 tháng 5 năm 1901, Shah Muzaffar al-Din đã ký vào bản hợp đồng. Hợp đồng này đem lại cho nhà vua 20.000 bảng tiền mặt, một số cổ phiếu trị giá 20.000 bảng, và 16% của "lợi nhuận ròng hàng năm". Đổi lại, D’Arcy có được quyền khai thác mỏ dầu trong vòng 60 năm, trên khắp 3/4 diện tích của Ba Tư. Từ đầu, D’Arcy đã có chủ ý loại ra khỏi hợp đồng thuê mỏ mà ông đề xuất năm tỉnh ở phía bắc của Ba Tư, những nơi gần nước Nga nhất, để "không làm phật ý người Nga". Tuy nhiên, sự đối địch giữa Anh và Nga khó có thể chấm dứt. Lúc này, Nga đang tìm cách xây dựng một đường ống dẫn dầu từ Baku tới vịnh Ba Tư, không chỉ để tăng cường xuất khẩu dầu mỏ vào thị trường Ấn Độ và châu Á, mà quan trọng hơn, để mở rộng ảnh hưởng chiến lược của Nga ở Ba Tư, trên khắp Vùng Vịnh và tới những khu vực bờ biển của Ấn Độ Dương. Người Anh kịch liệt phản đối dự án này.

Công sứ Anh tại Tehran, Hardinge cảnh báo rằng, việc cho phép xây dựng đường ống "lố bịch" này, thậm chí cả khi đường ống đó không bao giờ được xây dựng, sẽ "là cái cớ để các nhà khảo sát, kỹ sư và biệt đội bảo vệ của bọn Cô-dắc lan tràn khắp khu vực phía nam của Ba Tư, chuẩn bị cho sự chiếm đóng quân sự trá hình". Sự phản đối của Anh đã thành công, tuyến đường ống đó đã không được xây dựng. Đại diện của D’Arcy ở Tehran cảm thấy hồ hởi về thỏa thuận đã đạt được. Chương trình này sẽ không chỉ đem lại lợi ích cho D’Arcy mà còn "có ảnh hưởng rộng rãi, cả về mặt thương mại và chính trị cho nước Anh và không thể không tăng cường mạnh mẽ ảnh hưởng của nước Anh ở Ba Tư". Mặc dù từ chối gánh lấy bất kỳ trách nhiệm trực tiếp nào, Bộ Ngoại giao Anh cũng sẵn sàng hỗ trợ cho những nỗ lực của D’Arcy. Tuy nhiên, người có mặt trực tiếp ở Ba Tư là Hardinge lại tỏ ra hoài nghi. Ông biết rõ về Ba Tư – hệ thống chính trị, con người, những khó khăn lớn về địa lý và hậu cần, cũng như thực tế chẳng có gì hứa hẹn của những hợp đồng khai thác dầu lửa gần đây ở nước này. Ông cảnh báo: "Cho dù có dầu ở Ba Tư hay không, trong những năm qua, đã có quá nhiều kế hoạch triển vọng tái tạo thương mại và chính trị ở đây bị đổ vỡ. Việc dự báo tương lai của dự án mới nhất này có thể là điều quá vội vàng".

Theo lời một nhà sử học, kế hoạch của D’Arcy là "cuộc phiêu lưu trải rộng trên một vùng đất xa xôi và khó lường". Vậy điều gì đã lôi kéo D’Arcy vào một dự án kinh doanh mạo hiểm đến như vậy? Tất nhiên, câu trả lời ở đây là sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của sự giàu có khôn xuể và cơ hội trở thành một Rockefeller mới. Ngoài ra, trước đó, D’Arcy cũng từng mạo hiểm với mỏ vàng ở Australia và thành công rực rỡ. Tuy nhiên, nếu D’Arcy có thể dự đoán chính xác điều gì đang đợi mình ở phía trước, hẳn là ông đã dừng vụ làm ăn mạo hiểm này. Đây là một canh bạc lớn, lớn hơn rất nhiều so với dự án mỏ vàng ở Australia của D’Arcy, với nhiều người chơi hơn so với những gì ông dự tính. Đồng thời, nó cũng có mức độ phức tạp chính trị và xã hội hoàn toàn không hề tồn tại ở Australia. Tóm lại, đây không phải là một vụ làm ăn bình thường. Thậm chí, cả những tính toán chi phí cũng được nói giảm đi rất nhiều. Ban đầu, D’Arcy được cố vấn rằng sẽ phải mất 10.000 bảng để khoan hai giếng dầu nhưng thực tế là trong vòng bốn năm, ông phải bỏ ra tới hơn 200.000 bảng.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Huyền ảo ngôi đền lưu giữ hồn thiêng Phố Hiến

Huyền ảo ngôi đền lưu giữ hồn thiêng Phố Hiến

“Huyền ảo ngôi đền lưu giữ hồn thiêng Phố Hiến”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài Podcast của tác giả Thanh Thảo. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Giữa lòng Phố Hiến cổ kính, nơi từng được ví như “tiểu Tràng An” một thuở, có một ngôi đền trầm mặc soi bóng bên hồ Bán Nguyệt - đó là đền Mẫu Hưng Yên.

Hơn bảy thế kỷ trôi qua, ngôi đền không chỉ là chốn linh thiêng thờ Dương Thiên Hậu - vị thần bảo hộ cho cư dân vùng này, mà còn là biểu tượng cho văn hóa tâm linh của người Việt. Mỗi dịp xuân về, từng dòng người lại tấp nập tìm đến, mang theo những mong ước, những lời nguyện cầu gửi vào làn khói trầm vấn vít, như một cách kết nối với cội nguồn và gửi gắm niềm tin vào tương lai. Đền Mẫu không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là nơi lắng đọng những giá trị tinh thần qua bao thế hệ, là chứng nhân cho sự giao thoa giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và thần linh.

Hồn dân tộc trong mái đền thiêng

Mùa xuân về trên Phố Hiến. Sáng sớm, sương vẫn còn vương nhẹ trên những mái ngói rêu phong của đền Mẫu. Hơi thở của mùa xuân len lỏi qua từng khóm cây, đang vươn mình đâm chồi nảy lộc ven mặt hồ bán nguyệt, nơi bóng đền soi xuống làn nước yên ả. Hưng Yên bước vào những ngày đầu năm trong tiết trời se lạnh nhưng lòng người lại rộn ràng với những mong ước, khát vọng mới.

Con đường dẫn vào đền Mẫu hôm nay đông hơn thường lệ. Những tà áo dài thướt tha xen lẫn áo ấm mùa đông, tay ai cũng nâng niu những bó hoa, lễ vật gói ghém lòng thành. Những bậc cao niên thong thả đi từng bước, miệng khẽ ngân nga câu khấn. Các đôi vợ chồng trẻ dắt theo con nhỏ, vừa hướng dẫn con cách vái lạy, vừa dạy con đạo lý uống nước nhớ nguồn. Không khí vừa trang nghiêm, vừa ấm áp, quyện trong hương trầm ngan ngát.

undefined

Đền Mẫu mê hoặc lòng người bởi vẻ cổ kính và huyền bí

Đền Mẫu Hưng Yên, còn gọi là Hoa Dương Linh Từ, là nơi thờ Dương Quý Phi - vợ của vua Tống Đế Bính. Chuyện kể rằng, khi nhà Tống sụp đổ, bà cùng đoàn người chạy loạn đến Phố Hiến, rồi hóa Thánh tại đây. Người dân thương kính, lập đền thờ, phong bà là Dương Thiên Hậu, phù hộ độ trì cho bách tính. Từ đó, đền trở thành một trong những địa điểm linh thiêng bậc nhất của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Những hoa văn chạm trổ trên cột gỗ, những bức hoành phi, câu đối đỏ thắm vẫn mang dấu ấn của thời gian. Trải qua bao thăng trầm, đền Mẫu vẫn đứng đó, trầm mặc mà bao dung, lắng nghe mọi ước nguyện của người đời.

Lễ hội lớn nhất của đền diễn ra vào tháng ba âm lịch, nhưng ngay từ đầu năm, người dân đã tìm về để cầu tài, cầu lộc, cầu bình an. Người buôn bán mong một năm phát đạt, người nông dân cầu cho mưa thuận gió hòa, người trẻ cầu duyên, người già mong sức khỏe dồi dào. Lòng tin ấy như một sợi dây vô hình kết nối bao thế hệ, để mỗi dịp đầu xuân, người ta lại tìm về nương tựa nơi cửa đền.

Tục gieo quẻ đầu năm tại đền Mẫu

Trong những nghi thức tâm linh quan trọng khi ghé thăm đền Mẫu Hưng Yên, tục gieo quẻ đầu năm là một nét đẹp văn hóa được nhiều người thực hiện với lòng thành kính. Sau khi dâng hương, cầu nguyện trước ban thờ, nhiều người đi lễ thường đến khu vực xin gieo quẻ, nơi có những ống thẻ nhỏ chứa đựng lời tiên tri về vận trình trong năm mới.

Nghi thức gieo quẻ diễn ra trong không gian tĩnh lặng, mỗi người cầm lấy ống quẻ, chắp tay khấn nguyện rồi nhẹ nhàng lắc cho đến khi một thẻ rơi ra. Trên mỗi thẻ có khắc một con số, tương ứng với những lời sấm truyền được ghi chép cẩn thận trong sách quẻ của đền. Các vị sư hoặc thủ nhang trong đền sẽ giúp giải nghĩa từng lời quẻ, đưa ra những lời chỉ dẫn về công danh, sự nghiệp, tình duyên hay sức khỏe.

Nhiều người tin rằng, gieo quẻ không chỉ để biết trước điều gì sẽ đến, mà còn để hiểu được những điều cần chú trọng, những bài học mà “số mệnh” muốn gửi gắm. Một quẻ tốt sẽ mang lại niềm vui, sự vững tin; hoặc nếu như gặp phải một quẻ xấu lại giúp người ta biết cách cẩn trọng, tu tâm dưỡng tính, mong ước sẽ bình an, hóa giải điều không hay.

Tục lệ gieo quẻ khi đến thăm viếng đền Mẫu lâu nay đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong văn hóa đi lễ đầu năm của người dân Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung. Với mỗi quẻ gieo, lòng người nhẹ đi một nỗi lo, thêm một niềm tin vững vàng để bước vào năm mới với sự an yên và thanh thản.

Hương xuân còn mãi

Trời đã gần trưa, nắng lên dịu nhẹ, trải một lớp óng vàng lên sân đền. Tiếng chuông ngân vang giữa không gian thanh tịnh. Dòng người vẫn tiếp tục ra vào, ai cũng mang theo một niềm tin, một mong ước.

Trên tay một bà cụ là bó hương còn ấm, bà chậm rãi bước ra cổng đền, nở một nụ cười hiền hậu. Khi được hỏi cầu gì đầu năm, bà khẽ đáp: Cầu cho con cháu bình an, đất nước yên vui / Chỉ vậy thôi mà ai ai cũng hạnh phúc. Hay “Mùa xuân rồi sẽ qua, nhưng lòng thành vẫn còn mãi”.

Giữa dòng chảy bất tận của thời gian, đền Mẫu vẫn lặng lẽ đứng đó, soi bóng xuống mặt hồ bán nguyệt, đón bao thế hệ tìm về với lòng thành kính. Người ta đến đây để cầu may mắn, để xin một quẻ đầu năm, nhưng hơn hết, để lắng lại giữa những ồn ào của cuộc sống, tìm về cội nguồn và vun đắp niềm tin vào những điều tốt đẹp. Mùa xuân rồi sẽ qua, nhang trầm rồi sẽ tàn, nhưng những ước nguyện gửi gắm nơi mái đền thiêng sẽ theo người đi suốt cả chặng đường phía trước - như một lời nhắc nhở về lòng thành, về niềm tin và về sự an yên trong tâm hồn.

Và đúng vậy, đền Mẫu - Hưng Yên không chỉ là nơi để thăm quan, viếng vọng, mà còn là nơi để mỗi người tìm thấy sự an yên, sâu lắng trong tâm hồn. Để rồi khi rời đi, ai cũng mang theo một chút hương xuân, một chút niềm tin, và một lời hẹn sẽ quay trở lại vào mùa xuân năm sau./.

Kính thưa quý vị, bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6), kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 6 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà Nam (giới thiệu), kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị.

CHƯƠNG 5: SÁT THỦ GIẾT RỒNG

"Ngôi nhà cổ" đang bị vây hãm. Standard Oil không thể đánh bại các đối thủ thương mại của nó tại Mỹ cũng như trên thế giới. Ngoài ra, một cuộc chiến chính trị và pháp lý đang diễn ra trên khắp nước Mỹ nhằm chống lại Standard Oil và các hành vi kinh doanh tàn nhẫn của công ty này. Đây không phải là một thử thách mới, Rockefeller và các đối tác của ông đã bị chỉ trích và phỉ báng ngay từ những ngày đầu xây dựng tờ-rớt dầu lửa Standard.

Các lãnh đạo công ty không bao giờ thật sự hiểu được sự chỉ trích đó. Họ nghĩ rằng, đó là chính sách mị dân rẻ tiền, sự ghen tị dốt nát và một cách nài xin đặc biệt. Họ tin chắc rằng, trong cuộc theo đuổi không ngừng nghỉ những lợi ích của bản thân và sự giàu có, Standard Oil không chỉ ngăn chặn được tai họa của "tình trạng cạnh tranh không kiểm soát", mà công ty này có lẽ còn là, theo lời của chính Rockefeller, "những người dựng xây" vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tuy nhiên, đó không phải là cách nhìn nhận của phần đông dư luận.

Những người phê phán Standard chỉ nhìn thấy một doanh nghiệp hùng mạnh, xảo quyệt, thô bạo, kiên cố, xâm nhập vào mọi ngóc ngách, và rất bí hiểm. Công ty này không chịu trách nhiệm trước một ai, trừ một vài vị giám đốc ngạo mạn, và dùng sự tàn bạo để cố gắng tiêu diệt những ai cản đường nó. Quan điểm này là một phần bối cảnh của thời kỳ đó. Sự lớn mạnh của Standard Oil không diễn ra tách biệt với những gì xung quanh. Đó là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ trong vài thập niên cuối thế kỷ XIX.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị. Mỗi tờ-rớt ngồi chễm chệ trên một ngành công nghiệp và nhiều tờ-rớt có các nhà đầu tư và giám đốc đan xen lẫn nhau. Sự thay đổi nhanh chóng này là một hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ đối với nhiều người Mỹ.

Khi thế kỷ XIX kết thúc và thế kỷ XX mở ra, họ trông chờ chính phủ lập lại sự cạnh tranh, kiểm soát những hành vi bất lương và chế ngự sức mạnh kinh tế cũng như chính trị của các tờ-rớt, những con rồng to lớn và đáng sợ đang gầm rú quá tự do trên khắp đất nước. Dữ tợn và đáng sợ nhất trong số những con rồng này chính là Standard Oil.

undefined
Rockefeller

Công ty mẹ

Những cuộc tấn công pháp lý chống Standard bắt đầu được nối lại từ các bang, với các vụ kiện chống độc quyền do bang Ohio và Texas khởi tố. Tại Kansas, thống đốc bang đưa ra kế hoạch xây dựng một nhà máy lọc dầu do bang sở hữu với công nhân làm việc tại đó là các phạm nhân đang cải tạo và công ty này sẽ cạnh tranh với Standard Oil. Có ít nhất bảy bang khác, cùng với vùng lãnh thổ Oklahoma, tiến hành các hành động pháp lý chống lại Standard ở dạng này hay dạng khác. Tuy nhiên, Standard chưa hề tỏ ra e ngại trước sự chống đối toàn diện của dân chúng đối với các hành vi kinh doanh của mình.

Năm 1888, trong một lá thư gửi cho Rockefeller, một lãnh đạo của Standard Oil viết: "Tôi cho rằng, cơn sốt chống tờ‑rớt này là sự loạn trí. Chúng ta nên nghiêm túc đối mặt với điều này và tránh mọi câu hỏi bằng những câu trả lời né tránh sự thật trong khi vẫn hết sức chân thực". Standard tiếp tục giữ bí mật tất cả kế hoạch của mình. Khi đứng trước tòa trong một vụ kiện mà bang Ohio là nguyên đơn, Rockefeller kín miệng đến nỗi, một tờ báo của New York đã giật tít: "John D. Rockefeller là một con hến". Để huy động mọi nguồn lực cần thiết cho cuộc chiến đang đến gần, Standard thuê một luật sư giỏi nhất và đắt giá nhất. Công ty này cũng tìm cách gây ảnh hưởng chính trị, đóng góp đúng lúc cho các hoạt động chính trị.

Khi đóng góp cho Đảng cộng hòa ở bang Ohio, Rockefeller viết: "Những người bạn của chúng tôi thật sự cảm thấy chúng tôi chưa nhận được sự đối xử bình đẳng từ Đảng Cộng hòa. Nhưng chúng tôi kỳ vọng những điều tốt đẹp hơn trong tương lai". Tuy nhiên, Standard Oil không dừng lại ở những khoản đóng góp như thế. Công ty ký hợp đồng thuê nghị sĩ Đảng Cộng hòa của bang Ohio làm luật sư cho mình khi cần, với mức phí riêng trong năm 1900 là 44.500 đô-la. Công ty còn cho một nghị sĩ rất có ảnh hưởng của Texas, được coi là "thủ lĩnh dân chủ ưu tú nhất tại Mỹ" vay tiền để thanh toán cho vụ mua lại một điền trang rộng 6.000 acre ở gần Dallas.

Ngoài ra, công ty quảng cáo mà Standard Oil thuê, trong quá trình mua lại vị trí quảng cáo trên các tờ báo, đã cho đăng những bài báo có nội dung liên quan đến Standard Oil. "Ngôi nhà cổ" cũng thành lập hoặc thôn tính "những con hổ mù", tức những công ty nhìn từ ngoài vào thì đúng là những nhà phân phối độc lập, nhưng sự thật thì không. Chẳng hạn, năm 1901, một công ty kinh doanh dầu lửa có tên Republic Oil được thành lập ở bang Missouri. Công ty này giương cao những lời quảng cáo như: "Không tờ-rớt", "Không độc quyền" và "Hoàn toàn độc lập". Tuy vậy, nó vẫn bí mật gửi báo cáo lên số 75 đường New Street ở New York, một cửa sau của số 26 đường Broadway.

Mặc dù một số bang đã giành được những chiến thắng tạm thời trước Standard, nhưng rốt cục không bang nào thành công trong các cuộc tấn công Standard. Ví dụ, sau khi các công ty con của Standard Oil bị trục xuất khỏi Texas và tài sản của họ bị chính phủ quản lý, tòa án đã tổ chức một buổi bán lại các tài sản này ở khách sạn Driskill tại Austin. Nhưng thực tế, họ bán lại những tài sản này cho người của Standard Oil. Mặc dù vậy, các cuộc tấn công pháp lý này cũng buộc Standard Oil phải có những thay đổi nhất định trong tổ chức của công ty. Năm 1892, theo quyết định của tòa án ở Ohio, tờ-rớt này bị giải thể và cổ phiếu của nó được chuyển giao cho 20 công ty. Tuy nhiên, quyền kiểm soát vẫn nằm trong tay những chủ sở hữu ban đầu. Các công ty này tập hợp lại với nhau thành "Những nhóm tư bản Standard Oil".

Trong tổ chức mới này, Ban Điều hành tại 26 Broadway được chuyển thành một cuộc gặp gỡ thân mật giữa các chủ tịch của các công ty thành viên khác nhau tạo thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Thư từ không còn được đề địa chỉ gửi tới Ban Điều hành nữa, mà chỉ là "các quý ngài tầng trên". Tuy nhiên, "các quý ông này" không lấy làm vui mừng với việc tổ chức lại tờ-rớt của họ thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Việc tiếp tục bảo vệ là cần thiết trong bối cảnh các áp lực vẫn tiếp diễn và để tạo cho công ty nền móng pháp lý vững chắc hơn. Họ tìm thấy giải pháp cho những vấn đề của mình ở New Jersey. Pháp luật của bang này đã được sửa đổi, cho phép việc thành lập các công ty mẹ –các công ty có thể sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp khác. Đây là một thay đổi có tính chất quyết định trong luật doanh nghiệp truyền thống ở nước Mỹ. New Jersey cũng nỗ lực trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn cho hình thức hợp nhất mới này.

Do đó, năm 1899, ban lãnh đạo của "Những nhóm tư bản Standard Oil" đã thành lập Standard Oil của New Jersey, một công ty mẹ cho toàn bộ hoạt động của họ. Giá trị vốn hóa của công ty này tăng từ 10 triệu đô-la lên 110 triệu đô-la và công ty nắm giữ cổ phần trong 41 công ty khác. Những công ty con này lại nắm quyền kiểm soát những công ty khác nữa, và những công ty bên dưới này còn tiếp tục quản lý những công ty nhỏ hơn. Trong suốt thời gian này, tại Standard Oil còn diễn ra một thay đổi lớn khác. Sau khi tích luỹ được một khối tài sản khổng lồ, John Rockefeller cảm thấy mệt mỏi và bắt đầu lên kế hoạch nghỉ hưu. Mặc dù Rockefeller mới 55 tuổi song những căng thẳng công việc liên tục và từ những cuộc tấn công nhằm vào ông và Standard Oil đã bắt đầu ảnh hưởng tới sức khỏe của ông. Từ sau năm 1890, Rockefeller thường phàn nàn về hệ tiêu hóa của mình. Ông nói rằng mình đang bị hành hạ và luôn đặt một khẩu súng lục cạnh giường khi đi ngủ.

Năm 1893, Rockefeller mắc chứng rụng tóc, một căn bệnh liên quan đến sự căng thẳng tâm lý, và phải đối phó với nó bằng mũ chỏm hay tóc giả. Kế hoạch nghỉ hưu của ông tạm thời bị trì hoãn do một loạt các cuộc khủng hoảng – thời kỳ Suy thoái nghiêm trọng của kinh tế Mỹ năm 1893 và tiếp đó là cuộc đại khủng hoảng, rồi cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, vai trò của Rockefeller cũng bắt đầu giảm dần và cuối cùng, năm 1897, khi chưa tới 60 tuổi, ông nghỉ hưu, chuyển giao quyền lãnh đạo John D. Archbold.

Người kế nhiệm: Nhân vật hăng hái trong ngành dầu lửa

Không ai nghi ngờ việc John Archbold kế nhiệm Rockefeller. Hơn bất kỳ nhà lãnh đạo cấp cao nào của Standard, ông là chuyên gia trong mọi lĩnh vực của ngành công nghiệp dầu lửa. Ông là một trong những nhân vật quyền lực nhất trong ngành dầu lửa tại Mỹ trong suốt hai thập kỷ trước đó. Và trong hai thập kỷ tiếp theo, có lẽ ông chính là nhân vật quyền lực nhất. Với dáng người thấp và vẻ bề ngoài trẻ hơn tuổi, Archbold là một người đầy ý chí và không biết đến mỏi mệt. Ông luôn hăng hái "đi tới cùng" và cống hiến hết mình cho những yêu cầu và tính đúng đắn của sự nghiệp mà ông theo đuổi.

Trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống năm 1860, khi còn là một cậu bé, ông đã đi bán những tấm huy hiệu in hình các ứng cử viên. Mặc dù anh trai ông bán tại một khu vực thuận lợi hơn, nhưng Archbold vẫn bán được nhiều huy hiệu hơn. Năm 15 tuổi, Archbold một mình lên chuyến tàu từ Salem, bang Ohio tìm kiếm vận may trong lĩnh vực dầu lửa ở Titusville. Ban đầu, ông làm thư ký cho một công ty vận tải biển với mức lương còm cõi đến nỗi ông phải ngủ trên một chiếc giường kê dưới quầy thu ngân ở văn phòng. Sau đó, Archbold trở thành nhà môi giới dầu lửa năng động và bị cuốn vào "sự hăng hái về dầu" trong suốt cuộc đời. Lòng nhiệt tình đó vô cùng cần thiết trong bối cảnh lộn xộn của Vùng đất dầu.

Một đối tác nhớ lại người môi giới dầu lửa trẻ tuổi này: "Khi đó, công việc hàng ngày của ông ấy thật vất vả. Trên những đường phố chính của Titusville luôn bao phủ một lớp bùn lẫn dầu dày khoảng 30 cm. Xung quanh những giếng dầu dọc theo Dòng sông Dầu, tình trạng cũng tương tự, thậm chí có lúc bùn còn lên đến ngang đùi. Nhưng John Archbold chẳng để ý đến điều đó. Ông vẫn cứ lội qua những con đường lầy lội đó, hát ngân nga khi sắp mua được dầu hoặc đang dự tính đến việc đó". Ngoài công việc, Archbold không có thú vui nào khác. Ông học cách sử dụng khiếu hài hước để giải tỏa những tình huống căng thẳng và điều này trở thành vũ khí lợi hại nhất của ông trong những cuộc tranh cãi và xung đột. Rất lâu sau, khi được hỏi có phải Standard Oil chỉ quan tâm đến những lợi ích của riêng mình hay không, ông trả lời khô khan: "Chúng tôi không phải lúc nào cũng là nhà từ thiện".

Ông cũng học được cách nhìn nhận các sự kiện, dù phức tạp đến đâu, theo chiều hướng phát triển. Ông biết cách khiến mình trở nên hữu ích với người khác – đặc biệt là John D. Rockefeller – và thể hiện cho họ thấy điều đó. Rockefeller sớm để mắt đến Archbold. Năm 1871, trong khi làm thủ tục đăng ký tại một khách sạn ở Titusville, Rockefeller đã nhìn thấy chữ ký của một nhà môi giới và lọc hóa dầu trẻ tuổi, với nội dung "John D. Archbold, 4 đô-la/thùng". Rất ấn tượng trước cách quảng cáo tự tin như vậy, vào một thời điểm mà người ta không thể mua dầu với mức giá gần con số này, Rockefeller đã ghi lại thông tin đặc biệt này. Là một nhà hoạt động, Archbold trở thành thư ký Sàn giao dịch dầu lửa Titusville.

Trong vụ Công ty South Improvement và Chiến tranh dầu lửa năm 1872, khi Rockefeller và các công ty đường ray tìm cách kiểm soát độc quyền sản lượng dầu lửa, ông nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của Vùng đất dầu, và tố cáo Rockefeller bằng những lời lẽ gay gắt nhất. Tuy nhiên, Rockefeller đã nhận ra một người nắm giữ những nguyên tắc cơ bản của Vùng đất dầu, một người cống hiến hết mình cho ngành công nghiệp dầu lửa, người vừa có thể hung hăng, tàn nhẫn, lại vừa có thể linh hoạt và có khả năng thích nghi. Điều này đã được chứng minh chắc chắn khi vào năm 1875, Rockefeller mời Archbold làm việc cho Standard và ông nhanh chóng nhận lời.

Nhiệm vụ đầu tiên của Archbold là bí mật mua lại tất cả các nhà máy lọc dầu dọc theo Dòng sông dầu. Ông nhận nhiệm vụ này với quyết tâm cao nhất. Chỉ trong vài tháng, ông đã mua hoặc thuê lại 50 nhà máy lọc dầu, và làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe suy sụp nghiêm trọng. Archbold nhanh chóng thăng tiến lên nấc thang lãnh đạo cao nhất của Standard Oil. Tuy nhiên, Archbold vẫn phải giải quyết một trở ngại lớn với Rockefeller, trở ngại mà ông gọi là "nhược điểm không may" của mình. Ông rất mê đồ uống có cồn, nhưng Rockefeller nhất quyết yêu cầu ông ký vào bản cam kết không uống rượu và phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Archbold đã làm điều mà Rockefeller muốn. Khi 50 tuổi, ông đã là một nhân vật kỳ cựu có thâm niên hơn ba thập kỷ trong ngành dầu lửa hoạt động. Đem thế mạnh và kinh nghiệm của mình vào vị trí mới, Archbold là nhân vật số một tại Standard. Mặc dù vẫn giữ liên lạc với trụ sở 26 Broadway, nhưng kể từ khi nghỉ hưu, Rockefeller dành toàn bộ thời gian cho các điền trang, làm từ thiện, chơi golf và quản lý khối tài sản ngày càng lớn của mình.

Trong khoảng thời gian từ năm 1893 tới năm 1901, Standard Oil đã trả cổ tức trị giá hơn 250 triệu đô-la. Phần lớn số tiền này thuộc về sáu người và Rockefeller giữ 1/4. Viết về núi tiền mà Standard bỏ ra này, một tác giả chuyên về các vấn đề tài chính nhận định, công ty này giống như "một ngân hàng thật sự của người khổng lồ vĩ đại nhất – một ngân hàng trong một cơ sở công nghiệp, cung cấp tài chính cho cơ sở đó trong cuộc cạnh tranh với mọi đối thủ". Sau khi ngừng tham gia điều hành công ty, sức khỏe Rockefeller đã hồi phục.

Năm 1909, bác sĩ dự đoán ông sẽ thọ tới 100 tuổi vì ông đã thực hiện ba nguyên tắc đơn giản: "Thứ nhất, tránh mọi lo lắng. Thứ hai, thường xuyên tập thể dục ở ngoài trời. Thứ ba, rời bàn ăn khi còn hơi đói". Rockefeller vẫn theo kịp diễn biến tình hình ở Standard, nhưng ông không tham gia quản lý công ty. Archbold cũng không cho ông làm điều đó. Archbold thường tới thăm Rockefeller vào các buổi sáng thứ bảy để thảo luận về hoạt động của Standard Oil. Rockefeller vẫn giữ danh hiệu chủ tịch công ty và điều này dẫn tới những đánh giá sai lầm về vai trò của Rockefeller trong thời kỳ này. Theo chính sách tuyệt đối bí mật của Standard, việc Rockefeller nghỉ hưu hoàn toàn được giữ kín, và như thế, Rockefeller vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với bất kỳ việc gì công ty này làm.

Bởi vậy, ông vẫn là trung tâm của mọi sự chỉ trích, mọi lời xúc phạm và mọi cuộc công kích. Vậy tại sao ông vẫn giữ danh hiệu chủ tịch? Có thể các cộng sự của ông nghĩ rằng cái tên Rockefeller khiến người ta phải nể sợ, là cần thiết để duy trì sự thống nhất của đế chế Standard. Cũng có thể đó là kết quả của lòng kính trọng mà Rockefeller được hưởng nhờ cổ phần mà ông nắm giữ trong công ty? Vài năm sau, một trong số những giám đốc cao cấp của công ty là H. H. Rogers đã đưa ra một lý do tương đối khác: "Chúng tôi nói với Rockefeller rằng ông ấy phải giữ danh hiệu này. Các vụ kiện chống lại chúng tôi vẫn đang treo ở tòa án. Và chúng tôi bảo ông ấy rằng, nếu bất cứ ai trong chúng tôi phải ra tòa, ông ấy sẽ phải đi cùng!"

undefined

Gia đình Rockefeller

"Sự kiện nóng bỏng"

Cuối thế kỷ XIX, cuộc tấn công nhằm vào Standard Oil ngày càng mạnh mẽ. Một tinh thần cải cách mới và mạnh mẽ là thuyết tiến bộ đang phát triển tại nước Mỹ. Những mục tiêu chính của thuyết này là cải cách chính trị, bảo vệ người tiêu dùng, thực hiện công bằng xã hội, cải thiện điều kiện làm việc, và kiểm soát cũng như điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp lớn. Mục tiêu sau cùng này đã trở thành một vấn đề cấp bách trong bối cảnh làn sóng hợp nhất lớn quét qua khắp nước Mỹ, với số lượng các tờ-rớt tăng lên nhanh chóng. Tờ-rớt đầu tiên tại quốc gia này là Standard Oil được thành lập năm 1882. Tuy nhiên, phong trào hợp nhất thật sự tăng tốc vào thập niên 1890.

Theo thống kê có 82 tờ-rớt với tổng giá trị vốn hóa là 1,2 tỷ đô-la được thành lập trước năm 1898. Từ năm 1898 đến năm 1904, có thêm 234 tờ-rớt được thành lập, với tổng giá trị vốn hóa hơn 6 tỷ đô-la. Theo quan điểm của một số người, tờ-rớt, hay sự độc quyền, chính là thành tựu lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Đối với những người khác, đây là sự đồi bại của một hệ thống đang đe dọa không chỉ giai cấp công nhân và nông dân, mà còn đe dọa cả tầng lớp trung lưu và giới doanh nhân, những người lo sợ bị tước đi các quyền lợi kinh tế.

Năm 1899, việc chống tờ-rớt được mô tả là "trận chiến lớn về đạo đức, xã hội và chính trị mà toàn bộ giới công đoàn phải đối mặt". Các tờ-rớt là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1900. Không lâu sau khi đắc cử, Tổng thống William McKinley nói với thư ký của ông rằng: "Vấn đề tờ-rớt phải được giải quyết sớm và nghiêm túc". Henry Demarest Lloyd, một trong số những người đầu tiên tham gia giải quyết vấn đề này, đã công kích quyết liệt Standard Oil bằng một cuốn sách có tựa đề Wealth again common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) xuất bản năm 1894.

Sau ông, một nhóm các nhà báo can đảm bắt đầu điều tra và công bố những hành vi mờ ám trong xã hội. Họ được gọi là "những người cào bùn" và trở thành trung tâm của phong trào tiến bộ. Một nhà sử học nhận định: "Thành tựu quan trọng cơ bản của thuyết tiến bộ ở Mỹ là việc vạch trần cái xấu". Tờ tạp chí khởi động cho toàn bộ chiến dịch cào bùn này có tên là McClure’s. Đây là một trong những ấn phẩm định kỳ hàng đầu ở Mỹ có số lượng phát hành lên tới hàng trăm nghìn bản. Chủ bút của McClure’s, Samuel McCluelà một người có tính khí thất thường, cởi mở và giàu trí tưởng tượng. Ông tập hợp được một đội ngũ phóng viên, biên tập viên tài năng về New York, và họ rất hăng hái tìm kiếm một đề tài lớn.

Năm 1899, trong bức thư gửi cho một trong số những người này, McClue viết: "Nhân vật lớn chính là các tờ-rớt. Đó sẽ là sự kiện nóng bỏng. Và tờ tạp chí có những bài viết về các giai đoạn khác nhau của chủ đề mà độc giả muốn biết này chắc chắn sẽ có lượng phát hành lớn". Các biên tập viên của tạp chí này quyết định tập trung vào một tờ‑rớt cụ thể để phản ánh quá trình hợp nhất. Nhưng sẽ là tờ-rớt nào? Họ bàn tới tờ-rớt Đường cũng như tờ-rớt Thịt bò, nhưng rồi lại gạt cả hai tờ-rớt này sang một bên.

Sau đó, một phóng viên đề xuất việc phát hiện dầu ở bang California nhưng thư ký tòa soạn Ida Tarbell không đồng ý. Bà nói: "Chúng ta phải vạch ra một kế hoạch tấn công mới. Trong đó, không chỉ cho thấy rõ tầm ảnh hưởng của các doanh nghiệp và sự phát triển thương mại cũng như những thay đổi mà họ tạo ra trên nhiều vùng khác nhau của đất nước, mà còn cho thấy rõ những nguyên tắc lớn mà các nhà lãnh đạo công nghiệp áp dụng để hợp nhất và kiểm soát những doanh nghiệp này".

"Bà bạn" của Rockefeller

Tại thời điểm đó, Ida Minerva Tarbell đã trở thành nữ nhà báo lớn đầu tiên của Mỹ. Người phụ nữ cao hơn 1,8 mét này có vẻ ngoài trang nghiêm và lạnh lùng đầy uy lực. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng Allegheny, bà tới Paris để viết tiểu sử của Roland, một nữ lãnh đạo của cuộc Cách mạng Pháp, người đã phải bước lên máy chém. Tarbell cống hiến tất cả cho sự nghiệp và không kết hôn, mặc dù về sau này, bà trở thành một người chủ trì các buổi lễ trong đời sống gia đình và phản đối việc phụ nữ đi bầu cử.

Đầu thế kỷ XX, ở tuổi 45, bà đã là một tác giả nổi tiếng với những cuốn tiểu sử rất thông dụng nhưng công phu về Napoleon và Lincoln. Phong cách và vẻ bề ngoài của Tarbell khiến bà trông có vẻ già trước tuổi. Một biên tập viên nữ của tờ McClue’s nhớ lại: "Một đặc điểm lớn của bà ấy là khiến mọi người cảm thấy khó gần. Đối với những người bình thường, có vẻ như bà ấy chẳng biết làm dáng chút nào". Sau khi McClue’s đã chắc chắn về chủ đề các tờ-rớt, Tarbell mới tính đến chuyện đảm trách nhiệm vụ điều tra của riêng bà. Mục tiêu của bà hiển nhiên là ông tổ của các tờ-rớt, John D. Rockefeller.

Được sự chấp thuận của ông chủ bút, bà bắt đầu một nghiên cứu mà rồi cuối cùng sẽ lật đổ Standard Oil. Cuộc đời luôn có những điều trớ trêu, và cuốn sách ra đời từ nghiên cứu của Tarbell sẽ là hành động báo thù cuối cùng của Vùng đất Dầu dành cho những kẻ chinh phục nơi này. Vì Ida Tarbell lớn lên trong những cộng đồng phát triển bùng nổ rồi lại vỡ tung của Vùng đất dầu. Cha của bà, Frank Tarbell, kinh doanh lĩnh vực sản xuất thùng chứa chỉ vài tháng sau khi Drake phát hiện ra dầu.

Trong thập niên 1880, ông làm ăn khá tốt và gây dựng được cơ ngơi tại thị trấn Pithole, nơi hoạt động khai thác dầu bùng nổ. Khi mỏ dầu đột ngột cạn và thị trấn nhỏ bé nhưng nhộn nhịp này tới hồi tiêu vong, ông bỏ 600 đô-la mua lại khách sạn hàng đầu trong thị trấn vừa mới được xây với giá 60.000 đô-la. Sau đó, ông phá khách sạn này và chất lên xe ngựa những cửa sổ kiểu Pháp, những cánh cửa đẹp, những bộ phận bằng gỗ và rầm thép, chở tới Titusville cách đó 10 dặm để xây một ngôi nhà mới xinh xắn cho gia đình.

undefined

Ida Minerva Tarbell

Thời thơ ấu của Ida Tarbell trôi qua trong ngôi nhà đó. (Sau này, bà đã nghĩ tới việc viết một câu chuyện về Pithole – "không có gì kịch tính bằng lịch sử dầu lửa của Pithole", bà nói.) Năm 1872, Frank Tarbell liên minh với các công ty sản xuất dầu lửa độc lập ở Vùng đất dầu chống lại South Improvement. Sau đó, cũng giống như nhiều người khác vùng đất này, công việc làm ăn của ông bị sự phát triển của Standard Oil chèn ép. Sau đó, anh trai của Ida Tarbell là William trở thành một trong những người đứng đầu Công ty Pure Oil và thành lập bộ phận phát triển thị trường tại Đức. Từ người cha và anh trai, Tarbell đã hiểu được tính bấp bênh của hoạt động kinh doanh dầu lửa, một công việc mà như William nói cũng giống như "đánh bạc".

Năm 1896, ông viết: "Tôi thường ước mình được làm trong một công ty khác, và nếu tôi làm cho công ty đó trở nên giàu có, tôi sẽ giữ vững sự giàu có đó". Tarbell vẫn nhớ những gian nguy và khó khăn tài chính mà cha bà phải trải qua – ngôi nhà bị đem cầm cố, cảm giác về sự thất bại, cảnh đơn thương độc mã rõ ràng trong cuộc chiến chống lại Con bạch tuộc, nỗi cay đắng và sự chia rẽ giữa những người thỏa thuận với Standard Oil và những ai không chịu làm như vậy. "Đừng làm việc đó, Ida", người cha già của Tarbell khẩn khoản nói với con gái khi biết bà đang điều tra về Standard Oil cho McClue’s. "Họ sẽ hủy diệt tờ báo đấy".

Một buổi tối, trong bữa tiệc do Alexander Graham Bell tổ chức ở Washington, vị phó chủ tịch của một ngân hàng liên kết với Rockefeller đưa Tarbell đi cùng. Có vẻ như ông này đang lịch sự đe dọa về chính điều mà cha Tarbell cảnh báo trước đó khi đưa ra câu hỏi về tình hình tài chính của tờ McClue’s. Tarbell sẽ không dừng lại. Là một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi và luôn suy nghĩ thấu đáo, bà trở thành một thám tử say mê và bị cuốn hút vào vụ việc của mình, với niềm tin mình sẽ có được một câu chuyện tuyệt vời. Người trợ lý Tarbell cử xuống những khu phố nhỏ ở Cleveland tìm gặp những người có trí nhớ tốt đã viết về cho bà: "Tôi muốn nói với bà điều này, John D. Rockefeller là nhân vật kỳ lạ nhất, kín miệng nhất, bí hiểm nhất và thú vị nhất ở Mỹ. Người dân vùng này không biết gì về ông ta cả. Một nghiên cứu về nhân vật khác thường này sẽ là con át chủ bài cho McClue’s". Và Tarbell muốn chơi con bài đó. Nhưng làm thế nào Tarbell tiếp cận trực tiếp được Standard?

Một người mà Tarbell không ngờ tới đã hỗ trợ bà − đó là H. H. Rogers. Sau John Archbold, Rogers là giám đốc thâm niên lâu nhất và quyền lực nhất của Standard Oil, đồng thời cũng là một nhà đầu cơ độc lập xuất chúng. Ông phụ trách lĩnh vực đường ống và khí tự nhiên của Standard. Tuy nhiên, Rogers không chỉ quan tâm đến kinh doanh. Ông còn có đóng góp đáng kể cho nền văn học Mỹ. Trước đó một thập kỷ, ông từng giúp Mark Twain thoát khỏi khó khăn tài chính suýt dẫn tới vỡ nợ. Sau đó, ông trở thành bạn thân của Mark Twain, quản lý tài sản và đầu tư tiền cho Mark Twain để nhà văn nổi tiếng này, như lời ông nói, "không còn phải lo lắng về tài chính nữa". Rogers yêu thích các tác phẩm của Mark Twain và thường đọc chúng cho vợ con nghe. Tuy nhiên, trong kinh doanh, Rogers là một người rất cứng rắn và lạnh lùng.

Trong cuốn Who’s Who (Ai là ai), ông tự liệt mình vào hàng "tư bản". Những người khác gọi ông là "Rogers, kẻ đê tiện" vì những vụ đầu cơ vào phố Wall của ông. Rogers cho rằng Rockefeller không ủng hộ ông vì, theo như ông nói, ông là "một con bạc bẩm sinh". Và quả thực, mỗi khi thị trường chứng khoán đóng cửa vào cuối tuần, không có việc gì để làm, Rogers lại chơi bài poker. Chính Mark Twain đề nghị Rogers hỗ trợ chi phí học tập cho Helen Keller, một cô gái bị mù và điếc, để cô có thể tới Radcliffe. Bản thân Mark Twain luôn biết ơn Rogers, và gọi Rogers không chỉ là "người bạn tốt nhất mà tôi từng có", mà còn là "người tốt nhất tôi từng biết". Trớ trêu thay, trong thời kỳ làm nghề xuất bản sách, Mark Twain từng được đề nghị xuất bản cuốn sách Wealth against common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) của Demarest Lloyd.

Trong lá thư gửi vợ, ông viết: "Anh muốn nói rằng, người đàn ông duy nhất mà anh quan tâm trên thế giới này, người đàn ông duy nhất đã hào phóng đổ cả mồ hôi và máu của mình để cứu anh và người thân của anh khỏi chết đói và sự hổ thẹn, lại là một con quỷ của Standard Oil… Nhưng anh đã không nói như vậy. Anh chỉ nói rằng anh không muốn làm bất kỳ cuốn sách nào nữa; anh muốn từ bỏ việc xuất bản sách". Mark Twain tùy thích ra vào văn phòng của Rogers tại số 26 Broadway và thỉnh thoảng, ông còn dùng bữa trưa với "các quý ông tầng trên" trong phòng ăn riêng của họ.

Một ngày nọ, Rogers đề cập đến chuyện ông có nghe về việc McClue’s đang chuẩn bị xuất bản một cuốn sách về Standard Oil và đề nghị Mark Twain tìm hiểu thực hư việc đó ra sao. Vì cũng quen biết với McClue, Mark Twain đã nhận lời. Cuối cùng, Mark Twain sắp xếp cho Ida Tarbell gặp Rogers vào tháng 1 năm 1902. Tarbell cảm thấy e dè khi phải đối mặt trực tiếp với ông trùm quyền lực của Standard Oil. Tuy nhiên, Rogers đã dành cho bà sự tiếp đón nồng hậu. Ngay lập tức, Tarbell khẳng định, "trên mọi phương diện" Rogers chính là "nhân vật đẹp trai nhất và đạo mạo nhất ở phố Wall". Họ nhanh chóng thiết lập một mối quan hệ đặc biệt, vì hóa ra, khi Tarbell còn nhỏ, hai người không chỉ sống cùng thị trấn tại Vùng đất dầu, mà nhà máy lọc dầu nhỏ của Rogers khi đó còn nằm ở triền đồi ngay bên dưới nhà Tarbell.

Rogers kể với Tarbell rằng, hồi ấy ông sống trong một ngôi nhà thuê, mà vào thời điểm đó, việc thuê nhà để ở đồng nghĩa với "sự thú nhận thất bại trong làm ăn" để có thể có thêm tiền mua cổ phiếu của Standard Oil. Rogers nói ông vẫn còn nhớ rõ về cha Tarbell và tấm biển "Cửa hàng thùng Tarbell". Ông còn nói đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất của ông. Có thể Rogers đã thể hiện cảm xúc chân thành song cũng có thể ông là một nhà tâm lý giỏi. Ông mê hoặc được Ida Tarbell. Nhiều năm sau, Tarbell vẫn thân mật gọi ông là "tên cướp biển đẹp trai với lá cờ mãi tung bay trên phố Wall".

Hai năm sau đó, Tarbell và Rogers thường xuyên gặp gỡ. Bà thường được đưa vào gặp ông qua một cửa và đi ra bằng một cửa khác, vì chính sách của công ty là cấm khách tới thăm chạm mặt nhau. Thỉnh thoảng, Tarbell thậm chí còn được sắp xếp một bàn làm việc ở số 26 Broadway. Bà vẫn đem các hồ sơ tới cho Rogers và ông lại cung cấp cho bà các tài liệu, số liệu, những điều chỉnh và giải thích. Rogers tỏ ra thật thà với Tarbell tới mức đáng ngạc nhiên.

Chẳng hạn, vào một ngày mùa đông, Tarbell mạnh dạn hỏi ông, Standard đã "thao túng pháp luật" bằng cách nào. "Ồ, dĩ nhiên là chúng tôi phải chăm sóc các cơ quan pháp luật rồi!" ông trả lời. "Họ tới đây và đề nghị chúng tôi đóng góp vào các quỹ phục vụ chiến dịch bầu cử của họ. Và chúng tôi làm điều này – Đó là, với tư cách cá nhân… chúng tôi cho tay vào túi và đưa cho họ vài món tiền lớn cho mục đích vận động tranh cử, rồi đến khi một đạo luật chống lại lợi ích của chúng tôi sắp ra đời, chúng tôi tới gặp nhà quản lý và nói: "Có một đạo luật như thế, như thế sắp sửa được ban hành đấy. Chúng tôi không thích thế và muốn ông quan tâm đến lợi ích của chúng tôi". Đó là cách mà mọi người vẫn làm".

Tại sao Rogers lại sẵn lòng giúp đỡ Tarbell như vậy? Một vài người cho rằng, đó là cách ông trả thù Rockefeller, người có mối quan hệ bất hòa với ông. Bản thân Rogers lại có cách giải thích thực tế hơn. Ông nói, tác phẩm của Tarbell "sẽ được coi là tác phẩm cuối cùng về Standard Oil," và dù thế nào Tarbell cũng sẽ viết tác phẩm này nên ông muốn làm mọi thứ có thể để câu chuyện về công ty được "hiểu đúng". Thậm chí, Rogers còn sắp xếp cho Tarbell gặp Henry Flagler, người đang chìm đắm trong hoạt động khai thác dầu quy mô lớn do chính ông làm chủ tại Florida. Tarbell phát cáu khi Flagler chỉ nói với giọng đạo đức giả rằng: "Chúng tôi giàu lên được là nhờ Chúa". Rogers cũng nói chung chung rằng ông có thể sẽ sắp xếp một cuộc phỏng vấn với Rockefeller, nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra. Rogers cũng không giải thích nguyên nhân.

Tarbell nói với một đồng nghiệp rằng, mục tiêu của bà là viết được "một câu chuyện lịch sử về Standard Oil". Bà "không có dự định" viết một câu chuyện "gây tranh cãi, mà là một bản tường thuật đi thẳng vào công ty độc quyền khổng lồ này, với sự sinh động và kịch tính mà tôi có thể tạo ra". Tự hào về những thành tựu của bản thân cũng như về công ty của mình, chắc hẳn Rogers cũng có cảm tưởng như vậy. Cho dù dự định ban đầu của Tarbell là gì đi nữa, thì loạt bài viết bắt đầu xuất hiện trên tờ McClue’s vào tháng 11 năm 1902 thực sự là một quả bom tấn.

Tháng này sang tháng khác, bà tung ra câu chuyện về những mưu đồ và hành vi thao túng, về việc hạ giá và sự cạnh tranh tàn bạo, về một Standard chỉ mỗi một ý đồ duy nhất và cuộc chiến bất tận mà công ty này giáng xuống đầu những công ty độc lập vốn đã mang đầy thương tích. Những bài báo này trở thành chủ đề bàn luận trên khắp cả nước và mở ra cánh cửa cho những nhà cung cấp tin tức mới. Sau một vài tháng đầu, Tarbell trở về Titusville thăm gia đình. Bà nói: "Thật thú vị khi thấy mọi việc đang diễn ra tốt đẹp và con vẫn chưa bị bắt cóc hay kiện ra tòa vì tội phỉ báng như một vài người bạn dự đoán. Mọi người sẵn sàng nói chuyện thoải mái với con". Ngay cả Rogers, bất chấp tất cả, vẫn dành cho Tarbell sự tiếp đón thân mật.

Nhưng sau đó, khi bà công bố một bài viết tiết lộ thông tin về cách thức hoạt động của hệ thống tình báo của Standard Oil thì Rogers nổi giận. Ông cắt đứt quan hệ và từ chối gặp bà. Tarbell vẫn không hề hối hận về những gì đã viết. Sau này, bà có nói, chính "sự sáng tỏ của những hoạt động gián điệp này… khiến tôi căm ghét Standard". Vì "có một sự đê hèn dường như vô cùng đáng khinh bỉ khi đem so sánh với những tài năng lớn gia nhập tổ chức này. Không một điều gì khác về Standard lại khiến tôi có cảm giác như vậy". Và chính cảm giác đó tạo cho các bài viết vạch trần những hành vi của Standard của Tarbell sức công phá mạnh mẽ.

Loạt bài của Tarbell được đăng liên tục trong 24 tháng và sau đó, vào tháng 11 năm 1904, được xuất bản thành một cuốn sách có tựa đề The History of Standard Oil Company (Lịch sử Công ty Standard Oil), với 64 phụ lục. Tác phẩm này có nội dung rất rõ ràng và có sức thuyết phục lớn. Tuy nhiên, ẩn dưới một văn phong được kiềm chế chính là sự giận dữ mãnh liệt và lời buộc tội sâu sắc đối với Rockefeller và những hành vi tàn bạo của tờ-rớt này.

Theo Tarbell, mặc dù có nhiều cống hiến thể hiện rõ những nguyên tắc xử thế của người Cơ đốc giáo, Rockefeller vẫn là một nhân vật tàn bạo, phi nhân tính. Bà viết: "Rockefeller đã chơi có hệ thống bằng một con xúc xắc gài bẫy, và từ năm 1872 chưa lần nào ông ta xuất phát công bằng trong cuộc đua với một đối thủ". Việc xuất bản cuốn sách của Ida Tarbell là một sự kiện lớn. Một nhà báo miêu tả cuốn sách lịch sử này là "tác phẩm xuất sắc nhất nước Mỹ về đề tài này". Samuel McClue nói với Tarbell: "Nói chung, bây giờ bà đã là người phụ nữ nổi tiếng ở Mỹ rồi… Đâu đâu người ta cũng nói về bà với sự sùng kính đến nỗi tôi đang cảm thấy e sợ bà đấy". Sau đó, từ châu Âu, McClue cho hay, thậm chí ngay cả những tờ báo ở đại lục này cũng "liên tục nhắc đến tác phẩm của bà".

Mãi tới thập niên 1950, các nhà sử học nghiên cứu về Standard Oil, những người vốn có thái độ không mấy thân thiện với cuốn sách của Tarbell, mới tuyên bố: "có lẽ cuốn sách này được nhiều người mua và nội dung của nó phổ biến rộng rãi trong công chúng hơn bất kỳ tác phẩm nào về lịch sử kinh tế và kinh doanh của nước Mỹ". Rõ ràng, đây là cuốn sách có ảnh hưởng nhất về chủ đề kinh doanh từng được xuất bản ở Mỹ. Tarbell giải thích: "Tôi không bao giờ phản đối quy mô và sự thịnh vượng của Standard, cũng như không bao giờ phản đối hình thức doanh nghiệp của họ. Tôi cũng cho rằng họ nên hợp nhất, phát triển lớn mạnh và giàu có ở mức họ có thể, nhưng chỉ bằng những cách thức hợp pháp. Tuy nhiên, họ chưa bao giờ chơi công bằng và điều đó đã hủy hoại sự vĩ đại của họ trong tôi". Tuy vậy, Ida Tarbell vẫn chưa thỏa mãn.

Năm 1905, bà tiếp tục theo đuổi đề tài này bằng cuộc tấn công cuối cùng – dựng lên một bức chân dung của Rockefeller. Người viết tiểu sử của Tarbell viết: "Bà phát hiện ông ta bị rụng tóc, có những cục u và là con trai của một người buôn dầu lửa xảo quyệt". Quả thực, Tarbell đã lấy hình dáng bên ngoài, bao gồm cả chứng rụng tóc do sức khỏe kém gây ra của Rockefeller để mô tả sự xuống cấp về đạo đức trong con người ông. Có lẽ, đó là sự báo thù cuối cùng của một người con gái thật sự của Vùng đất dầu. Vì khi Tarbell đang hoàn thành bài báo cuối cùng, cha bà, một nhà kinh doanh dầu lửa độc lập từng chống lại Rockefeller và bị đánh bại, qua đời ở Titusville.

Ngay khi kết thúc bài báo, bà vội vã trở về nhà, đến bên giường người cha quá cố. Vậy Rockefeller phản ứng thế nào? Khi những bài báo của Tarbell được xuất bản, một người hàng xóm già ghé thăm ông trùm dầu lửa đã đề cập tới nhân vật mà ông gọi là "bà bạn" của Rockefeller – Ida Tarbell. Rockefeller trả lời: "Tôi nói cho ông biết nhé, mọi thứ đã thay đổi kể từ khi ông và tôi còn là những đứa trẻ. Thế giới đầy những người xã hội chủ nghĩa và những người theo chủ trương vô chính phủ. Bất kỳ ai có được thành công lớn trong một lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ bị họ nhảy bổ vào chê bai".

Sau đó, người hàng xóm trên đã gọi quan điểm của Rockefeller là quan điểm "của một chiến binh trong trận chiến, biết rằng thỉnh thoảng mình sẽ bị đánh vào đầu. Ông ấy không phải là người ít chịu đau đớn nhất vì bất kỳ đòn tấn công nào. Ông ấy vẫn cho rằng Standard làm được nhiều việc tốt hơn là những việc xấu". Vào dịp khác, có người tình cờ nghe thấy Rockefeller nói về "bà bạn" với cái tên thân mật – "Cô Thùng nhựa đường".

Bom phá tờ-rớt

Tarbell hoàn toàn không phải là một người xã hội chủ nghĩa. Nếu có một cương lĩnh cho cuộc tấn công của bà vào Standard Oil thì đó chính là lời kêu gọi tìm kiếm một lực lượng đối kháng để chống lại sức mạnh của doanh nghiệp này. Đối với Theodore Roosevelt, người trở thành Tổng thống Mỹ năm 1901, lực lượng đối kháng này chỉ có thể là Chính phủ. Theodore Roosevelt là hiện thân của phong trào tiến bộ. Ông là Tổng thống Mỹ trẻ tuổi nhất tính đến thời điểm đó, một con người luôn tràn đầy sinh lực và lòng nhiệt tình. Người ta gọi ông là "ngôi sao băng của thời đại". Sau cuộc gặp gỡ với Roosevelt, một nhà báo viết: "Anh hãy bộc lộ cá tính của mình".

Roosevelt theo đuổi sự nghiệp cải cách trên mọi phương diện, từ việc làm trung gian cho cuộc chiến tranh Nga – Nhật tới việc thúc đẩy cách viết chính tả đơn giản. Với việc thứ nhất, ông được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1906. Còn với việc thứ hai, cũng trong năm 1906, ông vận động Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ thích nghi với 300 cách viết giản tiện của những từ quen thuộc – ví dụ, viết "dropt" thay vì viết "dropped". Tòa án tối cao không chấp nhận những cách viết như vậy trong các văn bản luật, nhưng Roosevelt vẫn kiên quyết sử dụng cách viết này trong thư từ cá nhân của ông.

Chính Roosevelt là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "người cào bùn" để chỉ các nhà báo và phong trào tiến bộ. Ông dùng từ này với nghĩa chế giễu vì cho rằng, những cuộc tấn công của họ vào các chính trị gia và các công ty là quá tiêu cực và quá tập trung vào "mặt xấu xa và việc hạ thấp" những đối tượng đó. Ông lo ngại những bài viết của các nhà báo này sẽ làm bùng lên ngọn lửa cách mạng và cuốn mọi người vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa vô chính phủ. Tuy nhiên, ông đã sớm lấy chương trình hành động của họ làm chương trình của mình – bao gồm việc chỉnh đốn các công ty đường sắt và ngành công nghiệp đóng gói thịt đang trong tình trạng khủng khiếp, cũng như bảo vệ các nhà sản xuất thực phẩm và dược phẩm.

Trọng tâm trong chương trình của Roosevelt là kiểm soát sức mạnh của các doanh nghiệp và mục tiêu này khiến ông có biệt danh là "Bom phá tờ-rớt". Ông không phản đối bản thân các tờ-rớt. Thực tế, ông coi việc hợp nhất là đặc điểm tất yếu và logic của sự tiến bộ kinh tế. Roosevelt từng cho rằng, việc dùng pháp luật để chống lại xu thế hợp nhất khó hơn cả việc chống đỡ những trận lụt vào mùa xuân trên sông Missisippi. Tuy nhiên, vị tổng thống này cũng nói: "Chúng ta có thể điều chỉnh và kiểm soát chúng bằng những con đê," có nghĩa là, bằng các quy định và giám sát của dư luận. Theo ông, việc cải cách như vậy rất quan trọng để tránh chủ nghĩa cấp tiến và cách mạng và duy trì hệ thống hiện tại của nước Mỹ. Roosevelt có sự phân biệt giữa tờ-rớt "tốt" và tờ-rớt "xấu", và chỉ những tờ-rớt "xấu" mới đáng bị giải thể. Trong sự nghiệp này, ông không bao giờ chịu dừng lại. Dưới thời Roosevelt có ít nhất 45 vụ kiện chống độc quyền.

Những trận chiến tiếp theo chĩa mũi nhọn chính vào, ông tổ của các tờ-rớt - Standard Oil. Công ty của Rockefeller trở thành con rồng mà hiệp sĩ dũng mãnh Roosevelt thích tấn công vì không có đối thủ nào tuyệt vời hơn cho trận đấu. Mặc dù vậy, Roosevelt vẫn tìm kiếm sự ủng hộ của khu vực doanh nghiệp lớn trong chiến dịch bầu cử của ông năm 1904, và ban lãnh đạo của Standard Oil đã cố gắng chìa tay ra với ông. Khi một nghị sĩ có quan hệ thân thiện với Standard Oil, đồng thời cũng là chủ tịch một công ty con của Standard, cho Archbold biết, Roosevelt nghĩ rằng công ty của Rockefeller đối lập với ông, Archbold đã trả lời: "Tôi luôn ngưỡng mộ ngài tổng thống và đã đọc mọi cuốn sách ông ấy viết." Vị nghị sĩ này có một ý tưởng rất hay.

Một tác giả là tổng thống, đặc biệt là một người sáng tác nhiều như Roosevelt, chắc chắn sẽ là đối tượng của những lời tâng bốc. Ông truyền đạt những lời nói trên của Archbold tới tổng thống và sử dụng cách mào đầu đó để sắp xếp một cuộc gặp gỡ. Đắc thắng, nghị sĩ này viết thư cho Archbold, nói: "Lĩnh vực sách" đã đem lại thành công trong trò chơi ngay từ phát bắn đầu tiên". Nhưng ông này cũng cảnh báo: "Ít nhất, ông nên đọc tựa đề của các cuốn sách đó để nhớ lại nội dung của chúng trước khi tiến hành bước tiếp theo". Sự tâng bốc có thể đưa Archbold tới được cánh cửa trước, nhưng không thể giúp ông tiến xa thêm.

Một vài năm sau, ông giận dữ nói: "Vùng Abyssinia (tên cũ của Ethiopia) cũng chưa từng chứng kiến bất kỳ điều gì giống như cách chính phủ đối xử với chúng tôi sau khi Roosevelt thắng cử năm 1904". Trước ngày bầu cử, Đảng Dân chủ đã đem chuyện những doanh nghiệp lớn đóng góp cho chiến dịch tranh cử của phe Cộng hòa, bao gồm 100 nghìn đô-la của Archbold và H. H. Rogers trở thành một chủ đề gây tranh cãi lớn. Roosevelt liền ra lệnh trả lại số tiền 100 ngàn đô-la kia và ngay sau đó, đột nhiên công khai hứa với mọi người Mỹ điều đã trở thành khẩu hiệu của ông, một "thỏa thuận sòng phẳng".

Liệu số tiền trên có thật sự được trả lại hay không là một vấn đề khác. Bộ trưởng Tư pháp Philander Knox kể với William Howard Taft[4], người kế nhiệm Roosevelt rằng, khi ông bước vào văn phòng Roosevelt vào tháng 10 năm 1904, ông nghe thấy tổng thống đang đọc cho thư ký viết một bức thư chỉ đạo việc trả lại số tiền 100 nghìn đô-la cho Standard Oil. "Tại sao vậy, thưa Tổng thống, số tiền đó đã bị tiêu hết rồi. Họ không thể trả lại số tiền đó được, họ không có số tiền đó". Knox nói. Roosevelt trả lời: "Ồ, nhưng dù sao, lá thư này cũng sẽ được lịch sử ghi nhận".

Ngay sau khi Roosevelt trúng cử năm 1904, chính quyền của vị tổng thống này mở một cuộc điều tra Standard Oil và ngành công nghiệp dầu lửa. Kết quả là một bản chỉ trích gay gắt việc tờ-rớt này kiểm soát lĩnh vực vận tải, được thổi phồng thêm bởi những lời tố cáo Standard của chính Roosevelt. Áp lực bất lợi cho Standard ngày càng tăng đến mức Archbold và H. H. Rogers phải vội vã tới Washington vào tháng 3 năm 1906 để gặp Roosevelt và xin tổng thống không cho tiến hành kiện Standard.

Sau cuộc gặp với Roosevelt, Archbold viết thư gửi cho một giám đốc khác của Standard là Henry Flagler, nói rằng: "Chúng tôi nói với ông ấy rằng chúng ta đã bị điều tra đi điều tra lại rồi, báo cáo đi báo cáo lại rồi. Nhưng chúng ta có thể chịu đựng được điều đó. Ông ấy kiên nhẫn lắng nghe tất cả những gì chúng tôi nói và tôi nghĩ là ông ấy cũng khá bị ấn tượng…. Không thể nào buổi làm việc với tổng thống lại không có kết quả tốt đẹp".

Vụ kiện

Archbold đang lừa dối bản thân và đồng nghiệp. Vì vào tháng 11 năm 1906, điều phải đến cuối cùng đã đến: Tại tòa án lưu động liên bang ở St. Louis, chính quyền Roosevelt đã tiến hành vụ kiện chống Standard Oil. Theo Đạo luật Chống độc quyền Sherman năm 1890, Standard bị buộc tội có âm mưu cản trở thương mại. Trong thời gian diễn ra vụ kiện này, Roosevelt thổi bùng ngọn lửa căm hận trong dư luận.

Tổng thống công khai tuyên bố: "Trong sáu năm qua, những con người này không hề trung thực trong kinh doanh". Ông còn nói riêng với Bộ trưởng Tư pháp rằng, các giám đốc của Standard là "những tên tội phạm lớn nhất của đất nước này". Bộ Chiến tranh (tên gọi cũ của Bộ Quốc phòng) thông báo sẽ ngừng mua các sản phẩm dầu của Standard Oil. Không muốn bị qua mặt, ứng cử viên lâu năm cho chức tổng thống của phe Dân chủ, William Jennings Bryan, cũng tuyên bố rằng điều tốt đẹp nhất có thể xảy ra cho nước Mỹ là việc đưa Rockefeller ra tòa. Standard Oil nhận ra rằng mình đang ở trong một cuộc chiến một mất một còn. Cục diện đã thay đổi và giờ đây, Chính phủ Mỹ đang đưa Standard vào tình huống "toát mồ hôi hột".

Một lãnh đạo của Standard viết cho Rockefeller: "Chính phủ đã bắt đầu một chiến dịch có tính toán nhằm hủy diệt Standard và tất cả những người có dính líu đến tờ-rớt này, cũng như sử dụng mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu đó". Để phòng vệ, Standard huy động những luật sư tài năng nhất. Đứng đầu vụ kiện của Chính phủ Mỹ là luật sư Frank Kellogg, người 20 năm sau trở thành Ngoại trưởng Mỹ. Trong hơn 2 năm, 444 nhân chứng đã cung cấp lời khai và 1.371 vật chứng được đưa ra trước tòa. Hồ sơ đầy đủ của vụ kiện này dày tới 14.495 trang và được đóng thành 21 tập. Sau này, thẩm phán Tòa án tối cao đã miêu tả bộ hồ sơ này là "quá đồ sộ… chứa đựng một khối lượng lớn những lời khai trái ngược nhau có liên quan đến những giao dịch đa dạng, phức tạp, trải rộng trong một thời kỳ dài gần 40 năm".

Trong khi đó, các vụ kiện khác chống lại Standard cũng đang diễn ra. Thỉnh thoảng, Archbold lại cố gắng không chú ý tới cuộc tấn công ác liệt từ phía tòa án và chính quyền đó. Trong một bữa tiệc lớn có đông người tham gia, ông phát biểu: "Suốt gần 44 năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, tôi đã tham gia một nỗ lực có phần khó khăn để cản trở hoạt động thương mại của dầu lửa và các sản phẩm từ dầu, tại nước Mỹ, tại quận Columbia, và ở nước ngoài. Lời thú nhận tôi đưa ra với các bạn là một thông tin mật, và tôi tin chắc các bạn sẽ không giao tôi cho chính phủ". Tuy nhiên, dù có đùa tếu như vậy, Archbold và các đồng nghiệp vẫn vô cùng lo lắng.

Năm 1907, ông bí mật viết: "Chính quyền liên bang đang nỗ lực hết sức để chống lại chúng tôi. Tổng thống đã chỉ định các quan tòa, đồng thời cũng là ban hội thẩm xử những vụ kiện công ty này… Tôi không cho rằng họ có thể ăn thịt chúng tôi, cho dù họ có thể thành công trong việc xúi bẩy dân chúng thực hiện việc phá hoại. Chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để bảo vệ các cổ đông. Còn xa hơn nữa thì cả tôi hay bất kỳ ai cũng chưa thể nói được điều gì". Cùng năm đó, trong một vụ kiện khác, Kenesaw Mountain Landis, một quan tòa liên bang đã phạt Standard Oil một khoản tiền lớn vì nhận những khoản chiết khấu trái pháp luật. Quan tòa này cũng lên án "thái độ xấc xược cố ý" của các luật sư bào chữa cho Standard Oil và lấy làm tiếc vì "chưa có sự trừng phạt đích đáng".

Khi Rockefeller đang chơi golf với vài người bạn ở Cleveland thì một cậu bé đưa tin xuất hiện, mang theo quyết định của tòa án. Rockefeller xé chiếc phong bì, đọc nội dung bên trong, rồi bỏ vào trong ví. Sau đó, ông cất lời, phá vỡ sự im lặng: "Ồ, các bạn, chúng ta tiếp tục chứ?" Một người có mặt khi đó không kiềm chế được và hỏi ông phán quyết đó ở mức độ nào. Rockefeller trả lời: "Tôi nghĩ không thể có hình phạt nào cao hơn được nữa – 29 triệu đô-la". Sau đó, ông nghĩ lại và nói thêm: "Còn rất lâu sau khi quan tòa Landis chết, khoản tiền phạt này mới được nộp". Rockefeller chỉ buông mấy lời như vậy rồi lại tiếp tục đánh golf, với thái độ dường như bình thản, và chơi một trong những trận golf hay nhất trong đời. Quả thực, phán quyết của Landis cuối cùng đã bị đảo lộn.

Nhưng sau đó, năm 1909, trong một vụ kiện chống độc quyền lớn, tòa án liên bang, với sự ủng hộ của chính phủ, đã ra lệnh giải thể Standard Oil. Lúc này, Theodore Roosevelt không có mặt tại Văn phòng tổng thống và đang trên đường trở về sau một chuyến đi săn thú lớn ở châu Phi. Ông nghe được tin này khi đang ở trên sông Nile Trắng và rất đắc chí. Ông nói, quyết định này "là một trong những chiến thắng nổi bật nhất dành cho sự khuôn phép từng thiết lập được trên đất nước này". Về phần mình, Standard Oil không bỏ phí thời gian kháng cáo lên Tòa án tối cao. Vụ kiện này được xử lại ở Tòa án tối cao tới hai lần do hai thẩm phán qua đời. Cả ngành công nghiệp dầu lửa và giới tài chính cùng bồn chồn chờ đợi kết quả vụ kiện.

Cuối cùng, vào tháng 5 năm 1911, cuối một buổi chiều hết sức buồn tẻ, Thẩm phán Edward White tuyên bố: "Tôi tuyên bố quan điểm của Tòa án tối cao, nước Mỹ phản đối Công ty Standard Oil". Những con người trong bầu không khí nóng bức, ngột ngạt và ảm đạm của phòng xử án đột nhiên bừng tỉnh và căng tai lắng nghe. Rồi các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ lao vào phòng. Trong 45 phút sau đó, Thẩm phán White phát biểu, nhưng ông nói khó nghe đến nỗi vị thẩm phán ngay bên trái ông nhiều lần phải ngả người về phía trước và đề nghị ông nói to hơn để mọi người có thể nghe thấy những từ ngữ quan trọng.

Thẩm phán White giới thiệu một nguyên tắc mới, trong đó việc đánh giá của cơ quan pháp luật về hành vi hạn chế thương mại theo đạo luật Sherman sẽ dựa trên phương pháp phán xét trên cơ sở giải trình

Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là nhan đề bài viết của PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc - nguyên Viện truởng Viện Lịch Sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng là: "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "để đi tới xã hội cộng sản". Đó cũng chính là sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tộc từ đó tới nay và là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn bảo đảm cho cách mạng và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và có được cơ đồ như ngày nay.

undefined
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. (Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).

Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, Đảng Cộng sản cầm quyền có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Kháng chiến chống xâm lược để giành lấy độc lập, thống nhất hoàn toàn với chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sự nghiệp đấu tranh kiên cường đó kéo dài 30 năm mới đến ngày toàn thắng 30/4/1975. Công cuộc kiến quốc đồng thời diễn ra để tạo dựng một xã hội mới tốt đẹp, vì ấm no, hạnh phúc của đồng bào, đất nước giàu mạnh, với khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng từ sau Cách mạng tháng Tám đã gần 80 năm. Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa, phong kiến nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá.

Nhớ lại thời miền Bắc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, vốn liếng chỉ có 3 sào ruộng một đầu người (hơn 1.000 m2) với mấy mỏ than ở Quảng Ninh. "Năm hai mùa chua mặn. Gian nan. Hai tay trắng với giang sơn một nửa" (Tố Hữu). Vậy mà miền Bắc đã vươn mình, mạnh mẽ từ đường lối Đại hội III của Đảng (9/1960), nhiều chính sách và các cuộc vận động lớn. Năm 1964 đã đủ lương thực cho toàn xã hội, tự túc 90% hàng tiêu dùng với số dân 17 triệu người. Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.

Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, cả dân tộc đứng trước vận hội mới để phát triển nhưng lại phải đương đầu với những thách thức nặng nề. Hậu quả của 30 năm chiến tranh, cả nước vẫn là nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu với 45 triệu dân. Các nước và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận và phá hoại. Thiên tai và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ác liệt ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc và phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. "Lụt Bắc, lụt Nam, máu đầm biên giới. Tay chống trời, tay giữ đất căng gân" (Tố Hữu). Tình hình khắc nghiệt đó đã dẫn tới đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979.

Đảng cũng thẳng thắn tự nhận thấy khuyết điểm yếu kém của chính mình trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) khởi đầu quá trình tìm đường đổi mới. Tiếp đó là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán trong hợp tác xã nông nghiệp (13/1/1981); Quyết định 25CP, 26 CP (21/1/1981) của Chính phủ trong quản lý công nghiệp; Đại hội V của Đảng (3/1982); Hội nghị Đà Lạt (7/1983); Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6/1985) và Kết luận của Bộ Chính trị (8/1986). Đó là những bước đột phá của quá trình đổi mới từng phần để đi tới đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng (12/1986).

Đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI là kết quả của đổi mới tư duy lý luận, khắc phục nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, bệnh giáo điều, nóng vội và chủ quan duy ý chí. Nhận thức rõ hơn đặc điểm của Việt Nam, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI nhấn mạnh bài học: "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Đại hội VI của Đảng là cột mốc lịch sử đặc biệt mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng và đất nước Việt Nam và cũng thể hiện trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng trước đất nước và nhân dân.

Quá trình đổi mới gần 40 năm qua, Đảng và dân tộc Việt Nam đã lập nên kỳ tích, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện đất nước và mỗi gia đình, mỗi con người. Chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nhưng Đảng và dân ta cũng phải vượt qua nhiều thử thách, nguy cơ. Thử thách rất lớn là ảnh hưởng tiêu cực của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự tồn tại 4 nguy cơ lớn cản trở sự phát triển và đổi mới. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Nguy cơ "diễn biến hòa bình", sự chống phá của các thế lực thù địch. Quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo có một đặc điểm là luôn luôn tranh thủ cơ hội để phát triển và chủ động đẩy lùi nguy cơ, vượt qua mọi cản trở để đi tới.

Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên là khái niệm khoa học để chỉ một thời kỳ, một thời đại lịch sử với những nội dung, đặc điểm, đặc trưng nổi bật dẫn dắt một dân tộc hoặc nhân loại đi tới mục tiêu cao cả và hiện thực. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam để đi tới một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hiện đại, văn minh và hạnh phúc. Thực hiện sứ mệnh lãnh đạo trong kỷ nguyên mới đòi hỏi Đảng phải kế thừa thành công trong sự lãnh đạo ở các thời kỳ trước, xử lý những vấn đề mới đặt ra một cách khách quan, khoa học cả về lý luận và thực tiễn, tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn.

Một là, tiếp tục làm rõ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những đặc trưng, hình thức, bước đi phù hợp với thực tiễn của đất nước và sự biến đổi của thời đại. Sự phát triển đó dựa trên 8 đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI thông qua. Đại hội XI đã nêu rõ:

"Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Đại hội XIII của Đảng (1/2021) chủ trương: "Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"6 năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

undefined
Đoàn Chủ tịch điều hành Đại hội. Ảnh: TTXVN

Đảng trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với điều kiện mới. Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng đổi mới nhận thức và hành động. Với tinh thần đó, năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng công bố tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn và có sự phát triển mới trong nhận thức.

"Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé", vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Tổng Bí thư Tô Lâm, trong bài viết Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh: "Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - "phương thức sản xuất số", trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”.

Đó là những định hướng căn bản cho sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong thời đại và điều kiện mới và cũng là sứ mệnh lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Hai là, ​​​​tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Với sứ mệnh là đội tiên phong lãnh đạo cách mạng và Đảng cầm quyền, bước vào kỷ nguyên mới, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối. Cương lĩnh, đường lối dựa trên lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước và thế giới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng tập trung lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật. Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Quán triệt chỉ dẫn của Bác Hồ: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng bộ máy tổ chức tinh, gọn, mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực, đạo đức, trách nhiệm và chuyên nghiệp và với khả năng ứng dụng khoa học công nghệ. Chú trọng những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám vượt qua thách thức, vì lợi ích chung.

Nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm. Kinh tế phát triển thì đất nước phát triển. Đảng lãnh đạo đất nước có nền kinh tế phát triển cao, quy mô lớn dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại tạo năng suất cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh. Xây dựng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, thương mại, dịch vụ phát triển cao. Không ngừng hội nhập kinh tế quốc tế. Định hình phương thức sản xuất mới, "phương thức sản xuất số". Phát triển kinh tế gắn với chiến lược phát triển khoa học, công nghệ.

Xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc phải bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách xã hội về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập, nhà ở, chữa bệnh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Xây dựng hệ thống tiêu chí quốc gia hạnh phúc phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiếp tục phát triển 3 Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực hiện tốt hơn chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực để phát triển kinh tế. Đặt văn hóa ngang với chính trị và kinh tế. Phát triển văn hóa gắn với giáo dục, đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trí tuệ, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng tăng cường lãnh đạo quốc phòng, an ninh, bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang (quân đội, công an) tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, 4 không. Không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với các nước. Không tham gia liên minh quân sự. Không đi với nước này để chống nước kia. Không để nước ngoài lập căn cứ quân sự, đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam.

Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, là bạn, là đối tác tin cậy, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tăng cường ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao quốc phòng an ninh. Không ngừng mở rộng hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.

Lãnh đạo tốt các lĩnh vực trọng yếu trên đây, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng và dân tộc Việt Nam, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững.

Ba là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng là một hệ thống các phương pháp, hình thức mà chủ thể lãnh đạo tác động vào đối tượng lãnh đạo, xử lý các mối quan hệ và dự báo chiến lược và sự chuyển biến cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến cách lãnh đạo và nhấn mạnh một số điểm. Đảng cần phải ra quyết định cho đúng. Tổ chức thực hiện cho tốt. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, giám sát. Coi trọng dự báo, thấy trước. Lắng nghe ý kiến của nhân dân. Chủ trương nào mà dân chúng cho là không đúng, không phù hợp thì cần nghiên cứu, xem xét để sửa chữa.

Trong lãnh đạo rất cần sự phát triển để thấy được cơ hội, thời cơ đồng thời thấy rõ những khó khăn, thách thức, nguy cơ. Chẳng hạn 4 nguy cơ mà Đảng nêu ra từ năm 1994 đến nay vẫn còn hiện hữu, có mặt còn phức tạp, nhất là nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nguy cơ "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khoa học lãnh đạo và quản lý đòi hỏi nhận thức và xử lý đúng đắn các mối quan hệ và những khả năng diễn biến và phát triển. Cần thiết phải nắm vững quan điểm, phương pháp duy vật biện chứng với sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, phát triển. Khắc phục phương pháp chủ quan, nóng vội, duy ý chí, áp đặt, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm.

Để thực hiện tốt những mục tiêu định hướng quan trọng, Đại hội XIII nhấn mạnh: "Chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện".

Sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ lịch sử và toàn bộ tiến trình cách mạng. Từ xác định đúng mục tiêu, nội dung nhiệm vụ đền cách thức, phương thức lãnh đạo là những vấn đề căn bản gắn liền khoa học lãnh đạo, quản lý và lý luận xây dựng Đảng được kiểm định từ chính thực tiễn của cách mạng. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng phải đặt ra và xử lý đúng đắn hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn đất nước đang đặt ra.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Mobile VerionPhiên bản di động