BẢO TỒN THÚ CHƠI ĐỊA LAN GIỐNG CỔ - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, năng mai phơ phất non tơ, những đóá lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa toả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.
Ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Chi và bà Triệu Thị Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai nằm trong một khu vườn quanh năm rợp bóng xanh. Mùa hạ, ngõ vào nhà thơm ngát hương hoàng lan, mùa thu, dìu dịu hương quỳnh, hương quế. Hương hoa từ trên cao theo gió sớm, sương đêm, buông tỏả xuống mặt đất hiền hòa, tạo nên một bầu không gian thanh nhã và mộng mơ.
Nhưng qua ba tháng mùa đông khô cằn, khi những màn mưa xuân phơ phất vương bay trong trời đất, ngôi nhà của ông Chi lại chìm ngập trong một bầu hương thơm nồng nàn mà rất đỗi thanh tao. Ấy chính là hương thơm của hàng trăm chậu địa lan đang kỳ trổ hoa. Ông Chi mê đắm vì lan đã bao năm rồi không nhớ nổi: "Mỗi giống địa lan nó lại có dáng lá vẻ hoa khác nhau, hương thơm cũng thế. Hoàng vũ thơm ngọt, Mặc biên thơm ngát, Cẩm tố thơm dịu, Hoàng điểm thơm thanh... Chỉ nghe gió thổi từ xa xa đã biết khóm lan nào đang tỏa hương, Người cứ như đang bay lên mây ấy chứ".
Trong nền văn hóa cổ truyền các dân tộc Á Đông, sự vần chuyển của một năm thời gian vũ trụ được mã hóa bằng hình tượng các loài hoa quý giá và đặc sắc của bốn mùa: Xuân lan - Hạ liên - Thu cúc - Đông mai. Hoa lan mùa xuân, hoa sen mùa hạ, hoa cúc mùa thu, hoa mai mùa đông.
 |
Hoa địa lan có nguồn gốc đầu tiên từ vùng Tây Nam Trung Quốc |
Hoa lan, tự xa xưa đã được các bậc tiền nhân liệt vào hàng "vương giả chi hương" có lẽ không chỉ bởi chúng vốn được lưu truyền trong chốn cung vua, phủ chúa cao ngạo, thâm nghiêm, mà chính là bởi chúng mang thứ hương thơm không loài hoa nào trên thế gian sánh nổi. Tuy nhiên, ông cha ta tự xưa chỉ ngưỡng vọng các loài địa lan tức là các loại hoa được trồng trong đất, do tự tay người chăm sóc. Còn đối với các loài phong lan, tuy muôn hình vạn trạng, thắm sắc, đượm hương, thì cũng vẫn chỉ là cây rừng hoa núi, hoang sơ, lạ lẫm. Người ta yêu địa lan không chỉ bởi sắc đẹp và hương thơm của chúng, mà còn bởi vì, chúng là những tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào chính bàn tay kinh nghiệm và sự sáng tạo của những người yêu hoa.
Vậy mà, trong vòng nửa thế kỷ qua, người Hà Nội chỉ loáng thoáng nghe nhắc đến hoa lan qua câu tục ngữ: "Làm chúa chơi lan, làm quan chơi trà" hoặc là qua áng văn chương tuyệt mỹ của nhà văn người Hà Nội gốc, nổi tiếng hào hoa, lịch lãm Nguyễn Tuân:
"Vang bóng một thời". Trong những câu chữ được gọt giũa cầu kỳ đến mức điêu luyện ấy, vẫn đau đáu nỗi niềm của một kẻ nặng lòng hoài cổ, đang thả hồn chìm đắm trong những dòng hồi ức lung linh, kỳ ảo, nhớ về vẻ đẹp của thời quá vãng xa xôi tưởng sẽ không bao giờ sống dậy, chỉ còn lại đôi ánh hào quang mờ dần trong niềm tiếc nối khôn nguôi.
Thế rồi, khi nhắc tới khái niệm dân dã như ngọc lan, hoàng lan và sau này, khái niệm đó được làm giàu thêm bởi trăm loài phong lan hoang dã cùng những giống hoa lan được nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp hiện đại thì dường như không có tên tuổi bất kỳ một loài hoa địa lan cổ truyền nào lọt vào trong trí não những đứa trẻ Hà Nội sinh ra ở cái thời gian khó dằng dặc ấy.
Thì bỗng đâu, cũng thầm lặng, nhẹ nhàng như là trong khoảnh khắc lìa xa năm xưa, vào một sớm đầu xuân mới, dưới làn nắng nhẹ vương tơ, thấp thoáng hiện lên những dáng vẻ, những sắc màu như lạ như quen. Lan Hoàng Vũ như cơn mưa màu cốm non, lan Hoàng Điểm hoa nâu chấm vàng như gấm thêu, lan Cẩm Tố hanh vàng, cành vươn, cánh dài thon thả, thanh thoát như đôi cánh tay vũ nữ vút bay trong điệu khúc thần tiên.
Và người Hà Nội, cũng như chợt tỉnh giấc mơ, mừng rỡ đón chào những nàng tiên lan, những nàng tiên chỉ hiện hình trên thế gian, dưới một bầu trời bình yên, sán lạn, và chỉ khoe hương sắc bên những con người không mấy còn cay cực, vật vã bởi cuộc mưu sinh khốn khó. Hà Nội trong những năm cuối thế kỷ XX, dường như đã thoáng hiện dáng vẻ của một chốn địa đàng sơ khởi mà bao lớp người chúng ta từng mơ ước
Và cứ như thể đã quen biết tự trăm năm, người Hà Nội đã không lấy làm lạ lẫm khi gọi tên hàng chục hàng trăm loài địa lan quý hiếm đang tụ hội trở về đất kinh kỳ ngàn tuổi. Nào là Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Thanh Trường, Ngân Biên, Mạc Biên, Cẩm Tố, Hoàng Vũ, Hoàng Điểm, Tiểu Kiều, Đại Kiều... Những tên hoa cao sang, mỹ lệ đến thế mà lạ không, tưởng như ta đã từng biết đến trong những giấc mơ xa.
Nghe người ta nói, thì hoa lan có tới vài ba trăm loài, với hàng ngàn cá thể khác nhau. Song những dòng lan lưu truyền tại Hà Nội tương truyền có nguồn gốc từ hoàng thành, vương phủ, nên chúng mang hương thơm quý giá hơn hẳn địa lan ở các vùng miền khác trên đất nước. Bởi thế, chúng được giới chơi lan mến chuộng tha thiết.
Cho đến bây giờ, vườn cảnh nhà nghệ nhân Lê Quyết Bội tại làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây cũng chỉ có dăm bẩy chậu lan bầy rải rác quanh bể nước non bộ trước sân nhà. Lão nghệ nhân, tóc bạc trắng, thong thả cầm chiếc bình đồng nhỏ, khẽ khàng tưới nước vào từng chậu lan. Ngày xửa ngày xưa, cả một dải đất rộng lớn bên hồ vốn là thủỷ thổ của các loài địa lan cổ truyền...
Bằng một giọng nói trầm trầm, nghệ nhân đà đận kể: Lan là một loài cây rất kỹ kén đất. Vào mùa hanh khô, người ta tát ao, vét bùn. Gạt đi lớp bùn hoa trên mặt, người ta xắn lớp bùn thứ hai đem phơi khô trên sân nắng. Chừng độ ba bốn, thậm chí cho tới sáu tháng sau, khi bùn khô nẻ, hết sạch tạp chất, sâu bọ, người ta mới đem đập vỡ, sàng lọc, để đưa lên chậu trồng lan. Bởi vì rễ lan ưa thoáng khí và thoát nước.
Nghệ nhân Nguyễn Luân, một nhà làm hoa chuyên nghiệp của làng Nghi Tàm lúc nào cũng tha thiết với địa lan giống cổ:
- Người xưa truyền lại rằng, lan cũng như trà, tựa như các nàng phi tần, quận chúa, tiểu thư khuê các, hiếm khi lộ diện bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, sỗ sàng. Lan thường quen ẩn mình dưới tán lá rợp hay giàn thưa che nắng, như người đẹp núp bóng quân vương mà khoe hương sắc.
Chuyện xưa kể lại rằng, những khóm hoa trong cung vua phủ chúa sở dĩ tốt tươi, ấy là bởi hàng ngày chúng được các cung tần mỹ nữ dốc công chăm sóc. Chờ khi lan trổ hoa, các nàng sẽ có cơ hội đón rước đấng quân vương đến ngự lãm. Do chậm sinh sôi, nảy nở, nên lan phải được chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo và kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, do là thứ cây khó tính, nên việc chăm sóc cũng phải vừa mức, tránh sự bất cập cũng như thái quá. Phân bón cho lan cũng không thể tùỳ tiện, phải ngâm ốc và cá vụn trong nước khoảng độ nửa năm cho hoai hết mùi hôi, rồi mới pha loãng mà tưới cho lan.
Chớ bao giờ nghĩ tới việc có thể dùng phân hóá học hay thuốc kích thích sinh trưởng. Thế thì thà trồng rau mà hái lá nấu canh.
Nghệ nhân Nguyễn Ninh ở làng Nghi Tàm, người sở hữu một vườn trà lan nức tiếng trong giới chơi hoa xứ Bắc với những khóm lan đắt giá tới hàng chục triệu đồng là một bậc cao thủ trong kỹ nghệ trồng và chăm sóc những giống địa lan giống cổ được cha ông truyền lại:
- Khách đến tham quan thì nhiều chứ mua bán thì không mấy.
Được giá thì vợ chồng tôi bán, không thì lại để chơi xuân. Tiền cũng quý nhưng lan còn quý hơn ấy chứ. Bán đi gây lại chả dễ trong cái thời tiết khí hậu ô nhiễm thế này. Lan giờ đây dễ bị nấm bệnh. Chữa bệnh cho lan có khi còn khó hơn chữa bệnh cho người. Lá lan hễ cứ xuất hiện một vài chấm đen là kém đi vẻ đẹp toàn bích. Người chơi mất hứng luôn. Một nhánh lan lụi đi thì ruột xót như muối vậy.
Mặc dù hoa lan mỗi năm chỉ nở có một lần, song kỳ hoa kéo dài chừng vài ba tháng, như thế, hương sắc của nó đã kịp trở thành niềm thân yêu quấn quýt khó rời. Hương hoa lại tuỳ theo thời khắc hay hướng gió mà tỏa lan gần xa, lúc thắm thiết, sực nức, khi lại nhạt nhòà xa xôi, như mơ như thực, như có như không. Bởi vậy càng khiến cho kẻ yêu hoa thêm say đắm, chờ đợi, ngóng trông.
Còn nhớ trong khúc Tỳ Bà Hành nồi tiếng, khi cô gái đẹp bến Tầm Dương buông tay đàn ngưng lặng trên mặt sông đêm, nhà thơ Đường Bạch Cư Dị đã thốt thành lời:
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
(Lúc này lặng tiếng còn hơn cất tiếng)
Cái khoảnh khắc lan ngừng tỏả hương giữa hai đợt gió, cũng có thể ví như thế chăng?
Hoa lan có nhiều chủng loại. Mỗi loại thường chọn mùa trổ bông khác nhau. Có thứ lan nở mùa xuân, có thứ lan nở mùa hạ, song có thứ lan nở về mùa thu hay mùa đông. Lại có thứ lan nở cả bốn mùa. Các cụ ta khó tính, giới sĩ phu Bắc Hà vốn thế, vẫn chê lan tứ thời là thứ dễ dãi, rẻ tiền, như những kẻ xu phụ tiểu nhân ngoài xã hội, không biết giữ phẩm giá tư cách trong sự đổi thay của thời thế. Nói như vậy, quả là cũng oan uổng cho hoa. Song đã gọi là nghệ thuật, là thú chơi, có mấy khi và có mấy ai lại không thiên lệch một đôi phần.
Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, nắng mai phơ phất non tơ, những đóa lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa tỏả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.
Hàng năm, vào một ngày xuân đẹp trời, lan trong vườn nở rộ, nhà chủ thường mời gọi dăm ba người bạn chí cốt, thuộc diện “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đến chơi nhà. Khách gần, khách xa, đều không thể bỏ lỡ dịp may hiếm có trong năm.
Người ta ví, chăm được một chậu lan quý cũng tựa như chinh phục được một cô gái đẹp. Cuộc chinh phục càng khó khăn thì chiến công càng vẻ vang, và kẻ chiến thắng càng thêm phấn khích, tự hào.
Có lẽ bởi vậy mà trong giới chơi hoa, mới nảy sinh thú vui trưng hoa, thưởng hoa, bình hoa. Để mà ở đó, người ta có dịp kể lể, tán tụng, so sánh, phẩm bình về vẻ đẹp và hương thơm của từng khóm lá, từng dò hoa. Xưa nay, trong muôn loài hoa cảnh, chỉ có hoa lan, thứ hoa "vương giả chi hương" mới xứng đáng được chủ hoa mở tiệc đón mừng, khao đãi. Thành ngữ "bữa tiệc thưởng hoa" ra đời từ đó cũng nên.
Thực ra, cái đáng quý nhất ở các loài địa lan chính là hương thơm của chúng. Tự xưa, đối với dân các nước Á Đông thì ngay cả trong các khái niệm thuộc về mỹ cảm, cũng nặng chất duy lý. Tuy hướng đến sự toàn bích, tận thiện, toàn mỹ, song nếu xét nét riêng, thì cái sắc cái hình vẫn không thể sánh nổi cái thanh, cái hương.
Bởi thế, tuy hoa trà, hoa mẫu đơn được bầu là chúa các loài hoa mà các bậc tiền nhân, vẫn coi chúng là những thứ hữu sắc vô hương, chẳng coi trọng tôn thờ như đối với các loài hoa mang hương thơm như thuy tiên, địa lan.
Tuy mỗi giống địa lan đều có hương thơm đặc trưng riêng khó lẫn, nhưng tựu trung hương thơm của hoa lan rất dịu dàng và thanh tao, nhẹ nhõm và tinh khiết. Lại nói, trong cuốn truyện vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng miêu tả sự tinh tế đến mức quá kỳ cầu, sự sang trọng đến mức quá cao xa của thú chơi hoa lan, nhất là khi các bậc tiền nhân tố chức một bữa tiệc thưởng hoa.
Chờ khi trong vườn có đôi dò lan hé nở, nhà chủ thường lấy mươi tờ giấy tốt, làm khung nứa mỏng, nương theo chiều cao của ngọn hoa mà phất đôi ba chiếc lồng bàn nhẹ. Thế rồi dâu gai trong nhà phải rửa sạch từng viên đá cuội trắng tròn, đem tẩm kẹo mạch nha nấu từ mầm lúa nếp, xếp vào những đĩa nhỏ, bầy quanh gốc lan, đậy lồng bàn cho kín. Sau một ngày đêm ủ hương lan như thế, nhà chủ mới mở tiệc trà hay rượu, mời đôi ba người bạn tri âm tri kỉ đến thưởng hoa, và ngâm vịnh thơ phú, bình luận văn chương.
Chao ôi! Cái thú chơi cao sang đến vậy, thì làm sao có thể tồn tại nổi trong mấy mươi năm chiến tranh giặc giã, Tây Tàu nhộn nhạo, mới cũ bất phân. Nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Hà, cộng tác viên thân tín mảng văn hóa Hà Nội cho các báo đài thủ đô có lúc rất ngậm ngùi:
- Mấy chục năm chiến tranh bao cấp Hà Nội khổ quá. Người dân lo ăn chả đủ nói gì đến thú chơi. Bao nhiêu thứ hoa cảnh, chim chóc cứ lay lắt rồi tàn lụi mất mát dần. Tiếc sao mà tiếc! Dẫu bây giờ có khôi phục lại cũng sẽ chuệch choạc lắm. Vì các cụ cao niên tinh sành đã theo nhau trước sau đi xa hết. Sách vở thì chả có mà dẫn truyền.
Vậy mà chỉ chừng sau mươi năm khi chiến tranh kết thúc, non sông thống nhất cuộc sống trở lại thanh bình no ấm, thì theo đó, thú chơi hoa lan cũng như thú chơi hoa cảnh chim cá quý hiếm như thủỷ tiên, trà hoa, hoạ mi, chim yến, đã phục hồi một cách nhanh chóng.
Gần đây, giới yêu hoa ở Hà Nội gồm các bậc văn nhân, trí giả, nghệ nhân cây cảnh, các bậc cao niền và cả những người trẻ tuổi, đã dần dần nhóm họp thành những hội chơi nhỏ. Họ thường đi lại thăm thú vườn tược hoa cảnh lẫn nhau, bàn bạc hỏi nhau cách thức chọn giống, chăm sóc phòng bệnh cho hoa, tìm tòi sưu tập thêm những giống hoa lan quý hiếm, mới lạ. Và họ coi đó là niềm vui đích thực, là những khoảng thư giãn cần thiết, là sự dinh dưỡng tinh thần hữu ích trong cuộc sống còn bộn bề lo âu vất vả hôm nay.
Gia đình ông bà Chi - Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai cứ mỗi mùa hoa nở lại mở tiệc khao đãi đôi lần. Khách gần khách xa nườm nượp kéo đến. Văn nhân, nghệ sĩ, thương gia đều hiện diện.
Có các cụ cao niên trên phố cổ, lại thêm các chàng thanh niên nông dân mới vào nghề trồng lan. Xem hoa, ngắm lá, thưởng hương, trầm trồ, bàn luận sôi nổi. Cụ Đặng Trường Lâm tuổi ngoại bẩy mươi, nhà ở phố Nguyễn Trường Tộ, râu tóc bạc trắng nhưng đôi mắt vẫn rất tinh anh, giọng nói sang sảng:
- Trên phố bây giờ làm gì ai có nổi khu vườn lan trà rộng lớn như thế này. Cũng khó ai sưu tập đủ hầu hết các giống địa lan cổ như nhà ông Chi đây. Tôi thích nhất chậu lan Hoàng điểm này. Hoa như gấm thêu, lá xanh toàn bích không một nốt đen vết xước nào. Hoa này còn chơi hằng tháng nữa cũng chưa tàn.
Ông Nguyễn Văn Hùng, kỹ sư trồng trọt của sở nông nghiệp Hà Nội cùng mấy cậu thanh niên trẻ xúm xít quanh khóm lan Ngân biên trổ hoa nâu phớt ánh vàng thâm trầm, quý phái:
- Quanh năm ông bà Chi - Thái chăm chút, bón tưới, phòng bệnh rất vất vả. Nhưng khi hoa nở khắp vườn lại mời gọi anh em đến thưởng lan, chia vui. Mọi người học thêm được ở ông bà nhiều kinh nghiệm nhân giống, chăm sóc, đánh giá lan rất quý giá. Chậu Ngân biên này chẳng hạn, hiếm lắm đấy, lá nó xanh trong lòng mà viền hai viền trắng hai bên, rất điệu đà.
Nghệ nhân Nguyễn Luân, một trong ba nghệ nhân địa lan giống cổ tại làng Nghi Tàm ở tuổi ngoại tám mươi vẫn lưu giữ bên hiên nhà mấy khóm lan quý Hoàng Vũ, Thanh Trường, Mạc Biên:
- Tôi chỉ chơi lan giống cổ truyền, tự nhân giống, tự chăm bón.
Nhưng tôi già yếu rồi nên cũng chả có sức được như xưa. Mươi năm nay bên Trung Quốc người ta mang giống lan của mình về bên ấy nhân ra trong phòng thí nghiệm rồi đem trở về Việt Nam bán nhiều lắm, giá rất rẻ. Nhưng lan đó hoa mảnh, sắc nhạt mà mùi hương lại nhạt nhòa, chỉ chơi được một mùa rồi tàn lụi dẫn. Sao bằng hoa bên ta được.
Vườn lan của nhà anh Nguyễn Vinh Dũng ở làng Nhật Tân cũng là một địa điểm đầy sức thu hút giới chơi lan ở Hà Nội và cả các tỉnh ngoài Bắc, trong Nam. Anh chị có một lối chơi lan rất cao ngạo. Nếu không gặp được khách mua đúng ý, không đáng chỗ trao gửi những đứa con yêu dấu, anh chị Dũng thà để lại vườn, mỗi tuần cắt vài chục giò trưng trong chiếc bình lớn, khiến không gian trong nhà ngoài vườn đều thơm nức như trong động tiên.
Một người cùng thế hệ chơi lan với anh Dũng Nhật Tân, thế hệ ngõ hầu có thể tiếp nối thế hệ chơi lan lão niên của Hà Nội như cụ Ninh, cụ Bội, cụ Luân, ông Chi, đó chính là vua lan Trần Tuấn Anh ở Đình Thôn, Nam Từ Liêm. Trong khuôn viên vườn lan rộng hàng nghìn thước vuông mát rượi luôn đan cài hai ba tầng hoa cao thấp. Hàng nghìn khóm phong lan, địa lan, thạch lan mùa nào cũng ngập tràn màu sắc. Ban đầu khi bước chân vào thú chơi lan,
Tuấn Anh nghiêng về phong lan, thạch lan. Trong đó có tổi 5 loại lan mà anh kỳ công sưu tập từ các miền rừng sâu núi thẳm khắp đất nước và đã được các nhà nghiên cứu lan trên thế giới đặt tên là Lan Tuấn Anh. Sau dần, qua thời gian, các giống hoa địa lan giống cổ Hà Nội vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh cũng đã chinh phục Tuấn Anh từ vẻ đẹp thanh tao và hương thơm huyền diệu của chúng. Hơn thế, thú chơi địa lan giống cổ còn chinh phục Trần Tuấn Anh bằng ý nghĩa tinh thần cao sang lịch lãm của văn hóa cổ truyền người kinh kỳ Thăng Long Hà Nội.
Đã lâu lắm rồi, kể từ thời đi thăm vườn lan của nghệ nhân Lê Quyết Bội trên Nghi Tàm từ vài mươi năm trước cho đến gần đây, tôi mới được gặp lại một vài cụm lan Thanh Ngọc vô cùng quý hiếm tại vườn lan Trần Tuấn Anh. Anh đang cùng những người bạn cộng sự đêm ngày cần mẫn nhân lên giống địa lan quý hiếm ấy. Tuy nhiên không phải qua vài ba năm mà đã được như ý. Mặc dù giá mỗi nhánh lan thanh ngọc trên thị trường hiện nay lên đến vài ba triệu đồng thì các chủ hoa cũng chả thể làm sao cho nó phát triển nhanh như các loại lan nhân giống trong phòng thí nghiệm để trở thành lan thương mại đại trà trên thị trường. Cái khó và cái quý lại là ở chỗ chậm chạp khác thường của địa lan giống cổ.
Tuấn Anh mê lan đến thành giai thoại trong làng hoa. Mê đến nỗi lấy cô vợ nào thì cô vợ ấy cũng đều mà bỏ đi vì không chịu nồi cảnh anh chồng chăm lan hơn chăm vợ, yêu lan hơn yêu vợ. Tam tứ phen rồi đó chứ không phải ít. Muốn truyền đam mê hoa lan cho các con mà chúng lại thờ ơ, bỏ bễ. Đứa sang Mỹ sinh sống đã đành, đứa ở lại Việt Nam cũng thế nốt. Rốt cuộc là chỉ còn có mình Tuấn Anh ở lại giữa vườn lan với những người giúp việc xa lạ và một bầy chó dễ đến vài chục con ngày đêm sủa nhăng nhẳng canh vườn lan quý. Vườn lan Tuấn Anh thuê đất tại Đình Thôn, Nam Từ Liêm đã mấy chục năm nay, nhưng sang năm Tân Sửu 2021 sắp bị chủ đất bắt di dời để lấy đất xây nhà. Vua lan muốn có một khoảnh đất riêng ở ngoại thành để lập vườn lan mới, nhưng chả có cấp thẩm quyền nào chịu chứng nhận cho anh là đang sản xuất nông nghiệp để bán đất quy hoạch trang trại cho. Thế mới khó thay! Tuấn Anh ngậm ngùi lắm:
- Các cụ cao niên làng lan xứ Bắc đã đi xa gần hết. Đến thế hệ tôi thì chỉ có một vài người. Khá là đơn độc. Các bạn trẻ tham gia thú chơi lan hiện nay cũng đông đúc, giỏi giang lắm. Nhưng đa phần các cậu ấy chỉ quan tâm đến việc kinh doanh kiếm lợi với những giống lan thời thượng chiều đãi thị hiếu đám đông, chứ không mấy ai mặn mà với việc sưu tập, bảo tồn, phục tráng các giống lan cổ truyền của cha ông. Đó là sự thực.
Lâu nay, nếu như giới chơi phong lan đang bị cuốn hút vào những dòng lan đột biến giá tiền bạc tỷ thì giới chơi địa lan lại đang bị hấp dẫn bởi những dòng lan kiếm (dòng lan lá to hình giống chiếc kiếm) mới sưu tầm được tại những vùng rừng sâu núi thăm của Việt Nam và các nước Đông Nam châu Á.
Trước nhu cầu thị trường địa lan càng phát triển, mở rộng, các nhà khoa học đầu ngành trồng trọt ở nước ta cũng chẳng thể thờ ơ, nếu như không nói rằng, nhu cầu đó cũng tạo lập một cơ hội tốt cho họ thể hiện sự tinh nhạy và tài năng chuyên môn. Bắt đầu từ năm 1997, Trung tâm Hoa cây cảnh thuộc Viện di truyền nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đề tài khoa học nghiên cứu phát triển các loài hoa địa lan thơm Hà Nội. Chị Phạm Thị Liên là người được giao chuyên nghiên cứu về đề tài nhân giống vô tính trong phòng thí nghiệm để đưa ra trồng đại trà các giống lan quý cổ truyền dân tộc. Đó chính là đề tài bảo vệ luận án tiến sĩ của chị hoàn thành tốt đẹp vào năm chuyển giao thế kỷ, năm 2000. Tuy nhiên, đề án cũng chỉ dừng ở một vài giống lan thông dụng như lan
Hạc đính, lan Trần mộng chứ chưa đạt số lượng như mong muốn với những giống lan quý hiếm của cha ông.
Kể thêm hầu quý vị một câu chuyện nhỏ. Tôi vốn gắn bó với làng trẻ mồ côi SOS Hà Nội tại Mai Dịch từ khi làng trẻ mới hình thành vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, thấm thoắt đã hơn ba mươi năm. Ngôi nhà Hoa Phượng trong làng trẻ là nơi tôi nhận đỡ đầu một cháu nhỏ mồ côi cho nên với tôi là thân thiết nhất. Người mẹ của nhà Hoa Phượng tên là Ngô Thị Sinh. Mẹ Sinh sinh năm Ất Mão 1975. Chị cũng như tất thảy các bà mẹ SOS, đều là những người phụ nữ tình nguyện không xây dựng hạnh phúc lứa đôi để trọn đời cống hiến cho sự nghiệp nuôi dưỡng trẻ mồ côi cơ nhỡ. Mẹ Sinh không chỉ nuôi dạy các con rất khéo léo mà còn có tài trồng rau quả cho các con ăn hằng ngày và chăm hoa cảnh trang trí khuôn viên quanh năm rất giỏi. Tại mặt trước ngôi nhà Hoa Phượng, mẹ Sinh trồng đầy phong lan, địa lan. Mùa xuân đến, hoa nở rạng rỡ, hương thơm ngào ngạt. Nói thì bảo buồn cười, nhưng trong đó tôi rất thích mấy khóm địa lan vào hạng bình dân nhất, giới sành chơi lan chả bao giờ đoái hoài đến, nhưng vẫn nở hoa tím ngát, đẹp đến nao lòng, ấy là hoa Chu đinh lan. Mẹ Sinh thấy mỗi lần tôi vào làng trẻ cứ mê mẩn ra ngắm vào trông nên vồn vã:
- Chu đinh lan thường lắm chị ạ. Trồng cho đẹp mắt thôi. Để em gửi biếu chị mấy giò lan thơm chị chơi nhé!
- Ấy không! Chị đi suốt, có thời gian đâu mà chăm hoa. Nó lụi đi thì phí lắm em ạ. Thi thoảng chị vào chơi với mấy mẹ con và xem ngắm là vui rồi. Chăm hoa phải có tay, chứ có phải ai muốn là cũng được đâu.
Những thú chơi cổ truyền thanh lịch hào hoa cứ dần dần sống lại, chẳng cần đến một cuộc hô hào vận động rầm rộ tốn kém nào, phải chăng chúng cũng chính là những tín hiệu có giá trị đích thực từ một cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một sung túc và hài hòa của người Hà Nội hôm nay./.
Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!