Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6)
Thực hiện Thanh Thảo - Phạm Huyền
06/02/2025 16:00

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6), kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 6 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà Nam (giới thiệu), kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị.

CHƯƠNG 5: SÁT THỦ GIẾT RỒNG

"Ngôi nhà cổ" đang bị vây hãm. Standard Oil không thể đánh bại các đối thủ thương mại của nó tại Mỹ cũng như trên thế giới. Ngoài ra, một cuộc chiến chính trị và pháp lý đang diễn ra trên khắp nước Mỹ nhằm chống lại Standard Oil và các hành vi kinh doanh tàn nhẫn của công ty này. Đây không phải là một thử thách mới, Rockefeller và các đối tác của ông đã bị chỉ trích và phỉ báng ngay từ những ngày đầu xây dựng tờ-rớt dầu lửa Standard.

Các lãnh đạo công ty không bao giờ thật sự hiểu được sự chỉ trích đó. Họ nghĩ rằng, đó là chính sách mị dân rẻ tiền, sự ghen tị dốt nát và một cách nài xin đặc biệt. Họ tin chắc rằng, trong cuộc theo đuổi không ngừng nghỉ những lợi ích của bản thân và sự giàu có, Standard Oil không chỉ ngăn chặn được tai họa của "tình trạng cạnh tranh không kiểm soát", mà công ty này có lẽ còn là, theo lời của chính Rockefeller, "những người dựng xây" vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tuy nhiên, đó không phải là cách nhìn nhận của phần đông dư luận.

Những người phê phán Standard chỉ nhìn thấy một doanh nghiệp hùng mạnh, xảo quyệt, thô bạo, kiên cố, xâm nhập vào mọi ngóc ngách, và rất bí hiểm. Công ty này không chịu trách nhiệm trước một ai, trừ một vài vị giám đốc ngạo mạn, và dùng sự tàn bạo để cố gắng tiêu diệt những ai cản đường nó. Quan điểm này là một phần bối cảnh của thời kỳ đó. Sự lớn mạnh của Standard Oil không diễn ra tách biệt với những gì xung quanh. Đó là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ trong vài thập niên cuối thế kỷ XIX.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị. Mỗi tờ-rớt ngồi chễm chệ trên một ngành công nghiệp và nhiều tờ-rớt có các nhà đầu tư và giám đốc đan xen lẫn nhau. Sự thay đổi nhanh chóng này là một hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ đối với nhiều người Mỹ.

Khi thế kỷ XIX kết thúc và thế kỷ XX mở ra, họ trông chờ chính phủ lập lại sự cạnh tranh, kiểm soát những hành vi bất lương và chế ngự sức mạnh kinh tế cũng như chính trị của các tờ-rớt, những con rồng to lớn và đáng sợ đang gầm rú quá tự do trên khắp đất nước. Dữ tợn và đáng sợ nhất trong số những con rồng này chính là Standard Oil.

undefined
Rockefeller

Công ty mẹ

Những cuộc tấn công pháp lý chống Standard bắt đầu được nối lại từ các bang, với các vụ kiện chống độc quyền do bang Ohio và Texas khởi tố. Tại Kansas, thống đốc bang đưa ra kế hoạch xây dựng một nhà máy lọc dầu do bang sở hữu với công nhân làm việc tại đó là các phạm nhân đang cải tạo và công ty này sẽ cạnh tranh với Standard Oil. Có ít nhất bảy bang khác, cùng với vùng lãnh thổ Oklahoma, tiến hành các hành động pháp lý chống lại Standard ở dạng này hay dạng khác. Tuy nhiên, Standard chưa hề tỏ ra e ngại trước sự chống đối toàn diện của dân chúng đối với các hành vi kinh doanh của mình.

Năm 1888, trong một lá thư gửi cho Rockefeller, một lãnh đạo của Standard Oil viết: "Tôi cho rằng, cơn sốt chống tờ‑rớt này là sự loạn trí. Chúng ta nên nghiêm túc đối mặt với điều này và tránh mọi câu hỏi bằng những câu trả lời né tránh sự thật trong khi vẫn hết sức chân thực". Standard tiếp tục giữ bí mật tất cả kế hoạch của mình. Khi đứng trước tòa trong một vụ kiện mà bang Ohio là nguyên đơn, Rockefeller kín miệng đến nỗi, một tờ báo của New York đã giật tít: "John D. Rockefeller là một con hến". Để huy động mọi nguồn lực cần thiết cho cuộc chiến đang đến gần, Standard thuê một luật sư giỏi nhất và đắt giá nhất. Công ty này cũng tìm cách gây ảnh hưởng chính trị, đóng góp đúng lúc cho các hoạt động chính trị.

Khi đóng góp cho Đảng cộng hòa ở bang Ohio, Rockefeller viết: "Những người bạn của chúng tôi thật sự cảm thấy chúng tôi chưa nhận được sự đối xử bình đẳng từ Đảng Cộng hòa. Nhưng chúng tôi kỳ vọng những điều tốt đẹp hơn trong tương lai". Tuy nhiên, Standard Oil không dừng lại ở những khoản đóng góp như thế. Công ty ký hợp đồng thuê nghị sĩ Đảng Cộng hòa của bang Ohio làm luật sư cho mình khi cần, với mức phí riêng trong năm 1900 là 44.500 đô-la. Công ty còn cho một nghị sĩ rất có ảnh hưởng của Texas, được coi là "thủ lĩnh dân chủ ưu tú nhất tại Mỹ" vay tiền để thanh toán cho vụ mua lại một điền trang rộng 6.000 acre ở gần Dallas.

Ngoài ra, công ty quảng cáo mà Standard Oil thuê, trong quá trình mua lại vị trí quảng cáo trên các tờ báo, đã cho đăng những bài báo có nội dung liên quan đến Standard Oil. "Ngôi nhà cổ" cũng thành lập hoặc thôn tính "những con hổ mù", tức những công ty nhìn từ ngoài vào thì đúng là những nhà phân phối độc lập, nhưng sự thật thì không. Chẳng hạn, năm 1901, một công ty kinh doanh dầu lửa có tên Republic Oil được thành lập ở bang Missouri. Công ty này giương cao những lời quảng cáo như: "Không tờ-rớt", "Không độc quyền" và "Hoàn toàn độc lập". Tuy vậy, nó vẫn bí mật gửi báo cáo lên số 75 đường New Street ở New York, một cửa sau của số 26 đường Broadway.

Mặc dù một số bang đã giành được những chiến thắng tạm thời trước Standard, nhưng rốt cục không bang nào thành công trong các cuộc tấn công Standard. Ví dụ, sau khi các công ty con của Standard Oil bị trục xuất khỏi Texas và tài sản của họ bị chính phủ quản lý, tòa án đã tổ chức một buổi bán lại các tài sản này ở khách sạn Driskill tại Austin. Nhưng thực tế, họ bán lại những tài sản này cho người của Standard Oil. Mặc dù vậy, các cuộc tấn công pháp lý này cũng buộc Standard Oil phải có những thay đổi nhất định trong tổ chức của công ty. Năm 1892, theo quyết định của tòa án ở Ohio, tờ-rớt này bị giải thể và cổ phiếu của nó được chuyển giao cho 20 công ty. Tuy nhiên, quyền kiểm soát vẫn nằm trong tay những chủ sở hữu ban đầu. Các công ty này tập hợp lại với nhau thành "Những nhóm tư bản Standard Oil".

Trong tổ chức mới này, Ban Điều hành tại 26 Broadway được chuyển thành một cuộc gặp gỡ thân mật giữa các chủ tịch của các công ty thành viên khác nhau tạo thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Thư từ không còn được đề địa chỉ gửi tới Ban Điều hành nữa, mà chỉ là "các quý ngài tầng trên". Tuy nhiên, "các quý ông này" không lấy làm vui mừng với việc tổ chức lại tờ-rớt của họ thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Việc tiếp tục bảo vệ là cần thiết trong bối cảnh các áp lực vẫn tiếp diễn và để tạo cho công ty nền móng pháp lý vững chắc hơn. Họ tìm thấy giải pháp cho những vấn đề của mình ở New Jersey. Pháp luật của bang này đã được sửa đổi, cho phép việc thành lập các công ty mẹ –các công ty có thể sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp khác. Đây là một thay đổi có tính chất quyết định trong luật doanh nghiệp truyền thống ở nước Mỹ. New Jersey cũng nỗ lực trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn cho hình thức hợp nhất mới này.

Do đó, năm 1899, ban lãnh đạo của "Những nhóm tư bản Standard Oil" đã thành lập Standard Oil của New Jersey, một công ty mẹ cho toàn bộ hoạt động của họ. Giá trị vốn hóa của công ty này tăng từ 10 triệu đô-la lên 110 triệu đô-la và công ty nắm giữ cổ phần trong 41 công ty khác. Những công ty con này lại nắm quyền kiểm soát những công ty khác nữa, và những công ty bên dưới này còn tiếp tục quản lý những công ty nhỏ hơn. Trong suốt thời gian này, tại Standard Oil còn diễn ra một thay đổi lớn khác. Sau khi tích luỹ được một khối tài sản khổng lồ, John Rockefeller cảm thấy mệt mỏi và bắt đầu lên kế hoạch nghỉ hưu. Mặc dù Rockefeller mới 55 tuổi song những căng thẳng công việc liên tục và từ những cuộc tấn công nhằm vào ông và Standard Oil đã bắt đầu ảnh hưởng tới sức khỏe của ông. Từ sau năm 1890, Rockefeller thường phàn nàn về hệ tiêu hóa của mình. Ông nói rằng mình đang bị hành hạ và luôn đặt một khẩu súng lục cạnh giường khi đi ngủ.

Năm 1893, Rockefeller mắc chứng rụng tóc, một căn bệnh liên quan đến sự căng thẳng tâm lý, và phải đối phó với nó bằng mũ chỏm hay tóc giả. Kế hoạch nghỉ hưu của ông tạm thời bị trì hoãn do một loạt các cuộc khủng hoảng – thời kỳ Suy thoái nghiêm trọng của kinh tế Mỹ năm 1893 và tiếp đó là cuộc đại khủng hoảng, rồi cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, vai trò của Rockefeller cũng bắt đầu giảm dần và cuối cùng, năm 1897, khi chưa tới 60 tuổi, ông nghỉ hưu, chuyển giao quyền lãnh đạo John D. Archbold.

Người kế nhiệm: Nhân vật hăng hái trong ngành dầu lửa

Không ai nghi ngờ việc John Archbold kế nhiệm Rockefeller. Hơn bất kỳ nhà lãnh đạo cấp cao nào của Standard, ông là chuyên gia trong mọi lĩnh vực của ngành công nghiệp dầu lửa. Ông là một trong những nhân vật quyền lực nhất trong ngành dầu lửa tại Mỹ trong suốt hai thập kỷ trước đó. Và trong hai thập kỷ tiếp theo, có lẽ ông chính là nhân vật quyền lực nhất. Với dáng người thấp và vẻ bề ngoài trẻ hơn tuổi, Archbold là một người đầy ý chí và không biết đến mỏi mệt. Ông luôn hăng hái "đi tới cùng" và cống hiến hết mình cho những yêu cầu và tính đúng đắn của sự nghiệp mà ông theo đuổi.

Trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống năm 1860, khi còn là một cậu bé, ông đã đi bán những tấm huy hiệu in hình các ứng cử viên. Mặc dù anh trai ông bán tại một khu vực thuận lợi hơn, nhưng Archbold vẫn bán được nhiều huy hiệu hơn. Năm 15 tuổi, Archbold một mình lên chuyến tàu từ Salem, bang Ohio tìm kiếm vận may trong lĩnh vực dầu lửa ở Titusville. Ban đầu, ông làm thư ký cho một công ty vận tải biển với mức lương còm cõi đến nỗi ông phải ngủ trên một chiếc giường kê dưới quầy thu ngân ở văn phòng. Sau đó, Archbold trở thành nhà môi giới dầu lửa năng động và bị cuốn vào "sự hăng hái về dầu" trong suốt cuộc đời. Lòng nhiệt tình đó vô cùng cần thiết trong bối cảnh lộn xộn của Vùng đất dầu.

Một đối tác nhớ lại người môi giới dầu lửa trẻ tuổi này: "Khi đó, công việc hàng ngày của ông ấy thật vất vả. Trên những đường phố chính của Titusville luôn bao phủ một lớp bùn lẫn dầu dày khoảng 30 cm. Xung quanh những giếng dầu dọc theo Dòng sông Dầu, tình trạng cũng tương tự, thậm chí có lúc bùn còn lên đến ngang đùi. Nhưng John Archbold chẳng để ý đến điều đó. Ông vẫn cứ lội qua những con đường lầy lội đó, hát ngân nga khi sắp mua được dầu hoặc đang dự tính đến việc đó". Ngoài công việc, Archbold không có thú vui nào khác. Ông học cách sử dụng khiếu hài hước để giải tỏa những tình huống căng thẳng và điều này trở thành vũ khí lợi hại nhất của ông trong những cuộc tranh cãi và xung đột. Rất lâu sau, khi được hỏi có phải Standard Oil chỉ quan tâm đến những lợi ích của riêng mình hay không, ông trả lời khô khan: "Chúng tôi không phải lúc nào cũng là nhà từ thiện".

Ông cũng học được cách nhìn nhận các sự kiện, dù phức tạp đến đâu, theo chiều hướng phát triển. Ông biết cách khiến mình trở nên hữu ích với người khác – đặc biệt là John D. Rockefeller – và thể hiện cho họ thấy điều đó. Rockefeller sớm để mắt đến Archbold. Năm 1871, trong khi làm thủ tục đăng ký tại một khách sạn ở Titusville, Rockefeller đã nhìn thấy chữ ký của một nhà môi giới và lọc hóa dầu trẻ tuổi, với nội dung "John D. Archbold, 4 đô-la/thùng". Rất ấn tượng trước cách quảng cáo tự tin như vậy, vào một thời điểm mà người ta không thể mua dầu với mức giá gần con số này, Rockefeller đã ghi lại thông tin đặc biệt này. Là một nhà hoạt động, Archbold trở thành thư ký Sàn giao dịch dầu lửa Titusville.

Trong vụ Công ty South Improvement và Chiến tranh dầu lửa năm 1872, khi Rockefeller và các công ty đường ray tìm cách kiểm soát độc quyền sản lượng dầu lửa, ông nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của Vùng đất dầu, và tố cáo Rockefeller bằng những lời lẽ gay gắt nhất. Tuy nhiên, Rockefeller đã nhận ra một người nắm giữ những nguyên tắc cơ bản của Vùng đất dầu, một người cống hiến hết mình cho ngành công nghiệp dầu lửa, người vừa có thể hung hăng, tàn nhẫn, lại vừa có thể linh hoạt và có khả năng thích nghi. Điều này đã được chứng minh chắc chắn khi vào năm 1875, Rockefeller mời Archbold làm việc cho Standard và ông nhanh chóng nhận lời.

Nhiệm vụ đầu tiên của Archbold là bí mật mua lại tất cả các nhà máy lọc dầu dọc theo Dòng sông dầu. Ông nhận nhiệm vụ này với quyết tâm cao nhất. Chỉ trong vài tháng, ông đã mua hoặc thuê lại 50 nhà máy lọc dầu, và làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe suy sụp nghiêm trọng. Archbold nhanh chóng thăng tiến lên nấc thang lãnh đạo cao nhất của Standard Oil. Tuy nhiên, Archbold vẫn phải giải quyết một trở ngại lớn với Rockefeller, trở ngại mà ông gọi là "nhược điểm không may" của mình. Ông rất mê đồ uống có cồn, nhưng Rockefeller nhất quyết yêu cầu ông ký vào bản cam kết không uống rượu và phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Archbold đã làm điều mà Rockefeller muốn. Khi 50 tuổi, ông đã là một nhân vật kỳ cựu có thâm niên hơn ba thập kỷ trong ngành dầu lửa hoạt động. Đem thế mạnh và kinh nghiệm của mình vào vị trí mới, Archbold là nhân vật số một tại Standard. Mặc dù vẫn giữ liên lạc với trụ sở 26 Broadway, nhưng kể từ khi nghỉ hưu, Rockefeller dành toàn bộ thời gian cho các điền trang, làm từ thiện, chơi golf và quản lý khối tài sản ngày càng lớn của mình.

Trong khoảng thời gian từ năm 1893 tới năm 1901, Standard Oil đã trả cổ tức trị giá hơn 250 triệu đô-la. Phần lớn số tiền này thuộc về sáu người và Rockefeller giữ 1/4. Viết về núi tiền mà Standard bỏ ra này, một tác giả chuyên về các vấn đề tài chính nhận định, công ty này giống như "một ngân hàng thật sự của người khổng lồ vĩ đại nhất – một ngân hàng trong một cơ sở công nghiệp, cung cấp tài chính cho cơ sở đó trong cuộc cạnh tranh với mọi đối thủ". Sau khi ngừng tham gia điều hành công ty, sức khỏe Rockefeller đã hồi phục.

Năm 1909, bác sĩ dự đoán ông sẽ thọ tới 100 tuổi vì ông đã thực hiện ba nguyên tắc đơn giản: "Thứ nhất, tránh mọi lo lắng. Thứ hai, thường xuyên tập thể dục ở ngoài trời. Thứ ba, rời bàn ăn khi còn hơi đói". Rockefeller vẫn theo kịp diễn biến tình hình ở Standard, nhưng ông không tham gia quản lý công ty. Archbold cũng không cho ông làm điều đó. Archbold thường tới thăm Rockefeller vào các buổi sáng thứ bảy để thảo luận về hoạt động của Standard Oil. Rockefeller vẫn giữ danh hiệu chủ tịch công ty và điều này dẫn tới những đánh giá sai lầm về vai trò của Rockefeller trong thời kỳ này. Theo chính sách tuyệt đối bí mật của Standard, việc Rockefeller nghỉ hưu hoàn toàn được giữ kín, và như thế, Rockefeller vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với bất kỳ việc gì công ty này làm.

Bởi vậy, ông vẫn là trung tâm của mọi sự chỉ trích, mọi lời xúc phạm và mọi cuộc công kích. Vậy tại sao ông vẫn giữ danh hiệu chủ tịch? Có thể các cộng sự của ông nghĩ rằng cái tên Rockefeller khiến người ta phải nể sợ, là cần thiết để duy trì sự thống nhất của đế chế Standard. Cũng có thể đó là kết quả của lòng kính trọng mà Rockefeller được hưởng nhờ cổ phần mà ông nắm giữ trong công ty? Vài năm sau, một trong số những giám đốc cao cấp của công ty là H. H. Rogers đã đưa ra một lý do tương đối khác: "Chúng tôi nói với Rockefeller rằng ông ấy phải giữ danh hiệu này. Các vụ kiện chống lại chúng tôi vẫn đang treo ở tòa án. Và chúng tôi bảo ông ấy rằng, nếu bất cứ ai trong chúng tôi phải ra tòa, ông ấy sẽ phải đi cùng!"

undefined

Gia đình Rockefeller

"Sự kiện nóng bỏng"

Cuối thế kỷ XIX, cuộc tấn công nhằm vào Standard Oil ngày càng mạnh mẽ. Một tinh thần cải cách mới và mạnh mẽ là thuyết tiến bộ đang phát triển tại nước Mỹ. Những mục tiêu chính của thuyết này là cải cách chính trị, bảo vệ người tiêu dùng, thực hiện công bằng xã hội, cải thiện điều kiện làm việc, và kiểm soát cũng như điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp lớn. Mục tiêu sau cùng này đã trở thành một vấn đề cấp bách trong bối cảnh làn sóng hợp nhất lớn quét qua khắp nước Mỹ, với số lượng các tờ-rớt tăng lên nhanh chóng. Tờ-rớt đầu tiên tại quốc gia này là Standard Oil được thành lập năm 1882. Tuy nhiên, phong trào hợp nhất thật sự tăng tốc vào thập niên 1890.

Theo thống kê có 82 tờ-rớt với tổng giá trị vốn hóa là 1,2 tỷ đô-la được thành lập trước năm 1898. Từ năm 1898 đến năm 1904, có thêm 234 tờ-rớt được thành lập, với tổng giá trị vốn hóa hơn 6 tỷ đô-la. Theo quan điểm của một số người, tờ-rớt, hay sự độc quyền, chính là thành tựu lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Đối với những người khác, đây là sự đồi bại của một hệ thống đang đe dọa không chỉ giai cấp công nhân và nông dân, mà còn đe dọa cả tầng lớp trung lưu và giới doanh nhân, những người lo sợ bị tước đi các quyền lợi kinh tế.

Năm 1899, việc chống tờ-rớt được mô tả là "trận chiến lớn về đạo đức, xã hội và chính trị mà toàn bộ giới công đoàn phải đối mặt". Các tờ-rớt là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1900. Không lâu sau khi đắc cử, Tổng thống William McKinley nói với thư ký của ông rằng: "Vấn đề tờ-rớt phải được giải quyết sớm và nghiêm túc". Henry Demarest Lloyd, một trong số những người đầu tiên tham gia giải quyết vấn đề này, đã công kích quyết liệt Standard Oil bằng một cuốn sách có tựa đề Wealth again common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) xuất bản năm 1894.

Sau ông, một nhóm các nhà báo can đảm bắt đầu điều tra và công bố những hành vi mờ ám trong xã hội. Họ được gọi là "những người cào bùn" và trở thành trung tâm của phong trào tiến bộ. Một nhà sử học nhận định: "Thành tựu quan trọng cơ bản của thuyết tiến bộ ở Mỹ là việc vạch trần cái xấu". Tờ tạp chí khởi động cho toàn bộ chiến dịch cào bùn này có tên là McClure’s. Đây là một trong những ấn phẩm định kỳ hàng đầu ở Mỹ có số lượng phát hành lên tới hàng trăm nghìn bản. Chủ bút của McClure’s, Samuel McCluelà một người có tính khí thất thường, cởi mở và giàu trí tưởng tượng. Ông tập hợp được một đội ngũ phóng viên, biên tập viên tài năng về New York, và họ rất hăng hái tìm kiếm một đề tài lớn.

Năm 1899, trong bức thư gửi cho một trong số những người này, McClue viết: "Nhân vật lớn chính là các tờ-rớt. Đó sẽ là sự kiện nóng bỏng. Và tờ tạp chí có những bài viết về các giai đoạn khác nhau của chủ đề mà độc giả muốn biết này chắc chắn sẽ có lượng phát hành lớn". Các biên tập viên của tạp chí này quyết định tập trung vào một tờ‑rớt cụ thể để phản ánh quá trình hợp nhất. Nhưng sẽ là tờ-rớt nào? Họ bàn tới tờ-rớt Đường cũng như tờ-rớt Thịt bò, nhưng rồi lại gạt cả hai tờ-rớt này sang một bên.

Sau đó, một phóng viên đề xuất việc phát hiện dầu ở bang California nhưng thư ký tòa soạn Ida Tarbell không đồng ý. Bà nói: "Chúng ta phải vạch ra một kế hoạch tấn công mới. Trong đó, không chỉ cho thấy rõ tầm ảnh hưởng của các doanh nghiệp và sự phát triển thương mại cũng như những thay đổi mà họ tạo ra trên nhiều vùng khác nhau của đất nước, mà còn cho thấy rõ những nguyên tắc lớn mà các nhà lãnh đạo công nghiệp áp dụng để hợp nhất và kiểm soát những doanh nghiệp này".

"Bà bạn" của Rockefeller

Tại thời điểm đó, Ida Minerva Tarbell đã trở thành nữ nhà báo lớn đầu tiên của Mỹ. Người phụ nữ cao hơn 1,8 mét này có vẻ ngoài trang nghiêm và lạnh lùng đầy uy lực. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng Allegheny, bà tới Paris để viết tiểu sử của Roland, một nữ lãnh đạo của cuộc Cách mạng Pháp, người đã phải bước lên máy chém. Tarbell cống hiến tất cả cho sự nghiệp và không kết hôn, mặc dù về sau này, bà trở thành một người chủ trì các buổi lễ trong đời sống gia đình và phản đối việc phụ nữ đi bầu cử.

Đầu thế kỷ XX, ở tuổi 45, bà đã là một tác giả nổi tiếng với những cuốn tiểu sử rất thông dụng nhưng công phu về Napoleon và Lincoln. Phong cách và vẻ bề ngoài của Tarbell khiến bà trông có vẻ già trước tuổi. Một biên tập viên nữ của tờ McClue’s nhớ lại: "Một đặc điểm lớn của bà ấy là khiến mọi người cảm thấy khó gần. Đối với những người bình thường, có vẻ như bà ấy chẳng biết làm dáng chút nào". Sau khi McClue’s đã chắc chắn về chủ đề các tờ-rớt, Tarbell mới tính đến chuyện đảm trách nhiệm vụ điều tra của riêng bà. Mục tiêu của bà hiển nhiên là ông tổ của các tờ-rớt, John D. Rockefeller.

Được sự chấp thuận của ông chủ bút, bà bắt đầu một nghiên cứu mà rồi cuối cùng sẽ lật đổ Standard Oil. Cuộc đời luôn có những điều trớ trêu, và cuốn sách ra đời từ nghiên cứu của Tarbell sẽ là hành động báo thù cuối cùng của Vùng đất Dầu dành cho những kẻ chinh phục nơi này. Vì Ida Tarbell lớn lên trong những cộng đồng phát triển bùng nổ rồi lại vỡ tung của Vùng đất dầu. Cha của bà, Frank Tarbell, kinh doanh lĩnh vực sản xuất thùng chứa chỉ vài tháng sau khi Drake phát hiện ra dầu.

Trong thập niên 1880, ông làm ăn khá tốt và gây dựng được cơ ngơi tại thị trấn Pithole, nơi hoạt động khai thác dầu bùng nổ. Khi mỏ dầu đột ngột cạn và thị trấn nhỏ bé nhưng nhộn nhịp này tới hồi tiêu vong, ông bỏ 600 đô-la mua lại khách sạn hàng đầu trong thị trấn vừa mới được xây với giá 60.000 đô-la. Sau đó, ông phá khách sạn này và chất lên xe ngựa những cửa sổ kiểu Pháp, những cánh cửa đẹp, những bộ phận bằng gỗ và rầm thép, chở tới Titusville cách đó 10 dặm để xây một ngôi nhà mới xinh xắn cho gia đình.

undefined

Ida Minerva Tarbell

Thời thơ ấu của Ida Tarbell trôi qua trong ngôi nhà đó. (Sau này, bà đã nghĩ tới việc viết một câu chuyện về Pithole – "không có gì kịch tính bằng lịch sử dầu lửa của Pithole", bà nói.) Năm 1872, Frank Tarbell liên minh với các công ty sản xuất dầu lửa độc lập ở Vùng đất dầu chống lại South Improvement. Sau đó, cũng giống như nhiều người khác vùng đất này, công việc làm ăn của ông bị sự phát triển của Standard Oil chèn ép. Sau đó, anh trai của Ida Tarbell là William trở thành một trong những người đứng đầu Công ty Pure Oil và thành lập bộ phận phát triển thị trường tại Đức. Từ người cha và anh trai, Tarbell đã hiểu được tính bấp bênh của hoạt động kinh doanh dầu lửa, một công việc mà như William nói cũng giống như "đánh bạc".

Năm 1896, ông viết: "Tôi thường ước mình được làm trong một công ty khác, và nếu tôi làm cho công ty đó trở nên giàu có, tôi sẽ giữ vững sự giàu có đó". Tarbell vẫn nhớ những gian nguy và khó khăn tài chính mà cha bà phải trải qua – ngôi nhà bị đem cầm cố, cảm giác về sự thất bại, cảnh đơn thương độc mã rõ ràng trong cuộc chiến chống lại Con bạch tuộc, nỗi cay đắng và sự chia rẽ giữa những người thỏa thuận với Standard Oil và những ai không chịu làm như vậy. "Đừng làm việc đó, Ida", người cha già của Tarbell khẩn khoản nói với con gái khi biết bà đang điều tra về Standard Oil cho McClue’s. "Họ sẽ hủy diệt tờ báo đấy".

Một buổi tối, trong bữa tiệc do Alexander Graham Bell tổ chức ở Washington, vị phó chủ tịch của một ngân hàng liên kết với Rockefeller đưa Tarbell đi cùng. Có vẻ như ông này đang lịch sự đe dọa về chính điều mà cha Tarbell cảnh báo trước đó khi đưa ra câu hỏi về tình hình tài chính của tờ McClue’s. Tarbell sẽ không dừng lại. Là một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi và luôn suy nghĩ thấu đáo, bà trở thành một thám tử say mê và bị cuốn hút vào vụ việc của mình, với niềm tin mình sẽ có được một câu chuyện tuyệt vời. Người trợ lý Tarbell cử xuống những khu phố nhỏ ở Cleveland tìm gặp những người có trí nhớ tốt đã viết về cho bà: "Tôi muốn nói với bà điều này, John D. Rockefeller là nhân vật kỳ lạ nhất, kín miệng nhất, bí hiểm nhất và thú vị nhất ở Mỹ. Người dân vùng này không biết gì về ông ta cả. Một nghiên cứu về nhân vật khác thường này sẽ là con át chủ bài cho McClue’s". Và Tarbell muốn chơi con bài đó. Nhưng làm thế nào Tarbell tiếp cận trực tiếp được Standard?

Một người mà Tarbell không ngờ tới đã hỗ trợ bà − đó là H. H. Rogers. Sau John Archbold, Rogers là giám đốc thâm niên lâu nhất và quyền lực nhất của Standard Oil, đồng thời cũng là một nhà đầu cơ độc lập xuất chúng. Ông phụ trách lĩnh vực đường ống và khí tự nhiên của Standard. Tuy nhiên, Rogers không chỉ quan tâm đến kinh doanh. Ông còn có đóng góp đáng kể cho nền văn học Mỹ. Trước đó một thập kỷ, ông từng giúp Mark Twain thoát khỏi khó khăn tài chính suýt dẫn tới vỡ nợ. Sau đó, ông trở thành bạn thân của Mark Twain, quản lý tài sản và đầu tư tiền cho Mark Twain để nhà văn nổi tiếng này, như lời ông nói, "không còn phải lo lắng về tài chính nữa". Rogers yêu thích các tác phẩm của Mark Twain và thường đọc chúng cho vợ con nghe. Tuy nhiên, trong kinh doanh, Rogers là một người rất cứng rắn và lạnh lùng.

Trong cuốn Who’s Who (Ai là ai), ông tự liệt mình vào hàng "tư bản". Những người khác gọi ông là "Rogers, kẻ đê tiện" vì những vụ đầu cơ vào phố Wall của ông. Rogers cho rằng Rockefeller không ủng hộ ông vì, theo như ông nói, ông là "một con bạc bẩm sinh". Và quả thực, mỗi khi thị trường chứng khoán đóng cửa vào cuối tuần, không có việc gì để làm, Rogers lại chơi bài poker. Chính Mark Twain đề nghị Rogers hỗ trợ chi phí học tập cho Helen Keller, một cô gái bị mù và điếc, để cô có thể tới Radcliffe. Bản thân Mark Twain luôn biết ơn Rogers, và gọi Rogers không chỉ là "người bạn tốt nhất mà tôi từng có", mà còn là "người tốt nhất tôi từng biết". Trớ trêu thay, trong thời kỳ làm nghề xuất bản sách, Mark Twain từng được đề nghị xuất bản cuốn sách Wealth against common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) của Demarest Lloyd.

Trong lá thư gửi vợ, ông viết: "Anh muốn nói rằng, người đàn ông duy nhất mà anh quan tâm trên thế giới này, người đàn ông duy nhất đã hào phóng đổ cả mồ hôi và máu của mình để cứu anh và người thân của anh khỏi chết đói và sự hổ thẹn, lại là một con quỷ của Standard Oil… Nhưng anh đã không nói như vậy. Anh chỉ nói rằng anh không muốn làm bất kỳ cuốn sách nào nữa; anh muốn từ bỏ việc xuất bản sách". Mark Twain tùy thích ra vào văn phòng của Rogers tại số 26 Broadway và thỉnh thoảng, ông còn dùng bữa trưa với "các quý ông tầng trên" trong phòng ăn riêng của họ.

Một ngày nọ, Rogers đề cập đến chuyện ông có nghe về việc McClue’s đang chuẩn bị xuất bản một cuốn sách về Standard Oil và đề nghị Mark Twain tìm hiểu thực hư việc đó ra sao. Vì cũng quen biết với McClue, Mark Twain đã nhận lời. Cuối cùng, Mark Twain sắp xếp cho Ida Tarbell gặp Rogers vào tháng 1 năm 1902. Tarbell cảm thấy e dè khi phải đối mặt trực tiếp với ông trùm quyền lực của Standard Oil. Tuy nhiên, Rogers đã dành cho bà sự tiếp đón nồng hậu. Ngay lập tức, Tarbell khẳng định, "trên mọi phương diện" Rogers chính là "nhân vật đẹp trai nhất và đạo mạo nhất ở phố Wall". Họ nhanh chóng thiết lập một mối quan hệ đặc biệt, vì hóa ra, khi Tarbell còn nhỏ, hai người không chỉ sống cùng thị trấn tại Vùng đất dầu, mà nhà máy lọc dầu nhỏ của Rogers khi đó còn nằm ở triền đồi ngay bên dưới nhà Tarbell.

Rogers kể với Tarbell rằng, hồi ấy ông sống trong một ngôi nhà thuê, mà vào thời điểm đó, việc thuê nhà để ở đồng nghĩa với "sự thú nhận thất bại trong làm ăn" để có thể có thêm tiền mua cổ phiếu của Standard Oil. Rogers nói ông vẫn còn nhớ rõ về cha Tarbell và tấm biển "Cửa hàng thùng Tarbell". Ông còn nói đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất của ông. Có thể Rogers đã thể hiện cảm xúc chân thành song cũng có thể ông là một nhà tâm lý giỏi. Ông mê hoặc được Ida Tarbell. Nhiều năm sau, Tarbell vẫn thân mật gọi ông là "tên cướp biển đẹp trai với lá cờ mãi tung bay trên phố Wall".

Hai năm sau đó, Tarbell và Rogers thường xuyên gặp gỡ. Bà thường được đưa vào gặp ông qua một cửa và đi ra bằng một cửa khác, vì chính sách của công ty là cấm khách tới thăm chạm mặt nhau. Thỉnh thoảng, Tarbell thậm chí còn được sắp xếp một bàn làm việc ở số 26 Broadway. Bà vẫn đem các hồ sơ tới cho Rogers và ông lại cung cấp cho bà các tài liệu, số liệu, những điều chỉnh và giải thích. Rogers tỏ ra thật thà với Tarbell tới mức đáng ngạc nhiên.

Chẳng hạn, vào một ngày mùa đông, Tarbell mạnh dạn hỏi ông, Standard đã "thao túng pháp luật" bằng cách nào. "Ồ, dĩ nhiên là chúng tôi phải chăm sóc các cơ quan pháp luật rồi!" ông trả lời. "Họ tới đây và đề nghị chúng tôi đóng góp vào các quỹ phục vụ chiến dịch bầu cử của họ. Và chúng tôi làm điều này – Đó là, với tư cách cá nhân… chúng tôi cho tay vào túi và đưa cho họ vài món tiền lớn cho mục đích vận động tranh cử, rồi đến khi một đạo luật chống lại lợi ích của chúng tôi sắp ra đời, chúng tôi tới gặp nhà quản lý và nói: "Có một đạo luật như thế, như thế sắp sửa được ban hành đấy. Chúng tôi không thích thế và muốn ông quan tâm đến lợi ích của chúng tôi". Đó là cách mà mọi người vẫn làm".

Tại sao Rogers lại sẵn lòng giúp đỡ Tarbell như vậy? Một vài người cho rằng, đó là cách ông trả thù Rockefeller, người có mối quan hệ bất hòa với ông. Bản thân Rogers lại có cách giải thích thực tế hơn. Ông nói, tác phẩm của Tarbell "sẽ được coi là tác phẩm cuối cùng về Standard Oil," và dù thế nào Tarbell cũng sẽ viết tác phẩm này nên ông muốn làm mọi thứ có thể để câu chuyện về công ty được "hiểu đúng". Thậm chí, Rogers còn sắp xếp cho Tarbell gặp Henry Flagler, người đang chìm đắm trong hoạt động khai thác dầu quy mô lớn do chính ông làm chủ tại Florida. Tarbell phát cáu khi Flagler chỉ nói với giọng đạo đức giả rằng: "Chúng tôi giàu lên được là nhờ Chúa". Rogers cũng nói chung chung rằng ông có thể sẽ sắp xếp một cuộc phỏng vấn với Rockefeller, nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra. Rogers cũng không giải thích nguyên nhân.

Tarbell nói với một đồng nghiệp rằng, mục tiêu của bà là viết được "một câu chuyện lịch sử về Standard Oil". Bà "không có dự định" viết một câu chuyện "gây tranh cãi, mà là một bản tường thuật đi thẳng vào công ty độc quyền khổng lồ này, với sự sinh động và kịch tính mà tôi có thể tạo ra". Tự hào về những thành tựu của bản thân cũng như về công ty của mình, chắc hẳn Rogers cũng có cảm tưởng như vậy. Cho dù dự định ban đầu của Tarbell là gì đi nữa, thì loạt bài viết bắt đầu xuất hiện trên tờ McClue’s vào tháng 11 năm 1902 thực sự là một quả bom tấn.

Tháng này sang tháng khác, bà tung ra câu chuyện về những mưu đồ và hành vi thao túng, về việc hạ giá và sự cạnh tranh tàn bạo, về một Standard chỉ mỗi một ý đồ duy nhất và cuộc chiến bất tận mà công ty này giáng xuống đầu những công ty độc lập vốn đã mang đầy thương tích. Những bài báo này trở thành chủ đề bàn luận trên khắp cả nước và mở ra cánh cửa cho những nhà cung cấp tin tức mới. Sau một vài tháng đầu, Tarbell trở về Titusville thăm gia đình. Bà nói: "Thật thú vị khi thấy mọi việc đang diễn ra tốt đẹp và con vẫn chưa bị bắt cóc hay kiện ra tòa vì tội phỉ báng như một vài người bạn dự đoán. Mọi người sẵn sàng nói chuyện thoải mái với con". Ngay cả Rogers, bất chấp tất cả, vẫn dành cho Tarbell sự tiếp đón thân mật.

Nhưng sau đó, khi bà công bố một bài viết tiết lộ thông tin về cách thức hoạt động của hệ thống tình báo của Standard Oil thì Rogers nổi giận. Ông cắt đứt quan hệ và từ chối gặp bà. Tarbell vẫn không hề hối hận về những gì đã viết. Sau này, bà có nói, chính "sự sáng tỏ của những hoạt động gián điệp này… khiến tôi căm ghét Standard". Vì "có một sự đê hèn dường như vô cùng đáng khinh bỉ khi đem so sánh với những tài năng lớn gia nhập tổ chức này. Không một điều gì khác về Standard lại khiến tôi có cảm giác như vậy". Và chính cảm giác đó tạo cho các bài viết vạch trần những hành vi của Standard của Tarbell sức công phá mạnh mẽ.

Loạt bài của Tarbell được đăng liên tục trong 24 tháng và sau đó, vào tháng 11 năm 1904, được xuất bản thành một cuốn sách có tựa đề The History of Standard Oil Company (Lịch sử Công ty Standard Oil), với 64 phụ lục. Tác phẩm này có nội dung rất rõ ràng và có sức thuyết phục lớn. Tuy nhiên, ẩn dưới một văn phong được kiềm chế chính là sự giận dữ mãnh liệt và lời buộc tội sâu sắc đối với Rockefeller và những hành vi tàn bạo của tờ-rớt này.

Theo Tarbell, mặc dù có nhiều cống hiến thể hiện rõ những nguyên tắc xử thế của người Cơ đốc giáo, Rockefeller vẫn là một nhân vật tàn bạo, phi nhân tính. Bà viết: "Rockefeller đã chơi có hệ thống bằng một con xúc xắc gài bẫy, và từ năm 1872 chưa lần nào ông ta xuất phát công bằng trong cuộc đua với một đối thủ". Việc xuất bản cuốn sách của Ida Tarbell là một sự kiện lớn. Một nhà báo miêu tả cuốn sách lịch sử này là "tác phẩm xuất sắc nhất nước Mỹ về đề tài này". Samuel McClue nói với Tarbell: "Nói chung, bây giờ bà đã là người phụ nữ nổi tiếng ở Mỹ rồi… Đâu đâu người ta cũng nói về bà với sự sùng kính đến nỗi tôi đang cảm thấy e sợ bà đấy". Sau đó, từ châu Âu, McClue cho hay, thậm chí ngay cả những tờ báo ở đại lục này cũng "liên tục nhắc đến tác phẩm của bà".

Mãi tới thập niên 1950, các nhà sử học nghiên cứu về Standard Oil, những người vốn có thái độ không mấy thân thiện với cuốn sách của Tarbell, mới tuyên bố: "có lẽ cuốn sách này được nhiều người mua và nội dung của nó phổ biến rộng rãi trong công chúng hơn bất kỳ tác phẩm nào về lịch sử kinh tế và kinh doanh của nước Mỹ". Rõ ràng, đây là cuốn sách có ảnh hưởng nhất về chủ đề kinh doanh từng được xuất bản ở Mỹ. Tarbell giải thích: "Tôi không bao giờ phản đối quy mô và sự thịnh vượng của Standard, cũng như không bao giờ phản đối hình thức doanh nghiệp của họ. Tôi cũng cho rằng họ nên hợp nhất, phát triển lớn mạnh và giàu có ở mức họ có thể, nhưng chỉ bằng những cách thức hợp pháp. Tuy nhiên, họ chưa bao giờ chơi công bằng và điều đó đã hủy hoại sự vĩ đại của họ trong tôi". Tuy vậy, Ida Tarbell vẫn chưa thỏa mãn.

Năm 1905, bà tiếp tục theo đuổi đề tài này bằng cuộc tấn công cuối cùng – dựng lên một bức chân dung của Rockefeller. Người viết tiểu sử của Tarbell viết: "Bà phát hiện ông ta bị rụng tóc, có những cục u và là con trai của một người buôn dầu lửa xảo quyệt". Quả thực, Tarbell đã lấy hình dáng bên ngoài, bao gồm cả chứng rụng tóc do sức khỏe kém gây ra của Rockefeller để mô tả sự xuống cấp về đạo đức trong con người ông. Có lẽ, đó là sự báo thù cuối cùng của một người con gái thật sự của Vùng đất dầu. Vì khi Tarbell đang hoàn thành bài báo cuối cùng, cha bà, một nhà kinh doanh dầu lửa độc lập từng chống lại Rockefeller và bị đánh bại, qua đời ở Titusville.

Ngay khi kết thúc bài báo, bà vội vã trở về nhà, đến bên giường người cha quá cố. Vậy Rockefeller phản ứng thế nào? Khi những bài báo của Tarbell được xuất bản, một người hàng xóm già ghé thăm ông trùm dầu lửa đã đề cập tới nhân vật mà ông gọi là "bà bạn" của Rockefeller – Ida Tarbell. Rockefeller trả lời: "Tôi nói cho ông biết nhé, mọi thứ đã thay đổi kể từ khi ông và tôi còn là những đứa trẻ. Thế giới đầy những người xã hội chủ nghĩa và những người theo chủ trương vô chính phủ. Bất kỳ ai có được thành công lớn trong một lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ bị họ nhảy bổ vào chê bai".

Sau đó, người hàng xóm trên đã gọi quan điểm của Rockefeller là quan điểm "của một chiến binh trong trận chiến, biết rằng thỉnh thoảng mình sẽ bị đánh vào đầu. Ông ấy không phải là người ít chịu đau đớn nhất vì bất kỳ đòn tấn công nào. Ông ấy vẫn cho rằng Standard làm được nhiều việc tốt hơn là những việc xấu". Vào dịp khác, có người tình cờ nghe thấy Rockefeller nói về "bà bạn" với cái tên thân mật – "Cô Thùng nhựa đường".

Bom phá tờ-rớt

Tarbell hoàn toàn không phải là một người xã hội chủ nghĩa. Nếu có một cương lĩnh cho cuộc tấn công của bà vào Standard Oil thì đó chính là lời kêu gọi tìm kiếm một lực lượng đối kháng để chống lại sức mạnh của doanh nghiệp này. Đối với Theodore Roosevelt, người trở thành Tổng thống Mỹ năm 1901, lực lượng đối kháng này chỉ có thể là Chính phủ. Theodore Roosevelt là hiện thân của phong trào tiến bộ. Ông là Tổng thống Mỹ trẻ tuổi nhất tính đến thời điểm đó, một con người luôn tràn đầy sinh lực và lòng nhiệt tình. Người ta gọi ông là "ngôi sao băng của thời đại". Sau cuộc gặp gỡ với Roosevelt, một nhà báo viết: "Anh hãy bộc lộ cá tính của mình".

Roosevelt theo đuổi sự nghiệp cải cách trên mọi phương diện, từ việc làm trung gian cho cuộc chiến tranh Nga – Nhật tới việc thúc đẩy cách viết chính tả đơn giản. Với việc thứ nhất, ông được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1906. Còn với việc thứ hai, cũng trong năm 1906, ông vận động Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ thích nghi với 300 cách viết giản tiện của những từ quen thuộc – ví dụ, viết "dropt" thay vì viết "dropped". Tòa án tối cao không chấp nhận những cách viết như vậy trong các văn bản luật, nhưng Roosevelt vẫn kiên quyết sử dụng cách viết này trong thư từ cá nhân của ông.

Chính Roosevelt là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "người cào bùn" để chỉ các nhà báo và phong trào tiến bộ. Ông dùng từ này với nghĩa chế giễu vì cho rằng, những cuộc tấn công của họ vào các chính trị gia và các công ty là quá tiêu cực và quá tập trung vào "mặt xấu xa và việc hạ thấp" những đối tượng đó. Ông lo ngại những bài viết của các nhà báo này sẽ làm bùng lên ngọn lửa cách mạng và cuốn mọi người vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa vô chính phủ. Tuy nhiên, ông đã sớm lấy chương trình hành động của họ làm chương trình của mình – bao gồm việc chỉnh đốn các công ty đường sắt và ngành công nghiệp đóng gói thịt đang trong tình trạng khủng khiếp, cũng như bảo vệ các nhà sản xuất thực phẩm và dược phẩm.

Trọng tâm trong chương trình của Roosevelt là kiểm soát sức mạnh của các doanh nghiệp và mục tiêu này khiến ông có biệt danh là "Bom phá tờ-rớt". Ông không phản đối bản thân các tờ-rớt. Thực tế, ông coi việc hợp nhất là đặc điểm tất yếu và logic của sự tiến bộ kinh tế. Roosevelt từng cho rằng, việc dùng pháp luật để chống lại xu thế hợp nhất khó hơn cả việc chống đỡ những trận lụt vào mùa xuân trên sông Missisippi. Tuy nhiên, vị tổng thống này cũng nói: "Chúng ta có thể điều chỉnh và kiểm soát chúng bằng những con đê," có nghĩa là, bằng các quy định và giám sát của dư luận. Theo ông, việc cải cách như vậy rất quan trọng để tránh chủ nghĩa cấp tiến và cách mạng và duy trì hệ thống hiện tại của nước Mỹ. Roosevelt có sự phân biệt giữa tờ-rớt "tốt" và tờ-rớt "xấu", và chỉ những tờ-rớt "xấu" mới đáng bị giải thể. Trong sự nghiệp này, ông không bao giờ chịu dừng lại. Dưới thời Roosevelt có ít nhất 45 vụ kiện chống độc quyền.

Những trận chiến tiếp theo chĩa mũi nhọn chính vào, ông tổ của các tờ-rớt - Standard Oil. Công ty của Rockefeller trở thành con rồng mà hiệp sĩ dũng mãnh Roosevelt thích tấn công vì không có đối thủ nào tuyệt vời hơn cho trận đấu. Mặc dù vậy, Roosevelt vẫn tìm kiếm sự ủng hộ của khu vực doanh nghiệp lớn trong chiến dịch bầu cử của ông năm 1904, và ban lãnh đạo của Standard Oil đã cố gắng chìa tay ra với ông. Khi một nghị sĩ có quan hệ thân thiện với Standard Oil, đồng thời cũng là chủ tịch một công ty con của Standard, cho Archbold biết, Roosevelt nghĩ rằng công ty của Rockefeller đối lập với ông, Archbold đã trả lời: "Tôi luôn ngưỡng mộ ngài tổng thống và đã đọc mọi cuốn sách ông ấy viết." Vị nghị sĩ này có một ý tưởng rất hay.

Một tác giả là tổng thống, đặc biệt là một người sáng tác nhiều như Roosevelt, chắc chắn sẽ là đối tượng của những lời tâng bốc. Ông truyền đạt những lời nói trên của Archbold tới tổng thống và sử dụng cách mào đầu đó để sắp xếp một cuộc gặp gỡ. Đắc thắng, nghị sĩ này viết thư cho Archbold, nói: "Lĩnh vực sách" đã đem lại thành công trong trò chơi ngay từ phát bắn đầu tiên". Nhưng ông này cũng cảnh báo: "Ít nhất, ông nên đọc tựa đề của các cuốn sách đó để nhớ lại nội dung của chúng trước khi tiến hành bước tiếp theo". Sự tâng bốc có thể đưa Archbold tới được cánh cửa trước, nhưng không thể giúp ông tiến xa thêm.

Một vài năm sau, ông giận dữ nói: "Vùng Abyssinia (tên cũ của Ethiopia) cũng chưa từng chứng kiến bất kỳ điều gì giống như cách chính phủ đối xử với chúng tôi sau khi Roosevelt thắng cử năm 1904". Trước ngày bầu cử, Đảng Dân chủ đã đem chuyện những doanh nghiệp lớn đóng góp cho chiến dịch tranh cử của phe Cộng hòa, bao gồm 100 nghìn đô-la của Archbold và H. H. Rogers trở thành một chủ đề gây tranh cãi lớn. Roosevelt liền ra lệnh trả lại số tiền 100 ngàn đô-la kia và ngay sau đó, đột nhiên công khai hứa với mọi người Mỹ điều đã trở thành khẩu hiệu của ông, một "thỏa thuận sòng phẳng".

Liệu số tiền trên có thật sự được trả lại hay không là một vấn đề khác. Bộ trưởng Tư pháp Philander Knox kể với William Howard Taft[4], người kế nhiệm Roosevelt rằng, khi ông bước vào văn phòng Roosevelt vào tháng 10 năm 1904, ông nghe thấy tổng thống đang đọc cho thư ký viết một bức thư chỉ đạo việc trả lại số tiền 100 nghìn đô-la cho Standard Oil. "Tại sao vậy, thưa Tổng thống, số tiền đó đã bị tiêu hết rồi. Họ không thể trả lại số tiền đó được, họ không có số tiền đó". Knox nói. Roosevelt trả lời: "Ồ, nhưng dù sao, lá thư này cũng sẽ được lịch sử ghi nhận".

Ngay sau khi Roosevelt trúng cử năm 1904, chính quyền của vị tổng thống này mở một cuộc điều tra Standard Oil và ngành công nghiệp dầu lửa. Kết quả là một bản chỉ trích gay gắt việc tờ-rớt này kiểm soát lĩnh vực vận tải, được thổi phồng thêm bởi những lời tố cáo Standard của chính Roosevelt. Áp lực bất lợi cho Standard ngày càng tăng đến mức Archbold và H. H. Rogers phải vội vã tới Washington vào tháng 3 năm 1906 để gặp Roosevelt và xin tổng thống không cho tiến hành kiện Standard.

Sau cuộc gặp với Roosevelt, Archbold viết thư gửi cho một giám đốc khác của Standard là Henry Flagler, nói rằng: "Chúng tôi nói với ông ấy rằng chúng ta đã bị điều tra đi điều tra lại rồi, báo cáo đi báo cáo lại rồi. Nhưng chúng ta có thể chịu đựng được điều đó. Ông ấy kiên nhẫn lắng nghe tất cả những gì chúng tôi nói và tôi nghĩ là ông ấy cũng khá bị ấn tượng…. Không thể nào buổi làm việc với tổng thống lại không có kết quả tốt đẹp".

Vụ kiện

Archbold đang lừa dối bản thân và đồng nghiệp. Vì vào tháng 11 năm 1906, điều phải đến cuối cùng đã đến: Tại tòa án lưu động liên bang ở St. Louis, chính quyền Roosevelt đã tiến hành vụ kiện chống Standard Oil. Theo Đạo luật Chống độc quyền Sherman năm 1890, Standard bị buộc tội có âm mưu cản trở thương mại. Trong thời gian diễn ra vụ kiện này, Roosevelt thổi bùng ngọn lửa căm hận trong dư luận.

Tổng thống công khai tuyên bố: "Trong sáu năm qua, những con người này không hề trung thực trong kinh doanh". Ông còn nói riêng với Bộ trưởng Tư pháp rằng, các giám đốc của Standard là "những tên tội phạm lớn nhất của đất nước này". Bộ Chiến tranh (tên gọi cũ của Bộ Quốc phòng) thông báo sẽ ngừng mua các sản phẩm dầu của Standard Oil. Không muốn bị qua mặt, ứng cử viên lâu năm cho chức tổng thống của phe Dân chủ, William Jennings Bryan, cũng tuyên bố rằng điều tốt đẹp nhất có thể xảy ra cho nước Mỹ là việc đưa Rockefeller ra tòa. Standard Oil nhận ra rằng mình đang ở trong một cuộc chiến một mất một còn. Cục diện đã thay đổi và giờ đây, Chính phủ Mỹ đang đưa Standard vào tình huống "toát mồ hôi hột".

Một lãnh đạo của Standard viết cho Rockefeller: "Chính phủ đã bắt đầu một chiến dịch có tính toán nhằm hủy diệt Standard và tất cả những người có dính líu đến tờ-rớt này, cũng như sử dụng mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu đó". Để phòng vệ, Standard huy động những luật sư tài năng nhất. Đứng đầu vụ kiện của Chính phủ Mỹ là luật sư Frank Kellogg, người 20 năm sau trở thành Ngoại trưởng Mỹ. Trong hơn 2 năm, 444 nhân chứng đã cung cấp lời khai và 1.371 vật chứng được đưa ra trước tòa. Hồ sơ đầy đủ của vụ kiện này dày tới 14.495 trang và được đóng thành 21 tập. Sau này, thẩm phán Tòa án tối cao đã miêu tả bộ hồ sơ này là "quá đồ sộ… chứa đựng một khối lượng lớn những lời khai trái ngược nhau có liên quan đến những giao dịch đa dạng, phức tạp, trải rộng trong một thời kỳ dài gần 40 năm".

Trong khi đó, các vụ kiện khác chống lại Standard cũng đang diễn ra. Thỉnh thoảng, Archbold lại cố gắng không chú ý tới cuộc tấn công ác liệt từ phía tòa án và chính quyền đó. Trong một bữa tiệc lớn có đông người tham gia, ông phát biểu: "Suốt gần 44 năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, tôi đã tham gia một nỗ lực có phần khó khăn để cản trở hoạt động thương mại của dầu lửa và các sản phẩm từ dầu, tại nước Mỹ, tại quận Columbia, và ở nước ngoài. Lời thú nhận tôi đưa ra với các bạn là một thông tin mật, và tôi tin chắc các bạn sẽ không giao tôi cho chính phủ". Tuy nhiên, dù có đùa tếu như vậy, Archbold và các đồng nghiệp vẫn vô cùng lo lắng.

Năm 1907, ông bí mật viết: "Chính quyền liên bang đang nỗ lực hết sức để chống lại chúng tôi. Tổng thống đã chỉ định các quan tòa, đồng thời cũng là ban hội thẩm xử những vụ kiện công ty này… Tôi không cho rằng họ có thể ăn thịt chúng tôi, cho dù họ có thể thành công trong việc xúi bẩy dân chúng thực hiện việc phá hoại. Chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để bảo vệ các cổ đông. Còn xa hơn nữa thì cả tôi hay bất kỳ ai cũng chưa thể nói được điều gì". Cùng năm đó, trong một vụ kiện khác, Kenesaw Mountain Landis, một quan tòa liên bang đã phạt Standard Oil một khoản tiền lớn vì nhận những khoản chiết khấu trái pháp luật. Quan tòa này cũng lên án "thái độ xấc xược cố ý" của các luật sư bào chữa cho Standard Oil và lấy làm tiếc vì "chưa có sự trừng phạt đích đáng".

Khi Rockefeller đang chơi golf với vài người bạn ở Cleveland thì một cậu bé đưa tin xuất hiện, mang theo quyết định của tòa án. Rockefeller xé chiếc phong bì, đọc nội dung bên trong, rồi bỏ vào trong ví. Sau đó, ông cất lời, phá vỡ sự im lặng: "Ồ, các bạn, chúng ta tiếp tục chứ?" Một người có mặt khi đó không kiềm chế được và hỏi ông phán quyết đó ở mức độ nào. Rockefeller trả lời: "Tôi nghĩ không thể có hình phạt nào cao hơn được nữa – 29 triệu đô-la". Sau đó, ông nghĩ lại và nói thêm: "Còn rất lâu sau khi quan tòa Landis chết, khoản tiền phạt này mới được nộp". Rockefeller chỉ buông mấy lời như vậy rồi lại tiếp tục đánh golf, với thái độ dường như bình thản, và chơi một trong những trận golf hay nhất trong đời. Quả thực, phán quyết của Landis cuối cùng đã bị đảo lộn.

Nhưng sau đó, năm 1909, trong một vụ kiện chống độc quyền lớn, tòa án liên bang, với sự ủng hộ của chính phủ, đã ra lệnh giải thể Standard Oil. Lúc này, Theodore Roosevelt không có mặt tại Văn phòng tổng thống và đang trên đường trở về sau một chuyến đi săn thú lớn ở châu Phi. Ông nghe được tin này khi đang ở trên sông Nile Trắng và rất đắc chí. Ông nói, quyết định này "là một trong những chiến thắng nổi bật nhất dành cho sự khuôn phép từng thiết lập được trên đất nước này". Về phần mình, Standard Oil không bỏ phí thời gian kháng cáo lên Tòa án tối cao. Vụ kiện này được xử lại ở Tòa án tối cao tới hai lần do hai thẩm phán qua đời. Cả ngành công nghiệp dầu lửa và giới tài chính cùng bồn chồn chờ đợi kết quả vụ kiện.

Cuối cùng, vào tháng 5 năm 1911, cuối một buổi chiều hết sức buồn tẻ, Thẩm phán Edward White tuyên bố: "Tôi tuyên bố quan điểm của Tòa án tối cao, nước Mỹ phản đối Công ty Standard Oil". Những con người trong bầu không khí nóng bức, ngột ngạt và ảm đạm của phòng xử án đột nhiên bừng tỉnh và căng tai lắng nghe. Rồi các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ lao vào phòng. Trong 45 phút sau đó, Thẩm phán White phát biểu, nhưng ông nói khó nghe đến nỗi vị thẩm phán ngay bên trái ông nhiều lần phải ngả người về phía trước và đề nghị ông nói to hơn để mọi người có thể nghe thấy những từ ngữ quan trọng.

Thẩm phán White giới thiệu một nguyên tắc mới, trong đó việc đánh giá của cơ quan pháp luật về hành vi hạn chế thương mại theo đạo luật Sherman sẽ dựa trên phương pháp phán xét trên cơ sở giải trình

rewind
play
fast-forward
00:00
/
00:00

Nghe thêm

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo.

Chương 6: Những cuộc chiến dầu mỏ: Sự trỗi dậy của Royal Dutch và sự suy vong của đế chế Nga

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo. Hành tung của anh được một nhân viên của Standard Oil ở Singapore nhanh chóng ghi lại và báo cáo về New York: "Một người đàn ông có tên Abrahams, nghe nói là một người cháu của M. Samuel, của… Xanh-đi-ca của nhà Samuel, từ London tới và ngay lập tức đi đến Kutei, nơi có tin đồn rằng nhà Samuel thuê được những khu vực rộng lớn có dầu. Vì Abrahams chính là người đã khởi đầu lĩnh vực kinh doanh dầu lửa trong các bể chứa ở Singapore và Penang, xây dựng nhà máy ở cả hai nơi này nên chuyến đi của anh ta tới Kutei có thể mang một ý nghĩa nào đó".

Quả thật là như vậy. Vì Mark Abrahams được các bác cử tới để khai thác mỏ dầu mà công ty dầu mỏ của nhà Samuel rất cần để duy trì địa vị, thậm chí là để bảo đảm sự sống còn. Trong vụ làm ăn này, Marcus Samuel bị đặt dưới áp lực của sự cưỡng bách vốn có trong lĩnh vực kinh doanh dầu lửa. Bất kỳ ai hoạt động trong ngành này cũng luôn đi tìm sự cân bằng. Khi đầu tư vào bộ phận này của dầu lửa, họ đồng thời phải đầu tư cả vào bộ phận khác để duy trì tính khả thi của khoản đầu tư trước đó. Muốn đầu tư của mình có giá trị, các nhà sản xuất cần thị trường.

Marcus Samuel từng nói: "Sản xuất ra dầu lửa đơn thuần hầu như chỉ đem lại giá trị thấp nhất và địa vị kém hấp dẫn nhất cho thứ nhiên liệu này. Phải tìm được thị trường. Trong khi đó, các hãng lọc dầu lại cần cả nguồn cung và thị trường, vì một nhà máy lọc dầu không được sử dụng thì cũng không hơn gì đống sắt thép phế liệu. Các công ty cần có dầu để mua và bán, nếu không, chắc chắn họ sẽ thua lỗ. Mức độ cấp thiết của những nhu cầu đó thay đổi tùy theo từng thời điểm, tuy nhiên tính cưỡng bách cơ bản thì lại là một hằng số của ngành công nghiệp.

Cuối thập niên 1890, với khoản tiền đầu tư khổng lồ vào tàu chở dầu và hệ thống kho chứa, Marcus Samuel rất cần một nguồn cung cấp dầu lâu dài. Là một thương gia, ông quá hiểu rõ điều này. Hợp đồng dầu lửa với nhà Rothschild sẽ hết hạn vào tháng 10 năm 1900. Liệu ông có thể hy vọng được gia hạn hợp đồng? Dù sao, mối quan hệ giữa ông và nhà Rothschild là một mối quan hệ không bền vững và luôn có khả năng những ông chủ nhà băng này quay sang thỏa thuận với Standard Oil. Ngoài ra, việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu lửa của Nga là rất nguy hiểm.

Samuel phàn nàn, cước phí vận tải ở Nga thay đổi tùy tiện khiến các nguyên lý kinh tế rối tung, biến ngành kinh doanh dầu lửa ở Nga thành một lĩnh vực "giật gấu vá vai" và "đẩy những ai buôn bán dầu lửa với nước này vào một vị thế bất lợi lớn so với các đối thủ Mỹ hùng mạnh". Ngoài ra, những mối nguy hiểm khác như: Sản lượng dầu lửa từ vùng Đông Ấn Hà Lan đang tăng lên, cùng với những quãng đường vận tải ngắn hơn và cước phí vận tải rẻ hơn, khiến Samuel gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng cạnh tranh ở vùng Viễn Đông.

Mặt khác, bất cứ lúc nào, Standard Oil cũng có thể huy động mọi nguồn lực để mở một cuộc chiến tổng lực nhằm hủy diệt Shell. Samuel hiểu một điều rất đơn giản rằng ông cần phải khai thác dầu, phải có dầu thô của chính ông để bảo vệ thị trường và những khoản đầu tư của mình – thực tế là, để bảo đảm sự sống còn của Shell. Tiểu sử của Samuel viết: "Trong cuộc săn tìm dầu lửa, ông chỉ còn thiếu nước hóa điên".

Rừng nhiệt đới

Năm 1895, nhờ những nỗ lực của một kỹ sư khai mỏ người Hà Lan đã có tuổi và bị ám ảnh bởi dầu lửa, người đã dành cả quãng đời trưởng thành của mình trong những khu rừng nhiệt đới ở Đông Ấn, Samuel đã thuê được một mỏ dầu ở khu vực Kutei thuộc Đông Borneo. Mỏ dầu này trải dài hơn 50 dặm dọc theo bờ biển và vươn sâu vào tận trong rừng. Khu rừng rậm rạp và xa xôi này chính là nơi Mark Abrahams được phái tới giám sát công việc khai thác dầu. Anh không hề có kinh nghiệm khoan tìm hay lọc dầu. Tuy anh đã tổ chức việc xây dựng các kho chứa dầu ở Viễn Đông, nhưng điều đó hầu như chẳng giúp được gì trong nhiệm vụ mới và khó khăn hơn nhiều. Sự thiếu kinh nghiệm của Mark Abrahams còn được phản chiếu trên một quy mô lớn hơn trong trường hợp của chính Marcus Samuel. Đó là cái cách ông làm kinh doanh – nỗi ác cảm với công việc tổ chức cũng như phương pháp phân tích và lên kế hoạch có hệ thống, cùng với sự thiếu hụt đội ngũ quản lý và nhân viên có năng lực – đã khiến công việc trong khu rừng nhiệt đới ở Borneo càng thêm khó khăn.

Những con tàu luôn đến sai giờ và chở thiết bị không đúng yêu cầu, thậm chí còn không có cả bảng kê khai hàng hóa. Hàng hóa được dỡ ngay xuống bãi biển, buộc các công nhân phải dừng mọi việc khác để tập hợp và xếp loại các thiết bị. Nhiều thiết bị được chở tới cuối cùng cũng bị vứt lay lắt cho đến khi hoen gỉ trên những bãi cỏ mọc cao. Thậm chí, không có sự điều hành lộn xộn và rời rạc từ London, công việc ở đây cũng đã vô cùng khó khăn. Borneo là một nơi xa xôi với thế giới bên ngoài, còn hơn cả Sumatra. Cảng gần nhất để lấy hàng tiếp tế và thiết bị cách đó một nghìn dặm, ở tận Singapore.

Con đường liên lạc duy nhất với Singapore là thông qua những con tàu lẻ loi đi ngang qua Borneo một hai tuần một lần. Các nhóm công nhân, bị chia ra trên những khu vực khác nhau của mỏ dầu, phải liên tục vật lộn với rừng rậm. Họ cố gắng lắm mới mở được một con đường dài bốn dặm để đi ngang qua khu rừng tới một nơi có dầu rỉ ra được gọi là Điểm Đen, nhưng chỉ trong vòng một vài tuần cây cối mọc rậm trở lại.

Về mặt nhân công, dự án phải phụ thuộc vào những người khuân vác đưa từ Trung Quốc sang vì các nhà tuyển người địa phương không mấy tha thiết với công việc này. Bệnh tật và những trận sốt liên tục tấn công những người làm việc trên các khu khai thác dầu. Thông thường, mỗi khi Abrahams ngồi dậy lúc nửa đêm để viết báo cáo gửi về nhà, chính anh cũng ở trong trạng thái nửa mê sảng vì sốt. Tỷ lệ tử vong của những người làm việc tại nơi này, gồm các công nhân Trung Quốc, các nhà quản lý châu Âu và thợ khoan Canada, rất cao. Một số người chết trên tàu, thậm chí trước khi họ tới nơi. Những mảnh gỗ mà họ cố gắng dùng để xây bất cứ thứ gì, dù là một ngôi nhà, một cây cầu hay một bức tường, đều nhanh chóng mục ruỗng.

undefined

Marcus Samuel.

"Những cơn mưa nhiệt đới nóng, ẩm, làm mục rữa và phá hủy mọi thứ" dai dẳng bám lấy họ. Một lần nữa, những người nhà Samuel ở London và Mark Abrahams ở Borneo bắt đầu trao đổi thư từ với những lời lẽ xỉ vả mạnh mẽ, đầy bão tố, như họ đã làm trong những ngày xây dựng các kho chứa dầu ở vùng Viễn Đông. Bất kể Abrahams làm việc gì và công việc đó khó nhọc và đáng nản đến mức nào, các ông bác của anh cũng không cảm thấy hài lòng. Họ không thể hiểu được thực trong khu rừng nhiệt đới này. Khi Marcus Samuel cằn nhằn rằng những ngôi nhà xây cho người châu Âu làm việc tại mỏ dầu là "những tòa biệt thự" sang trọng, trông giống như "hai khu nghỉ mát", Abrahams giận dữ đáp lại: "Những tòa biệt thự" của họ tạm bợ đến nỗi "một cơn gió mạnh hoặc trận mưa to có thể mang đi cả mái nhà. Những ngôi nhà ở đây chỉ thích hợp để nhốt lợn".

Tuy vậy, bất chấp tất cả, tháng 1 năm 1897, giếng dầu đầu tiên đã được phát hiện, và tới tháng 4 năm 1898, giếng dầu phun đầu tiên được tìm thấy. Tuy nhiên, từ chỗ phát hiện ra dầu đến sản xuất thương mại còn cần thêm nhiều nỗ lực. Ngoài ra, dầu thô Borneo lại có hàm lượng dầu hỏa thấp. Mặc dù vậy, khi chưa được lọc, loại dầu này có thể được dùng làm dầu nhiên liệu. Tính chất này của dầu thô nặng Borneo đã đặt nền móng cho một tầm nhìn mà sau này, Samuel luôn hăng hái theo đuổi. Ông gọi tầm nhìn này là "vai trò to lớn mà dầu lửa, ở dạng hợp lý nhất của nó, có thể nắm giữ, vai trò của năng lượng".

Khi thế kỷ XX đang đến gần, Samuel nhìn về phía trước để tiên toán, và đúng như vậy, trong tương lai vĩ đại của dầu lửa, đây sẽ không chỉ là một nguồn chiếu sáng mà còn là một nguồn năng lượng. Còn Marcus Samuel sẽ trở thành người đề xướng mạnh mẽ nhất việc chuyển tàu bè từ chạy than sang chạy dầu. Sự phát triển có tính chất lịch sử đó đã thật sự nhen nhóm vào những năm 1870, khi ostaki, tên gọi Nga của phần bã thừa trong quá trình lọc hóa lấy dầu hỏa, lần đầu tiên được sử dụng để chạy tàu trên biển Caspi thành công. Chính sự thúc bách về nguồn năng lượng đã làm nảy sinh phát minh này: Nga phải nhập khẩu than từ Anh với chi phí rất cao, còn củi lại rất hiếm hoi tại nhiều vùng của đế quốc này. Sau đó, những con tàu đi trên tuyến đường sắt mới xuyên Siberia bắt đầu sử dụng dầu nhiên liệu do công ty của Samuel cung cấp qua Vladivostok, thay vì dùng than hay củi. Hơn nữa, vào thập niên 1890, Chính phủ Nga cũng khuyến khích sử dụng dầu lửa làm nhiên liệu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung.

Tại Anh, trong một số trường hợp, ngành đường sắt cũng chuyển từ dùng than sang dùng dầu nhằm giảm lượng khói thải ra ở các khu vực đô thị hoặc vì những lý do an toàn đặc biệt, như khi chở các thành viên của gia đình hoàng tộc. Tuy nhiên, nhìn chung, than vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn vì trên thực tế, than là cơ sở cho ngành công nghiệp nặng ở Bắc Mỹ và châu Âu phát triển trên quy mô rộng. Than cũng là nhiên liệu cho các đội tàu thương mại và hải quân trên thế giới. Và tầm nhìn của Samuel vấp phải sự phản đối mạnh mẽ ngay trên phân đoạn thị trường mà ông quan tâm nhất – Hải quân Hoàng gia Anh. Ông đã bỏ ra hơn một thập kỷ tìm cách mở cánh cửa vào thị trường này, mà không thu được kết quả nào.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)

Kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 8 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà nam giới thiệu, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

CHƯƠNG 7: "NHỮNG TRÒ GIẢI TRÍ" Ở BA TƯ

Cuối năm 1900, Antoine Kitabgi, một tướng quân Ba Tư bảnh bao, đã tới Paris. Có lúc ông được cho là người gốc Armenia, lại có lúc được cho là người gốc Georgia, Kitabgi từng giữ nhiều vị trí trong Chính phủ Ba Tư, kể cả chức Tổng giám đốc Cục Hải quan. Một nhà ngoại giao Anh nói, Kitabgi "là người tinh thông các vấn đề phương Tây, có thể vạch ra một thỏa thuận hoặc đề xướng những hoạt động thương mại". Đó là những kỹ năng thích hợp cho nhiệm vụ của ông. Lý do bề ngoài của chuyến viếng thăm là lễ khai mạc Triển lãm Ba Tư ở Paris, nhưng mục đích chính của Kitabgi lại là tìm kiếm một nhà đầu tư ở châu Âu muốn thuê mỏ dầu ở Ba Tư. Kitabgi không chỉ phục vụ lợi ích của riêng mình – chắc chắn ông sẽ được đền đáp thỏa đáng – mà còn phục vụ cho lợi ích của Chính phủ Ba Tư. Trong những vấn đề rất hiển nhiên mà Chính phủ Ba Tư đang phải đối mặt, việc thiếu tiền trầm trọng.

Theo Thủ tướng Ba Tư thì nguyên nhân là do "tính hoang phí của Shah". Kết quả của những nỗ lực của tướng Kitabgi sẽ chứng minh đây là một vụ giao dịch có quy mô lớn nhất trong lịch sử. Mặc dù số phận của thỏa thuận này như ngàn cân treo sợi tóc trong vòng nhiều năm, nhưng nó sẽ mở ra kỷ nguyên dầu lửa ở Trung Đông và cuối cùng, đẩy khu vực này tới vị trí trung tâm của những bất đồng quốc tế về chính trị và kinh tế. Còn bản thân Ba Tư – hay Iran, như quốc gia này được biết tới từ năm 1935 trở đi – sẽ nổi lên với vị thế cao trên trường quốc tế, một vị thế chưa từng có kể từ thời kỳ đế quốc Ba Tư và Parthi cổ đại.

undefined
Mỏ dầu ở Ba Tư

"Một nhà tư bản hạng nhất"

Ở Paris, Kitabgi tìm sự giúp đỡ của một nhà ngoại giao Anh đã về hưu. Sau khi cân nhắc, ông ta báo cáo Kitabgi: "Tôi đã nói chuyện với một nhà tư bản hạng nhất về vấn đề dầu lửa. Ông ấy tuyên bố sẵn sàng xem xét chuyện này". Nhà tư bản đó là William Knox D’Arcy. Sinh năm 1849 ở Devon, nước Anh, D’Arcy nhập cư vào Australia và tại đây, ông trở thành luật sư tại một thị trấn nhỏ và nảy sinh niềm đam mê đặc biệt với môn đua ngựa. Với bản tính sẵn sàng nắm bắt cơ hội, D’Arcy đã tổ chức một nghiệp đoàn để đưa một mỏ vàng cũ trở lại hoạt động. Mỏ này hóa ra vẫn còn rất nhiều vàng, và sau đó, ông quay về Anh sống cuộc đời cực kỳ giàu có. Sau khi người vợ đầu tiên qua đời, ông cưới Nina Boucicault, một nữ diễn viên nổi tiếng, người có những thú tiêu khiển rất xa xỉ. Thậm chí, Enrico Caruso đã tới hát trong những bữa tiệc tối của đôi vợ chồng này. Ngoài ngôi nhà ở London, D’Arcy sở hữu hai điền trang ở ngoại ô và một trong hai lô riêng ở trường đua Epson – lô kia là của Hoàng gia Anh. Ông là một nhà đầu tư, một nhà đầu cơ, một nhà tổ chức các nghiệp đoàn, nhưng không phải là một nhà quản lý, và ông đang tìm kiếm một cơ hội đầu tư mới. Triển vọng về dầu lửa ở Ba Tư đã hấp dẫn D’Arcy. Lại một lần nữa, ông sẵn sàng chộp lấy cơ hội, và với việc nắm bắt cơ hội này, ông sẽ trở thành người sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa ở Trung Đông. Những khu vực có dầu ở Ba Tư đã được biết đến trong nhiều thế kỷ.

Ở đất nước này, dầu đã được sử dụng cho nhiều mục đích như chít thuyền và gắn các viên gạch. Năm 1872, rồi năm 1889, Nam tước Julius de Reuter, người sáng lập hãng tin Reuters, đã thuê được hai mỏ dầu ở Ba Tư. Tuy nhiên, việc làm đó đã gây ra sự chống đối lớn ở Ba Tư và Nga. Thêm vào đó, những nỗ lực tìm kiếm dầu cũng không thành công và gây ra nhiều lãng phí. Cuối cùng, hợp đồng thuê hai mỏ dầu này đã bị huỷ bỏ. Trong thập niên 1890, một nhà địa chất người Pháp bắt đầu xuất bản các báo cáo dựa trên nghiên cứu mở rộng của ông ở Ba Tư, cho thấy tiềm năng lớn về dầu lửa ở đây. Công trình của ông được nhiều người biết tới, trong đó có tướng Kitabgi, người rất muốn gài bẫy D’Arcy và hứa hẹn với nhà triệu phú này về một "nguồn của cải vô biên". Làm sao người ta có thể không quan tâm? Nhưng trước tiên cần phải giành được quyền thuê đất đã.

Ngày 25 tháng 3 năm 1901, đại diện của D’Arcy rời Paris, đi qua Baku và tới Tehran vào ngày 16 tháng 4. Các cuộc đàm phán tại thủ đô của Ba Tư diễn ra chậm chạp và liên tục đứt quãng nên lúc rảnh rỗi, đại diện của D’Arcy lại đi tìm mua những tấm thảm và hàng thêu. Nhà trung gian lâu năm Antoine Kitabgi thì bận rộn hơn. Theo công sứ Anh tại Ba Tư, ngài Arthur Hardinge, thì Kitabgi "bằng một cung cách rất chu đáo, tìm kiếm sự ủng hộ của tất cả các bộ trưởng và cận thần quan trọng của Shah. Thậm chí, Kitabgi còn không quên cả tay người hầu vẫn mang tẩu thuốc và cà phê sáng cho Shah".

Anh chống lại Nga

Trước đây, Ba Tư là đế quốc cổ đại dưới sự trị vì của Cyrus Đại đế và Darius I. Cho tới thế kỷ V, quốc gia này trải dài từ Ấn Độ tới khu vực ngày nay là Hy Lạp và Libya. Sau đó, đế quốc Parthia nổi lên trên khu vực Iran ngày nay và trở thành đối thủ đáng gờm của đế quốc La Mã. Ba Tư là một ngã tư lớn cho các hoạt động mậu dịch và các cuộc chinh phạt giữa châu Á và phương Tây. Từng làn sóng nối tiếp nhau của những đoàn quân và nhiều dân tộc đã đi qua nơi này, và từng định cư tại đây. Alexander Đại đế như cơn lốc quét tới từ phương Tây, Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ ào tới từ phương Đông.

Cuối thế kỷ XVIII, một vương triều tham lam mang tên Qajar đã giành được quyền kiểm soát một đất nước đã bị chia nhỏ thành các công quốc của những viên thủ lĩnh giành thắng lợi trong chiến tranh và những liên minh bộ tộc. Việc cai trị của các Shah Qajar trong một thế kỷ rưỡi diễn ra không dễ dàng. Vào thế kỷ XIX, một đất nước vốn quen với việc xâm lược các dân tộc khác nhận ra mình đang là đối tượng của một áp lực mới từ bên ngoài – cuộc cạnh tranh thương mại và ngoại giao giữa Nga và Anh để giành quyền thống trị Ba Tư. Điều này tất yếu khiến các Shah Qajar bận tâm, vì họ đang tìm cách làm cho hai cường quốc này chống lại nhau. Sự thù địch giữa Anh và Nga đã biến Ba Tư thành một vấn đề lớn trong chính sách đối ngoại của Anh. Ngài Curzon, toàn quyền Ấn Độ, coi Ba Tư là một trong những "mảnh ghép của một bàn cờ, nơi người ta đang chơi một ván cờ để giành quyền cai trị thế giới".

Đầu thập niên 1860, Nga bắt đầu nỗ lực mở rộng và thôn tính khu vực Trung Á. Quốc gia này còn vươn tầm ngắm qua Trung Á, tính tới chuyện kiểm soát các nước láng giềng và thôn tính được một cảng nước ấm. Đối với Anh, sự bành trướng của Nga là mối đe dọa trực tiếp đến Ấn Độ và những tuyến đường dẫn tới đây. Năm 1871, Bộ Ngoại giao Anh tuyên bố, bất kỳ nguồn lực nào giúp tăng cường sức mạnh của Ba Tư chống lại bước tiến của Nga cũng "có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ Ấn Độ". Nga đang trên đà mở rộng khắp khu vực. Năm 1885, Nga mở cuộc tấn công vào nước láng giềng Afghanistan và suýt làm nổ ra một cuộc chiến tranh giữa Nga và Anh. Cuối thế kỷ XIX, Nga lại tiếp tục gây áp lực với Ba Tư. Trong bối cảnh đó, Anh tìm cách duy trì nguyên trạng Ba Tư để làm một vùng đệm giữa Nga và Ấn Độ. Hai cường quốc đã tranh giành ảnh hưởng đối với Ba Tư thông qua những hợp đồng thuê đất, những khoản vay và các công cụ ngoại giao kinh tế khác. Tuy nhiên, khi bước sang thế kỷ mới, địa vị của Anh ở đây trở nên bấp bênh, vì Ba Tư dường như đã nằm trong vòng kiểm soát của Nga.

Trong khi nền kinh tế của Ba Tư đã hòa nhập đáng kể vào nền kinh tế Nga, Nga còn tìm cách xây dựng một căn cứ hải quân ở vịnh Ba Tư. Theo lời của vị công sứ người Anh Hardinge, Shah Muzaffar al-Din của Ba Tư "chỉ là một đứa trẻ lớn tuổi" và "bản thân chế độ quân chủ của Ba Tư đã già cỗi và bị quản lý yếu kém trong thời gian dài. Chế độ này có nguy cơ bị lật đổ ngay lập tức khi bất kỳ một cường quốc bên ngoài nào đưa ra mức giá cao nhất hoặc đe dọa lớn tiếng nhất đối với những kẻ cai trị đã thoái hóa và không còn khả năng tự vệ". Hardinge lo sợ rằng, cường quốc ấy rất có khả năng là nước Nga, vì "Shah và các bộ trưởng của ông ta đang ở trong tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào Nga, do sự phung phí liều lĩnh và hành động thiếu suy nghĩ của họ". Người Nga không quan tâm nhiều đến khía cạnh kinh tế của mối quan hệ này. Một quan chức Nga nói: "Chúng tôi được lợi gì khi buôn bán với bảy hay tám triệu kẻ nhếch nhác và lười biếng?". Thực tế, điều mà người Nga muốn là áp đặt quyền chi phối chính trị lên Ba Tư và gạt những cường quốc khác ra khỏi nước này.

Theo Hardinge, mục tiêu "quan trọng nhất" trong chính sách của Anh là chống lại một cuộc xâm nhập "đáng ghê tởm" vào Ba Tư. Đây chính là điều mà D’Arcy và kế hoạch kinh doanh dầu lửa của ông có thể hỗ trợ. Một hợp đồng thuê mỏ dầu cho người Anh sẽ góp phần lấy lại thế cân bằng với Nga. Vì thế, Anh đã ủng hộ vụ làm ăn của D’Arcy. Khi phát hiện ra cuộc đàm phán thuê mỏ dầu, viên công sứ Nga nổi giận, tìm cách cản trở và đã thành công trong việc kéo dài quá trình đàm phán. Tuy nhiên, đại diện của D’Arcy đã đặt thêm 5.000 bảng nữa lên bàn đàm phán, vì theo những gì mà người này báo cáo với D’Arcy, "Shah muốn có ngay một ít tiền và đòi có tiền thì mới ký hợp đồng". Số tiền đưa thêm đó đã có tác dụng, và ngày 28 tháng 5 năm 1901, Shah Muzaffar al-Din đã ký vào bản hợp đồng. Hợp đồng này đem lại cho nhà vua 20.000 bảng tiền mặt, một số cổ phiếu trị giá 20.000 bảng, và 16% của "lợi nhuận ròng hàng năm". Đổi lại, D’Arcy có được quyền khai thác mỏ dầu trong vòng 60 năm, trên khắp 3/4 diện tích của Ba Tư. Từ đầu, D’Arcy đã có chủ ý loại ra khỏi hợp đồng thuê mỏ mà ông đề xuất năm tỉnh ở phía bắc của Ba Tư, những nơi gần nước Nga nhất, để "không làm phật ý người Nga". Tuy nhiên, sự đối địch giữa Anh và Nga khó có thể chấm dứt. Lúc này, Nga đang tìm cách xây dựng một đường ống dẫn dầu từ Baku tới vịnh Ba Tư, không chỉ để tăng cường xuất khẩu dầu mỏ vào thị trường Ấn Độ và châu Á, mà quan trọng hơn, để mở rộng ảnh hưởng chiến lược của Nga ở Ba Tư, trên khắp Vùng Vịnh và tới những khu vực bờ biển của Ấn Độ Dương. Người Anh kịch liệt phản đối dự án này.

Công sứ Anh tại Tehran, Hardinge cảnh báo rằng, việc cho phép xây dựng đường ống "lố bịch" này, thậm chí cả khi đường ống đó không bao giờ được xây dựng, sẽ "là cái cớ để các nhà khảo sát, kỹ sư và biệt đội bảo vệ của bọn Cô-dắc lan tràn khắp khu vực phía nam của Ba Tư, chuẩn bị cho sự chiếm đóng quân sự trá hình". Sự phản đối của Anh đã thành công, tuyến đường ống đó đã không được xây dựng. Đại diện của D’Arcy ở Tehran cảm thấy hồ hởi về thỏa thuận đã đạt được. Chương trình này sẽ không chỉ đem lại lợi ích cho D’Arcy mà còn "có ảnh hưởng rộng rãi, cả về mặt thương mại và chính trị cho nước Anh và không thể không tăng cường mạnh mẽ ảnh hưởng của nước Anh ở Ba Tư". Mặc dù từ chối gánh lấy bất kỳ trách nhiệm trực tiếp nào, Bộ Ngoại giao Anh cũng sẵn sàng hỗ trợ cho những nỗ lực của D’Arcy. Tuy nhiên, người có mặt trực tiếp ở Ba Tư là Hardinge lại tỏ ra hoài nghi. Ông biết rõ về Ba Tư – hệ thống chính trị, con người, những khó khăn lớn về địa lý và hậu cần, cũng như thực tế chẳng có gì hứa hẹn của những hợp đồng khai thác dầu lửa gần đây ở nước này. Ông cảnh báo: "Cho dù có dầu ở Ba Tư hay không, trong những năm qua, đã có quá nhiều kế hoạch triển vọng tái tạo thương mại và chính trị ở đây bị đổ vỡ. Việc dự báo tương lai của dự án mới nhất này có thể là điều quá vội vàng".

Theo lời một nhà sử học, kế hoạch của D’Arcy là "cuộc phiêu lưu trải rộng trên một vùng đất xa xôi và khó lường". Vậy điều gì đã lôi kéo D’Arcy vào một dự án kinh doanh mạo hiểm đến như vậy? Tất nhiên, câu trả lời ở đây là sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của sự giàu có khôn xuể và cơ hội trở thành một Rockefeller mới. Ngoài ra, trước đó, D’Arcy cũng từng mạo hiểm với mỏ vàng ở Australia và thành công rực rỡ. Tuy nhiên, nếu D’Arcy có thể dự đoán chính xác điều gì đang đợi mình ở phía trước, hẳn là ông đã dừng vụ làm ăn mạo hiểm này. Đây là một canh bạc lớn, lớn hơn rất nhiều so với dự án mỏ vàng ở Australia của D’Arcy, với nhiều người chơi hơn so với những gì ông dự tính. Đồng thời, nó cũng có mức độ phức tạp chính trị và xã hội hoàn toàn không hề tồn tại ở Australia. Tóm lại, đây không phải là một vụ làm ăn bình thường. Thậm chí, cả những tính toán chi phí cũng được nói giảm đi rất nhiều. Ban đầu, D’Arcy được cố vấn rằng sẽ phải mất 10.000 bảng để khoan hai giếng dầu nhưng thực tế là trong vòng bốn năm, ông phải bỏ ra tới hơn 200.000 bảng.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 3)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 3)

Xin kính chào quý vị, trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại đến với kỳ 3 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Mặc dù hoạt động theo những phương thức nhẫn tâm, tham vọng và không kiểm soát của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX song Standard Oil đã mở ra một kỷ nguyên mới, bởi nó đã phát triển thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất trên thế giới.

Chương 2: "Kế hoạch của chúng ta": John D. Rockefeller và sự cấu kết trong ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ

Một vụ bán đấu giá kỳ cục đã diễn ra vào một ngày tháng 1 năm 1865 tại Cleveland, bang Ohio. Thành phố ồn ào đã được lợi từ cả cuộc Nội chiến Mỹ lẫn sự bùng nổ của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ tiếp tục thịnh vượng nhờ kỷ nguyên phát triển của nền công nghiệp Mỹ. Sự bất đồng dai dẳng giữa hai nhân vật chính của một trong những công ty lọc dầu thành công nhất thành phố này, về tốc độ mở rộng công việc kinh doanh, đã nổ ra. Maurice Clark, nhân vật thận trọng hơn, đe dọa giải thể công ty và John D. Rockefeller đối thủ của Clark chấp nhận lời đe dọa này. Sau đó, Clark và Rockefeller thỏa thuận tổ chức một cuộc bán đấu giá riêng giữa hai người, ai ra giá cao nhất sẽ có được công ty. Và họ quyết định tiến hành vụ bán đấu giá ngay lập tức, ngay trong văn phòng công ty.
Mức giá ban đầu được đưa ra là 500 đô-la nhưng nhanh chóng tăng lên. Chẳng mấy chốc, Maurice Clark đã ra giá 72.000 đô-la. Rockefeller bình thản đưa ra mức 72.500 đô-la. Clark vung tay lên trời, nói: "Tôi sẽ không trả cao hơn nữa đâu, John. Công ty là của ông". Hai người đàn ông bắt tay từ biệt nhau.
Nửa thế kỷ sau, Rockefeller nói: "Tôi mãi mãi coi đó là ngày khởi đầu cho những thành công tôi đạt được trong đời".
Cái bắt tay đó cũng là dấu hiệu cho sự khởi đầu của ngành công nghiệp dầu lửa hiện đại, đem lại trật tự thay thế cho tình trạng hỗn loạn của sự bùng nổ hoạt động khai thác dầu ở Pennsylvania. Đó là trật tự được Công ty Standard Oil xây dựng nên. Trong quá trình đạt được sự thống trị và kiểm soát toàn bộ lĩnh vực buôn bán dầu lửa trên thế giới, Công ty Standard Oil đã phát triển thành một doanh nghiệp phức hợp có quy mô toàn cầu, kinh doanh loại chất đốt giá rẻ, thứ "ánh sáng mới", tới những vùng xa xôi nhất trên trái đất. Mặc dù hoạt động theo những phương thức nhẫn tâm, tham vọng và không kiểm soát của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX song Standard Oil đã mở ra một kỷ nguyên mới, bởi nó đã phát triển thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất trên thế giới.
"Một người ngăn nắp đến cực đoan"
Đứng đầu Standard Oil chính là người đàn ông trẻ tuổi đã giành chiến thắng trong cuộc bán đấu giá tại Cleveland năm 1865. Khi đó, ở tuổi 26, John D. Rockefeller đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ. Cao và gầy, ông khiến người khác có cảm giác ông là một người cô độc, lầm lì, lãnh đạm và khổ hạnh. Vẻ lặng lẽ khó lay chuyển cùng đôi mắt xanh sắc lạnh trên khuôn mặt đầy góc cạnh với chiếc cằm nhọn của ông làm người ta cảm thấy không thoải mái và e dè. Dường như người ta thấy ông có thể nhìn xuyên thấu họ.

undefined
John D. Rockefeller - chủ tịch kiêm nhà sáng lập Standard Oil Company.

Rockefeller là nhân vật quan trọng nhất trong việc định hình ngành công nghiệp dầu lửa. Người ta cũng có thể nhận định tương tự về vai trò của ông trong lịch sử phát triển của nền công nghiệp Mỹ cũng như sự hình thành của loại hình doanh nghiệp hiện đại. Được ngưỡng mộ như một bậc kỳ tài về quản lý và tổ chức, Rockefeller đồng thời cũng là doanh nhân Mỹ bị căm ghét và nguyền rủa nhiều nhất, một phần do ông quá tàn nhẫn và một phần vì ông quá thành công. Người đời sẽ cảm nhận rõ ràng di sản trường tồn của Rockefeller, xét về ảnh hưởng mạnh mẽ của ông đối với ngành công nghiệp dầu lửa và bản thân chủ nghĩa tư bản, cũng như tác động của khoản từ thiện khổng lồ của ông. Di sản đó còn là những hình ảnh và những tỳ vết mà ông vĩnh viễn khắc vào tâm trí của công chúng.
Rockefeller sinh năm 1839 tại một vùng nông thôn ở New York và qua đời năm 1937, thọ gần 100 tuổi. Cha ông, William Rockefeller, là một nhà buôn gỗ và muối. Sau khi chuyển cả gia đình tới sống ở bang Ohio, nhà buôn này tự xưng là "bác sĩ William Rockefeller" để bán các bài thuốc thảo dược và các loại biệt dược. William Rockefeller thường vắng nhà dài ngày vì ông còn có một bà vợ khác ở Canada.
Tính cách của John D. Rockefeller đã được định hình ngay từ khi còn bé. Ông là một người sùng đạo, chuyên tâm, kiên trì, kỹ tính, hay chú ý đến tiểu tiết, có năng khiếu và niềm đam mê với những con số, đặc biệt là những con số liên quan đến tiền bạc. Lên bảy tuổi, ông đã thực hiện thành công vụ kinh doanh đầu tiên của mình – bán gà. Cha ông dạy các con các kỹ năng buôn bán từ rất sớm. Có người kể lại, William Rockefeller từng khoe rằng: "Tôi buôn bán với bọn trẻ, lừa chúng và đánh chúng bất cứ khi nào có thể. Tôi muốn mài giũa bọn chúng". Khi còn đi học, John D. Rockefeller rất giỏi toán, đặc biệt là môn tính nhẩm.
Dự tính phải đạt được "một điều gì đó lớn lao", khi 16 tuổi, Rockefeller đã đi làm cho một công ty vận tải hàng hóa đường biển ở Cleveland. Năm 1859, ông và Maurice Clark hợp tác mở công ty riêng để buôn bán hàng hóa. Công ty này phát đạt nhờ nhu cầu của cuộc Nội chiến Mỹ và sự mở cửa của khu vực phía Tây. Về sau này, Maurice Clark bực mình khi nhớ lại rằng Rockefeller là người "ngăn nắp đến cực đoan". Khi công ty của hai người phát triển, Rockefeller có thói quen "tự nói chuyện" với chính mình, tự khuyên răn mình, tự cảnh báo mình về những cạm bẫy, về đạo đức cũng như về thực tế. Công ty này buôn lúa mì của Ohio, muối của Michigan và thịt lợn của Illinois. Trong vòng hai năm sau phát hiện của "Đại tá" Drake, Clark và Rockefeller cũng đã buôn bán và kiếm được tiền từ dầu của Pennsylvania.
Dầu lửa và những câu chuyện khác về làm giàu nhanh chóng đã choáng ngợp trí tưởng tượng của các doanh nhân ở Cleveland khi một tuyến đường ray mới được xây dựng vào năm 1863, giúp khu vực này có thể cạnh tranh trong lĩnh vực buôn bán dầu. Hàng loạt nhà máy lọc được xây dựng dọc theo những tuyến đường sắt tới Cleveland. Nhiều nhà máy lọc dầu thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà máy của Rockefeller và Clark thì hoàn toàn khác. Ban đầu, Rockefeller nghĩ rằng lọc dầu chỉ là một lĩnh vực phụ so với buôn bán hàng hóa. Nhưng chỉ trong một năm, khi nhà máy lọc dầu đem lại khá nhiều lợi nhuận, ông đã thay đổi suy nghĩ. Giờ đây, vào năm 1865, sau khi thành công trong cuộc đấu giá với Clark, Rockefeller, lúc này là một người đàn ông trẻ tuổi khá giàu có, trở thành chủ nhân duy nhất của một công ty sở hữu nhà máy lọc dầu lớn nhất trong số 30 nhà máy lọc dầu ở Cleveland.
Cuộc chơi lớn
Rockefeller giành thắng lợi đầu tiên của mình trong lĩnh vực lọc dầu vào một thời điểm hoàn hảo. Nội chiến Mỹ kết thúc năm 1865 đã mở ra cho nước Mỹ một kỷ nguyên mới của việc mở rộng các hoạt động kinh tế trên quy mô lớn và tốc độ phát triển nhanh chóng, của hoạt động đầu cơ mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt, của hiện tượng cấu kết và độc quyền. Các công ty lớn nổi lên cùng với những tiến bộ kỹ thuật trong nhiều ngành công nghiệp đa dạng như thép, sản xuất đồ hộp và giao thông. Số lượng người nhập cư lớn cùng với việc mở cửa khu vực phía Tây đã tạo ra những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao.
Quả thực, trong ba thập kỷ rưỡi cuối thế kỷ XIX, các hoạt động kinh doanh ở Mỹ chuyên nghiệp hơn bất kỳ giai đoạn nào khác trong lịch sử của đất nước này. Và nhiệt huyết, tham vọng, trí tuệ của những con người trẻ tuổi đã bị thỏi nam châm này hút chặt. Những con người này bị cuốn vào thứ mà Rockefeller gọi là "Cuộc chơi lớn" – một cuộc chiến đấu để hoàn thành, để dựng xây và để kiếm tiền, vì chính tiền là một bằng chứng của sự thành đạt. Cuộc chơi được tiến hành với những phát minh và cách tổ chức mới này đã biến nền cộng hòa nông nghiệp vừa bị cuộc nội chiến đẫm máu tàn phá thành cường quốc công nghiệp lớn nhất thế giới.
Trong cơn sốt dầu lửa, Rockefeller, khi đó đang dồn hết tâm trí cho Cuộc chơi lớn, tiếp tục đầu tư cả lợi nhuận lẫn những khoản tiền đi vay vào lĩnh vực lọc dầu. Ông xây thêm nhà máy thứ hai và cần thị trường mới tương xứng với công suất của các nhà máy này. Năm 1866, Rockefeller thành lập thêm một công ty ở New York để quản lý hoạt động buôn bán trên bờ Đại Tây Dương và xuất khẩu dầu lửa. Ông để em trai mình là William phụ trách công ty này. Năm đó, Rockefeller đạt doanh thu hơn 2 triệu đô-la.
Mặc dù thị trường dầu lửa và dầu nhờn đã phát triển, song tốc độ phát triển của nó vẫn không tương xứng với sự tăng trưởng của hoạt động lọc dầu. Có quá nhiều công ty cùng cạnh tranh để giành giật khách hàng. Không phải bỏ ra nhiều vốn hay kỹ năng để xây dựng một nhà máy lọc dầu. Sau này, Rockefeller nhớ lại: "Người người đầu tư vào lọc dầu, từ những người làm nghề giết mổ, thợ làm bánh tới thợ làm nến".
Rockefeller làm việc hết mình để phát triển công ty, bằng cách mở rộng các cơ sở, cố gắng duy trì và nâng cao chất lượng trong khi luôn kiểm soát chi phí. Ông đã tiến những bước đầu tiên trong việc hợp nhất các khâu cung cấp và phân phối vào bên trong doanh nghiệp nhằm mục đích cách ly hoạt động kinh doanh chung khỏi sự biến động của thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công ty của Rockefeller đã mua những vùng đất rộng lớn trồng loại gỗ sồi trắng để sản xuất thùng chứa dầu riêng. Ngoài ra, công ty còn mua nhiều xe téc riêng và các nhà kho riêng ở New York cũng như những con thuyền riêng trên sông Hudson.
Ngay từ đầu, Rockefeller cũng đặt ra một quy tắc khác mà ông sùng bái, đó là hình thành và duy trì khả năng tài chính mạnh. Cuối thập kỷ 1860, ông xây dựng được nguồn lực tài chính đủ để công ty không còn phải phụ thuộc vào các ngân hàng, các công ty tài chính và các nhà đầu cơ mà ngành đường sắt cũng như các ngành công nghiệp khác vẫn bị lệ thuộc. Tiền bạc không chỉ giúp công ty của Rockefeller tránh được tình trạng vỡ nợ và làm ăn thua lỗ đang đẩy những đối thủ cạnh tranh của ông vào chân tường mà còn tạo cơ hội lợi dụng sự thua lỗ của các đối thủ cạnh tranh để thu thêm lợi nhuận.
Có thể nhận thấy rõ một trong những năng lực lớn của Rockefeller là tầm nhìn về xu hướng của toàn bộ ngành công nghiệp dầu lửa, và kiên quyết chỉ đạo công ty vận động theo xu hướng này. Sau này, ông nói: "Tôi bắt đầu công việc kinh doanh khi còn là một thủ thư. Tôi đã học được sự tôn trọng đối với những con số và sự thật nhỏ nhất". Rockefeller can thiệp vào mọi chi tiết và khía cạnh trong công việc kinh doanh của công ty, thậm chí cả những chi tiết chẳng dễ chịu chút nào, theo đúng nghĩa đen của từ này. Ông giữ một bộ vét cũ rích và luôn mặc bộ vét này bất cứ khi nào đi tới Vùng đất dầu, lặn lội trên những khu vực ngập bùn để tìm mua dầu. Kết quả của hoạt động kinh doanh mà Rockefeller vững chí theo đuổi là, đến nửa sau của thập kỷ 1860, ông sở hữu nhà máy lọc dầu lớn nhất thế giới.
Năm 1867, Rockefeller chiêu nạp một nhân vật trẻ tuổi tên là Henry Flagler. Vai trò của Flagler đối với sự hình thành và phát triển của Standard Oil cũng lớn như ảnh hưởng của Rockefeller. Năm 14 tuổi, Flager là nhân viên bán hàng của một bách hóa tổng hợp và, năm 25 tuổi, ông thành công với một nhà máy nhỏ nấu rượu whiskey ở bang Ohio. Năm 1858, ông bán nhà máy rượu vì những ảnh hưởng của rượu tới mặt đạo đức con người. Sau đó, Flagler nhảy vào lĩnh vực sản xuất muối ở bang Michigan. Tuy nhiên, do cạnh tranh khốc liệt và tình trạng nguồn cung vượt quá cầu, ông lâm vào cảnh phá sản. Sự cố này thức tỉnh ông, một người ban đầu từng kiếm được tiền rất dễ dàng.
Đã trưởng thành nhờ những bài học đắt giá, Flagler là một người luôn lạc quan và có quyết tâm làm lại mọi thứ. Vụ phá sản kia khiến ông có niềm tin sâu sắc vào giá trị của việc "cộng tác" giữa các nhà sản xuất cũng như ác cảm đối với điều mà ông sau này gọi là "cạnh tranh không phanh". Ông kết luận, hợp tác và liên kết là điều cần thiết để giảm thiểu những rủi ro trong thế giới tư bản mong manh. Như sau này Flagler nói, ông còn học được một bài học khác: "Hãy tỉnh táo đánh cược vào sự phát triển của đất nước". Flagler sẵn sàng và hăm hở muốn đặt cược vào nước Mỹ sau Nội chiến.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời

13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và được thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Kính thưa quý vị, trong chuyên mục Sách hay 360 ngày hôm nay, chúng tôi xin gửi đến quý khán giả 13 câu chuyện ngắn được sưu tầm với nhan đề: “13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời”. 13 câu chuyện ngắn với những nội dung khác nhau, mang những giá trị, ý nghĩa và sự chiêm nghiệm khác nhau, hi vọng sẽ là món quà nhỏ dành tặng cho quý khán thính giả đang lắng nghe chuyên mục Podcast - Sách hay 360. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

“13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời”

Kính thưa quý vị! Đôi khi chúng ta đã quên mất, từng sự việc nhỏ diễn ra hàng ngày đều mang một ý nghĩa nhất định và có những giá trị vô cùng quý báu cho cuộc đời mỗi con người. Cùng lắng những câu chuyện nhỏ ý nghĩa về cuộc sống dưới đây và suy ngẫm nhé.

Câu chuyện số 1: Bài học về sự tự tin

Hôm ấy là ngày đầu tiên tôi học môn Toán với thầy Peter. Vừa vào lớp, thầy cho cả lớp làm bài kiểm tra đầu năm.

Cả lớp ngạc nhiên khi thầy phát cho chúng tôi ba loại đề khác nhau rồi nói:

- Đề thứ nhất gồm những câu hỏi vừa dễ và khó, nếu làm hết các em sẽ được 10 điểm. Đề thứ hai có số điểm cao nhất là 8 với những câu hỏi tương đối dễ. Đề thứ 3 có số điểm tối đa là 6 với những câu hỏi rất dễ. Các em được quyền chọn đề cho mình.

Thầy chỉ cho làm bài trong 15 phút nên tôi đã chọn đề thứ 2 cho chắc ăn. Không chỉ tôi mà các bạn cùng lớp cũng thế, chẳng có ai chọn đề thứ nhất cả.

Một tuần sau, thầy Peter phát bài kiểm tra ra. Cả lớp lại càng ngạc nhiên hơn khi biết ai chọn đề nào thì được tổng số điểm của đề đó, bất kể làm đúng hay sai. Lớp trưởng hỏi thầy:

- Thưa thầy tại sao lại như thế?

Thầy cười rồi nghiêm nghị trả lời:

- Với bài kiểm tra này, thầy chỉ muốn thử thách sự tự tin của lớp mình. Ai trong số các em cũng mơ ước đạt được điểm 10 nhưng ít ai dám vượt qua thử thách để biến ước mơ ấy thành sự thật.

Bài kiểm tra kỳ lạ ấy của thầy Peter đã dạy chúng tôi một bài học: "Có những việc thoạt nhìn tưởng như rất khó khăn nên dễ làm cho chúng ta rút lui ngay từ phút đầu tiên. Nhưng nếu không tự tin đối đầu với thử thách thì chúng ta chẳng biết khả năng của mình đến đâu và cũng khó vươn tới đỉnh điểm của thành công.

Câu chuyện số 2: Chiếc lược tình yêu

Một ngày nọ, người vợ có mái tóc dài bảo chồng hãy mua cho bà một chiếc lược mới để bà chải tóc được gọn gàng hơn. Người chồng đã xin lỗi và từ chối bà. Ông nói rằng mình còn không có đủ tiền để sửa chiếc đồng hồ đeo tay bị hỏng. Người vợ nghe vậy và không nói gì thêm.

Hôm sau người chồng đi làm, ông qua tiệm đồng hồ và bán chiếc đồng hồ của mình với giá rẻ để mua chiếc lược mới cho vợ.

Buổi tối, ông vui vẻ ngồi đợi vợ ở nhà với chiếc lược mới trên tay.

Tuy nhiên, một lúc sau, ông vô cùng sửng sốt khi thấy vợ xuất hiện với một mái tóc ngắn. Thì ra bà đã bán mái tóc của mình đi để mua cho ông chiếc dây đồng hồ mới.

Những giọt nước mắt rơi trên má họ, không phải vì những việc họ làm là vô ích, mà vì tình yêu sâu sắc mà họ dành cho nhau.

Câu chuyện số 3: Câu chuyện về hai hạt lúa

Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy,...

Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm:
“Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ.” Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.

Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.

Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì - nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới...

Bài học: Nếu tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân bạn sẽ trải qua một cuộc sống vô nghĩa, đánh mất giá trị của bản thân. Vì vậy, hãy biết dấn thân chấp nhận những thử thách, can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để sống có ý nghĩa hơn, đóng góp những giá trị hữu ích cho xã hội.

Câu chuyện số 4: Quạ và thiên nga

Một con Quạ, đen như than, nó ganh ghét với một con Thiên Nga, vì bộ lông của Thiên Nga luôn trắng đẹp như bông.

Quạ ngu ngốc một hôm bỗng nảy ra một ý nghĩ rằng nếu nó cứ sống như Thiên Nga, tức là cứ bơi lội và vùng vẫy suốt ngày trong nước, và ăn cây cỏ rong rêu mọc dưới nước, ắt bộ lông nó sẽ trắng ra như bộ lông của Thiên Nga vậy. Thế là Quạ liền bỏ rừng bay về vùng sông hồ và đầm lầy để sống.

Nhưng dù cho nó ra sức tắm giặt suốt ngày này qua ngày khác bộ lông của nó vẫn cứ đen như ngày nào vậy.

Và khi rong rêu trong nước ăn vào không phù hợp với cái dạ dày của nó, nó càng ngày càng gầy đét, và cuối cùng, ngã lăn ra chết.

Bài học: Đừng vì ảo tưởng những thứ mình không thể có mà có những hành động ngu ngốc, đến cuối cùng cùng thiệt thòi sẽ là bản thân mình.

Câu chuyện số 5: Món hời với người nghèo

Một cô gái hỏi ông lão bán trứng: “Bao nhiêu tiền một quả trứng vậy ông?”

Ông lão trả lời: “Một đô hai quả thưa cô”.

Cô gái đáp: “Bán cho tôi một đô bốn quả, nếu không tôi không mua nữa”.

Ông lão: “Được thôi, cô lấy đi, đây là khởi đầu tốt vì có lẽ tôi sẽ chẳng bán được gì trong ngày hôm nay”.

Cô gái lấy trứng rồi hãnh diện bước đi. Cô cảm thấy mình đã trả được một món hời và đến một nhà hàng sang trọng gặp bạn bè. Ở đó, cô cùng các bạn ăn bất cứ thứ gì họ muốn. Tàn tiệc, hóa đơn của của họ lên tới 420 đô la. Cô gái đưa 500 đô cho chủ nhà hàng và bảo không cần trả lại.

Bài học: Sự việc có vẻ giản đơn nhưng lại thật đau khổ đối với ông lão bán trứng. Nhiều người trong chúng ta luôn hào phóng với những người giàu có, mà lại quên đi tình người với những người khốn khổ.

Câu chuyện số 6: Miếng bánh mì cháy

Khi tôi lên 8 hay 9 tuổi gì đó, tôi nhớ thỉnh thoảng mẹ tôi vẫn nướng bánh mì cháy khét. Một tối nọ, mẹ tôi về nhà sau một ngày làm việc dài và bà làm bữa tối cho cha con tôi. Bà dọn ra bàn vài lát bánh mì nướng cháy, không phải cháy xém bình thường mà cháy đen như than. Tôi ngồi nhìn những lát bánh mì và đợi xem có ai nhận ra điều bất thường của chúng và lên tiếng hay không.

Nhưng cha tôi chỉ ăn miếng bánh của ông và hỏi tôi về bài tập cũng như những việc ở trường học như mọi hôm. Tôi không còn nhớ tôi đã nói gì với ông hôm đó, nhưng tôi nhớ đã nghe mẹ tôi xin lỗi ông vì đã làm cháy bánh mì.

Và tôi không bao giờ quên được những gì cha tôi nói với mẹ tôi: “Em à, anh thích bánh mì cháy mà.”

Đêm đó, tôi đến bên chúc cha tôi ngủ ngon và hỏi có phải thực sự ông thích bánh mì cháy hay không. Cha tôi choàng tay qua vai tôi và nói:

“Mẹ con đã làm việc rất vất vả cả ngày và mẹ rất mệt. Một lát bánh mì cháy chẳng thể làm hại ai con ạ, nhưng con biết điều gì thực sự gây tổn thương cho người khác không? Những lời chê bai trách móc cay nghiệt đấy.”

Rồi ông nói tiếp: “Con biết đó, cuộc đời đầy rẫy những thứ không hoàn hảo và những con người không toàn vẹn. Cha cũng khá tệ trong rất nhiều việc, chẳng hạn như cha chẳng thể nhớ được sinh nhật hay ngày kỷ niệm như một số người khác.

Điều mà cha học được qua nhiều năm tháng, đó là học cách chấp nhận sai sót của người khác và chọn cách ủng hộ những khác biệt của họ. Đó là chìa khoá quan trọng nhất để tạo nên một mối quan hệ lành mạnh, trưởng thành và bền vững con ạ.

Cuộc đời rất ngắn ngủ để thức dậy với những hối tiếc và khó chịu. Hãy yêu quý những người cư xử tốt với con, và hãy cảm thông với những người chưa làm được điều đó.”

Bài học: Trong cuộc sống, bạn cần phải biết học cách cảm thông đối với điểm yếu, điểm hạn chế của người khác. Cảm thông với cuộc sống, tính cách của mọi người trong gia đình, bạn bè, vợ chồng… sẽ giúp bạn có một cuộc sống dung hòa xung quanh. Sự cảm thông – bí quyết nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình. Câu chuyện này chính là bài học về sự cảm thông giữa người với người.

Câu chuyện số 7: Hành trang lên đường

Có một hòa thượng muốn đi học tập ở nơi xa. Sư thầy hỏi: “Khi nào con đi?”

“Tuần sau con sẽ đi. Đường xa, con đã nhờ người đan vài đôi giày cỏ, sau khi lấy giày con sẽ lên đường.”

Sự thầy trầm ngâm một lát rồi nói: “Nếu không thì thế này, ta sẽ nhờ các tín chúng quyên tặng giày cho con.”

Không biết sư thầy đã nói với biết bao nhiêu người nhưng ngày hôm đó, có đến vài chục người đem giày đến tặng, chất đầy cả một góc căn phòng thiền.

Sáng hôm sau, lại có người mang một chiếc ô đến tặng cho hòa thượng.

Hòa thượng hỏi: “Tại sao tín chủ lại tặng ô?”

“Sư thầy nói rằng hòa thượng chuẩn bị đi xa, trên đường có thể sẽ gặp mưa lớn, sư thầy nói với tôi liệu tôi có thể tặng hòa thượng một chiếc ô?”

Thế nhưng hôm đó, không chỉ có người đó mang ô đến tặng. Đến buổi tối, trong phòng thiền đã chất khoảng 50 chiếc ô các loại.

Giờ học buổi tối kết thúc, sư thầy bước vào phòng thiền của hòa thượng: “Giày cỏ và ô đã đủ chưa?”

“Đủ rồi ạ!” – Hòa thượng chỉ vào đống ô và giày cỏ chất cao như ngọn núi nhỏ trong góc phòng. “Nhiều quá rồi thầy ạ, con không thể mang tất cả đi được.”

“Vậy sao được”, sư thầy nói. “Trời có lúc mưa lúc nắng, có ai tiên liệu được con sẽ phải đi bao xa, phải dầm bao nhiêu lần mưa gió. Nhỡ đâu giày cỏ đi rách hết cả, ô cũng mất, lúc đó con phải làm sao?”

Ngừng một lát, ông lại tiếp tục: “Trên đường đi, chắc chắn con sẽ gặp không ít sông suối, mai ta sẽ có lời nhờ tín chúng quyên thuyền, con hãy mang theo…”

Đến lúc này, vị hòa thượng mới hiểu ra ý đồ của sư phụ. Hòa thượng quỳ rạp xuống đất, nói: “Đệ tử sẽ xuất phát ngay bây giờ và sẽ không mang theo bất cứ thứ gì ạ.”

Bài học: Khi làm bất cứ việc gì, điều quan trọng không phải là những vật ngoài thân đã được chuẩn bị kỹ lưỡng hay chưa mà là ta đã đủ quyết tâm hay chưa?

Có quyết tâm, vạch rõ mục tiêu, tất cả đều không còn là vấn đề, không còn là trở ngại.

Hãy mang trái tim của mình lên đường, mục tiêu dù ở xa bao nhiêu đi chăng nữa nhưng đường ở ngay dưới chân mình, hãy cứ đi rồi sẽ đến. Bạn bước đi dù chỉ một bước, điều đó cũng có nghĩa rằng bạn đã có thu hoạch. Chỉ cần đem theo trái tim lên đường, tất cả những vật ngoài thân khác tự sẽ đủ!

Câu chuyện số 8: Người đàn ông vứt bỏ đôi giày

Chuyến xe lửa đang chạy trên đường cao tốc, Johnny không cẩn thận làm rơi một chiếc giày mới mua ra ngoài cửa sổ, mọi người chung quanh đều cảm thấy tiếc cho ông. Bất ngờ, ông liền ném ngay chiếc giày thứ hai ra ngoài cửa sổ đó. Hành động này của Johnny khiến mọi người sửng sốt, thế là ông bèn từ tốn giải thích: “Chiếc giày này bất luận đắt đỏ như thế nào, đối với tôi mà nói nó đã không còn có ích gì nữa, nếu như có ai có thể nhặt được đôi giày, nói không chừng họ còn có thể mang vừa nó thì sao!”.

Bài học: Những thứ không còn lợi ích với mình đôi khi lại là niềm hạnh phúc vô bờ đối với người khác. Hãy trân trọng mọi thứ mình có và chia sẻ niềm hạnh phúc với mọi người.

Câu chuyện số 9: Cảm ơn bố đã cho con thấy chúng ta nghèo như thế nào!

Một ngày nọ, người bố giàu có dẫn cậu con trai của mình thăm thú một ngôi làng. Người bố muốn cho con trai của mình thấy một người nghèo có thể nghèo đến mức nào. Họ đã dành thời gian tham quan cánh đồng của một gia đình nghèo. Sau khi trở về, người bố hỏi cậu con trai:

– Con thấy chuyến đi thế nào?

– Rất tuyệt bố ạ!

Người bố hỏi:

– Con đã thấy người nghèo sống thế nào chưa?

– Vâng con thấy rồi ạ!

– Vậy nói cho bố nghe, con học được gì từ chuyến đi này?

Cậu bé trả lời: “Chúng ta có 1 con chó, họ có 4. Chúng ta có bể bơi, họ có những con sông. Chúng ta dùng đèn vào ban đêm, còn họ có những ngôi sao. Chúng ta có những bức tường để bảo vệ mình, họ có bạn bè. Chúng ta có TV, còn họ dành thời gian cho gia đình và họ hàng.”

Người bố không nói lên lời. Cậu bé nói thêm: “Cảm ơn bố đã cho con thấy chúng ta nghèo như thế nào!”.

Ý nghĩa câu chuyện: Chúng ta không giàu có chỉ vì có nhiều tiền. Tình yêu, lòng trắc ẩn, tình bạn, những giá trị đích thực, gia đình mới khiến bạn là người thực sự giàu có.

Câu chuyện số 10: Giá trị của hòn đá

Có một học trò hỏi thầy mình rằng:

- Thưa thầy, giá trị của cuộc sống là gì ạ?

Người thầy lấy một hòn đá trao cho người học trò và dặn:

- Con đem hòn đá này ra chợ nhưng không được bán nó đi, chỉ cần để ý xem người ta trả giá bao nhiêu.

Vâng lời thầy, người học trò mang hòn đá ra chợ bán. Mọi người không hiểu tại sao anh lại bán một hòn đá xấu xí như vậy. Ngồi cả ngày, một người bán rong thương tình đã đến hỏi và trả giá hòn đá một đồng. Người học trò mang hòn đá về và than thở:

- Hòn đá xấu xí này chẳng ai thèm mua. Cũng may có ngườihỏi mua với giá một đồng thầy ạ.
Người thầy mỉm cười và nói:

- Tốt lắm, ngày mai con hãy mang hòn đá vào tiệm vàng và bán cho chủ tiệm, nhớ là dù chủ cửa hàng vàng có mua thì cũng không được bán.
Người học trò rất bất ngờ khi chủ tiệm vàng trả giá hòn đá là 500 đồng. Anh háo hức hỏi thầy tại sao lại như vậy. Người thầy cười và nói:

- Ngày mai con hãy đem nó đến chỗ bán đồ cổ. Nhưng tuyệt đối đừng bán nó, chỉ hỏi giá mà thôi.

Làm theo lời thầy dặn, sau một hồi xem xét thì anh vô cùng ngạc nhiên khi chủ hiệu trả giá hòn đá là cả gia sản hiện có. Anh vẫn nhất quyết không bán và vội về kể lại với thầy. Lúc này người thầy mới chậm rãi nói:

- Hòn đá thực chất chính là một khối ngọc cổ quý giá, đáng cả một gia tài, và giá trị cuộc sống cũng giống như hòn đá kia, có người hiểu và có người không hiểu. Với người không hiểu và không thể cảm nhận thì giá trị cuộc sống chẳng đáng một xu, còn với người hiểu thì nó đáng giá cả một gia tài. Hòn đá vẫn vậy, cuộc sống vẫn thế, điều duy nhất tạo nên sự khác biệt là sự hiểu biết của con và cách con nhìn nhận cuộc sống.

Bài học: Thành công hay hạnh phúc là gì? Mỗi người sẽ có định nghĩa và “định giá” khác nhau và chúng ta hãy tôn trọng sự lựa chọn đó. Hãy làm cho đời mình trở nên giá trị theo cách của mình và tự quyết định cuộc sống của bạn.

Câu chuyện số 11: Cái kết cho sự khinh thường

Tiều phu cùng học giả đi chung một chiếc thuyền ở giữa sông. Học giả tự nhận mình hiểu biết sâu rộng nên đề nghị chơi trò đoán chữ cho đỡ nhàm chán, đồng thời giao kèo, nếu mình thua sẽ mất cho tiều phu mười đồng. Ngược lại, tiều phu thua sẽ chỉ mất năm đồng thôi. Học giả coi như mình nhường tiều phu để thể hiện trí tuệ hơn người. Đầu tiên, tiều phu ra câu đố:

“Vật gì ở dưới sông nặng một ngàn cân, nhưng khi lên bờ chỉ còn có mười cân?”.

Học giả vắt óc suy nghĩ vẫn tìm không ra câu trả lời, đành đưa cho tiều phu mười đồng. Sau đó, ông hỏi tiều phu câu trả lời là gì.

“Tôi cũng không biết!“, tiều phu đưa lại cho học giả năm đồng và nói thêm:“Thật ngại quá, tôi kiếm được năm đồng rồi.” Học giả vô cùng sửng sốt.

Bài học: Chẳng ai sinh ra đã hoàn hảo, càng tỏ vẻ khinh thường người khác thì càng chứng tỏ bạn là một người ngu dốt. Chẳng ai dám vỗ ngực nhận mình biết nhiều thứ bởi lẽ còn vô vàn thứ mà chúng ta vẫn chưa được biết đến. Càng tỏ ra thông minh thì sẽ càng bị thông minh hại. Cũng như người tiều phu trong câu chuyện mặc dù không học nhiều như học giả nhưng lại biết cách tính toán để cho mình có thể vẫn kiếm được một chút. Còn về phía học giả đã bị chính sự khinh thường và chấp tiều phu mà mất đi một khoản tiền oan. Đừng khinh thường người khác vì cái kết nhận lại lúc nào cũng rất đau đớn.

Câu chuyện số 12: Con lừa và con la

Lừa và La cùng đi đường. Hai con cùng chở hàng bằng nhau. Lừa càu nhàu là La cũng mang bằng nó nhưng nhận phần thức ăn gấp đôi. La lẳng lặng không nói gì. Được một quãng, Lừa thấm mệt.

Người chủ hàng lấy bớt một phần hàng trên lưng Lừa chuyển sang cho La. La không phàn nàn gì, tiếp tục đi. Được một quãng đường nữa, Lừa càng đuối sức. Chủ hàng lại lấy thêm hàng chuyển sang cho La. Trên lưng Lừa hầu như chẳng còn hàng hoá gì nữa, lẽo đẽo đi sau, vừa đi vừa thở hổn hển. Khi ấy, La quay lại bảo Lừa:

– Này bạn thân mến, tôi đáng được hưởng gấp đôi phần ăn đấy chứ?

Bài học: Trước khi phán xét hay nhận định một vấn đề nào đó, chúng ta không chỉ nhìn vào khởi đầu mà còn phải quan sát cả quá trình và kết thúc.

Câu chuyện số 12: Hoa khôi lớp xấu xí

Các sinh viên nữ công khai bỏ phiếu bầu chọn hoa khôi của lớp, Tiểu Mai là người có dung mạo bình thường nhưng cô đã đứng ra nói mọi người rằng: "Nếu như tôi được chọn, qua vài năm sau, các chị em ngồi ở đây có thể tự hào mà nói với chồng của mình rằng: "Hồi em học đại học, em còn xinh đẹp hơn cả hoa khôi trong lớp cơ đấy!". Kết quả là cô ấy đã được bầu chọn với số phiếu gần như tuyệt đối.

Bài học: Để thuyết phục người khác ủng hộ bạn, điều quan trọng là bạn cần cho người ta biết được nhờ có bạn mà họ mới trở nên ưu tú hơn và có nhiều thành tựu hơn chứ không nhất định là phải chứng minh rằng bạn xuất sắc hơn người khác như thế nào.

Câu chuyện số 13: Ai mới là kẻ ngu?

Một ông thầy giáo mới dạy nhận ra rằng trong lớp có một cậu bé luôn luôn bị chửi là ngu. Trong giờ ra chơi ông hỏi nhóm bạn lý do.

- Thì nó là thằng ngu thật mà thầy. Nếu mà đưa cho nó đồng xu to 5 rúp và đồng xu nhỏ 10 rúp, thì nó sẽ chọn đồng 5 rúp, vì nó nghĩ đồng 5 rúp có kích thước to hơn thì là tốt hơn.

Đây, thầy nhìn nhé. Một bạn trong nhóm giơ 2 đồng xu và cho cậu kia chọn. Và cậu vẫn chọn đồng 5 rúp như trước.

Thầy giáo ngạc nhiên hỏi:

- Sao em lại chọn 5 rúp mà không chọn 10 rúp?

- Thầy nhìn này, đồng 5 rúp to hơn mà.

Tan trường, thầy đến chỗ cậu bé hỏi lại:

- Chẳng nhẽ em không thể hiểu được đồng 5 rúp chỉ to hơn về mặt kích thước, nhưng đồng 10 rúp thì em có thể mua được nhiều thứ hơn?

- Nếu em lấy 10 rúp thì lần sau bọn nó sẽ không cho em nữa... Cậu bé trả lời.

Bài học:

"Ngu mà tỏ ra nguy hiểm thì không có gì phải sợ, đáng sợ là người nguy hiểm mà tỏ ra ngu". Câu này rất đúng với câu chuyện ở trên. Chúng ta cần biết rằng, đừng nhìn bên ngoài xem thường người đối diện với bạn bởi không ai biết được ẩn sau vẻ ngoài đó là một con người như thế nào.

Ngoài những câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống ngắn ở trên, các bạn có thể đọc thêm những câu chuyện ý nghĩa về các chủ đề khác như tiền bạc, hạnh phúc, tình bạn...

Thưa quý vị, chương trình Podcast - Sách hay 360 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Cần làm gì để có nước sạch sử dụng sau ngập lụt?

Cần làm gì để có nước sạch sử dụng sau ngập lụt?

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và được thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Thưa quý vị! Bài báo với nhan đề “Cần làm gì để có nước sạch sử dụng sau ngập lụt?” được đăng tải trên Báo Quân đội Nhân dân ngày 21/9/2024 sẽ được chúng tôi chia sẻ trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chị Thanh Mai (TP Yên Bái, tỉnh Yên Bái) hỏi: Sau ngập lụt, các nguồn nước đều bị ô nhiễm. Làm thế nào để người dân có nước sạch sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày?

Về vấn đề này, Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế) cho biết: Sau lũ lụt thường có nguy cơ xảy ra nhiều dịch bệnh do môi trường và nguồn nước bị ô nhiễm dẫn đến vi khuẩn, virus và ký sinh trùng có điều kiện sinh sôi, phát, dẫn đến lan truyền mầm bệnh. Để có nước sạch sử dụng, người dân cần làm sạch giếng khoan, giếng đào, sau đó làm trong, khử trùng nước...

Có nhiều cách làm trong nước, đơn giản nhất là dùng phèn chua hoặc lọc bằng vải sạch. Đối với làm sạch nước bằng phèn chua cần làm theo tỷ lệ: 1g phèn chua cho 20 lít nước. Hòa đều phèn chua với nước cần lọc, chờ khoảng 30 phút cho cặn lắng hết xuống đáy rồi gạn lấy nước trong. Nếu không có phèn chua thì có thể dùng vải sạch để lọc nước. Tốt nhất sử dụng vải cotton, thực hiện thao tác lọc nhiều lần cho đến khi nước trong. Sau đó tiến hành khử trùng bằng các hóa chất như Cloramin B hoặc đun sôi. Khử trùng nước bằng Cloramin B: Cloramin B được đóng gói dưới dạng viên với nhiều hàm lượng khác nhau. Hiện nay phổ biến nhất là viên Cloramin B 0,25g hoặc viên Aquatabs 67mg rất tiện lợi cho khử trùng các thể tích nước nhỏ như chum, vại, lu, xô, chậu hoặc bể chứa nước nhỏ. Một viên Cloramin B 0,25g có thể khử trùng được 25 lít nước, một viên Aquatabs 67mg có thể khử trùng được 20 lít nước trong. Đối với nguồn nước cấp cho tập thể hoặc nhiều hộ gia đình sử dụng: Khử trùng bằng hóa chất bột (thường là Cloramin B loại 27% clo hoạt tính, Clorua vôi) và phải do cán bộ y tế chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Nước đã được khử trùng có thể sử dụng cho mục đích sinh hoạt nhưng vẫn phải đun sôi ở nhiệt độ cao thì mới dùng uống được.

Ngoài các biện pháp xử lý nước như trên, hộ gia đình có thể sử dụng thêm thiết bị lọc để xử lý nước. Hiệu quả lọc nước của thiết bị phụ thuộc vào chất lượng nước đầu vào, công nghệ lọc, tình trạng và chất lượng của thiết bị lọc, thời gian sử dụng. Nên sử dụng những thiết bị đã được kiểm định, cấp phép của các cơ quan chức năng, đồng thời tuân thủ hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất để bảo đảm hiệu quả lọc nước. Lưu ý nước đầu vào của các thiết bị lọc nước phải là nước đã được làm trong, không dùng trực tiếp nước bề mặt từ ao hồ, sông suối, kênh rạch... để tránh bít tắc thiết bị lọc.

Xử lý các giếng nước để ăn uống và sinh hoạt: Đối với giếng khơi, dù đã dùng ni lông hoặc nắp bịt miệng giếng, nước trong giếng vẫn bị ô nhiễm rất nặng vì nắp và ni lông chỉ ngăn rác, cặn vào giếng, chứ không ngăn được nước bẩn vào giếng. Với công đoạn làm trong nước, người dân có thể dùng phèn chua với liều lượng 50g/1m3 nước. Nếu nước đục nhiều, có thể cho lượng phèn tối đa tới 100g/1m3 nước. Hòa tan hết lượng phèn cần thiết vào một gàu múc nước hay xô nước, tưới đều dung dịch vào trong lòng giếng nước. Thả gàu múc nước chìm sâu xuống giếng, kéo mạnh gàu lên khoảng 10 lần rồi để yên tối thiểu 30 phút cho cặn lắng hết, sau đó tiếp tục tiến hành khử trùng. Với nước giếng khoan, người dân cần bơm hết nước đục và bơm tiếp tục khoảng 15 phút để loại bỏ nước có khả năng bị nhiễm bẩn. Vét sạch bùn trong giếng, chú ý làm vệ sinh sạch sẽ bơm nước và sàn giếng.

Nếu giếng bị ngập nhưng nước lụt không tràn vào giếng và nước giếng trong thì vẫn phải khử khuẩn trước khi sử dụng. Nếu điều kiện cho phép thì múc cạn và thau rửa, nếu không thì có thể tiến hành khử khuẩn ngay nước trong giếng để sử dụng. Đối với các giếng đã bị ngập lụt thì nhất thiết phải thau rửa và khử khuẩn mới được sử dụng.

Thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Mobile VerionPhiên bản di động