Chủ nhật 17/11/2024 21:16

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng “thanh minh” về nghịch lý trong điều hành chính sách tiền tệ

Ủy ban Kinh tế đánh giá lạm phát thấp, lãi suất cao là nghịch lý, thể hiện bất cập trong điều hành chính sách tiền tệ. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nói gì?

Nêu ý kiến tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng 16/10, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho hay, về tín dụng đến ngày 21/9 tăng 5,33% và đến hết tháng 9 tăng gần 7%. Theo bà Hồng, hiện nay với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong xúc tiến thương mại, tăng xuất khẩu, tăng khai thác thị trường trong nước, thì từ nay đến cuối năm tín dụng sẽ tiếp tục tăng.

Về xử lý các ngân hàng yếu kém, bà Hồng nhấn mạnh đây là việc rất khó, cần có thời gian. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo rất quyết liệt. Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành đã trình xin chủ trương của cấp có thẩm quyền và hiện đang tích cực thực hiện.

Tuy nhiên, theo bà Hồng, việc xử lý các ngân hàng yếu kém trong điều kiện bình thường đã khó, nhưng trong bối cảnh nửa nhiệm kỳ với kinh tế thế giới và trong nước vô cùng khó khăn nên còn khó khăn hơn nữa. Do vậy, việc xử lý các ngân hàng yếu kém vẫn đang trong giai đoạn hoàn tất.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng thông tin trong báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế liên quan phát triển kinh tế - xã hội 5 năm có nêu một số hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, bà mong có xem xét, cân nhắc.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng “thanh minh” về nghịch lý trong điều hành chính sách tiền tệ

Về đánh giá việc quá chú trọng kiểm soát lạm phát theo nhiều ý kiến cũng là nguyên nhân khiến lãi suất cao, đặc biệt là cuối năm 2022, đầu năm 2023 trong bối cảnh doanh nghiệp khó khăn thì việc điều chỉnh tăng trưởng tín dụng chậm là bất cập, bà Hồng cho rằng các ý kiến này nhìn từ từng góc độ riêng lẻ.

Còn việc điều hành chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, theo bà Hồng phải theo tinh thần bám sát yêu cầu Quốc hội và trên cục diện tổng thể của nền kinh tế. Cụ thể, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ yêu cầu phải giảm mặt bằng lãi suất, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối, đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng.

Trong bối cảnh thế giới tăng lãi suất rất cao và xét thấy trong năm 2022 chúng ta vẫn có thể kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội, nên những tháng đầu năm Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ mức lãi suất điều hành. Tuy nhiên, đến tháng 10/2022, sự kiện Ngân hàng SCB bị rút tiền hàng loạt xảy ra nên Ngân hàng Nhà nước phải tập trung ưu tiên đảm bảo an toàn hệ thống, ngăn ngừa nguy cơ đổ vỡ như sự đổ vỡ của các ngân hàng trên thế giới.

Do đó, mọi biện pháp lúc đó phải tập trung ngăn ngừa tính đổ vỡ hệ thống và lúc đó các tổ chức tín dụng cũng căng thẳng về thanh khoản, một số thiếu dự trữ bắt buộc, nguy cơ mất khả năng chi trả. “Tại thời điểm đó, Ngân hàng Nhà nước chưa điều chỉnh tăng trưởng tín dụng vì các ngân hàng đang tập trung đáp ứng khả năng chi trả cho người dân khi có tác động tâm lý, dẫn đến người dân rút tiền từ các ngân hàng nhỏ chuyển sang các ngân hàng lớn...” - bà Hồng giải thích.

Bà nói thêm đến tháng 10, tháng 11 khi thanh khoản được cải thiện dần thì đầu tháng 12, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng trưởng tín dụng ngay.

“Khi hệ thống ngân hàng có sự cố rút tiền hàng loạt thì thị trường tiền tệ, ngoại hối rất căng thẳng, thậm chí là tâm lý nhà đầu tư nước ngoài. Nên vào tháng 10/2022, tỉ giá tăng rất cao, có lúc 10%. Lúc đó, để ổn định tỉ giá chỉ có một số giải pháp là can thiệp ngoại tệ, điều chỉnh tăng lãi suất, hạn chế thanh khoản. Khi đó, Ngân hàng Nhà nước đã làm cả ba và đã giúp ổn định trở lại tỉ giá... Do đó, mong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cân nhắc” - bà Hồng đề nghị.

Về nhận định “lãi suất thấp, lạm phát cao là nghịch lý thể hiện sự bất cập trong công tác, chính sách điều hành tài khóa”, bà Hồng cũng mong cân nhắc bởi ý kiến này chỉ nhìn về góc độ lạm phát, lãi suất. Còn điều hành về lãi suất, các công cụ về chính sách tiền tệ phải căn cứ các nhiệm vụ, trong đó là mục tiêu lạm phát, các dự báo, xu hướng lạm phát thế giới, trong nước và yêu cầu ổn định tỉ giá, đảm bảo an toàn hệ thống.

“Những nhiệm vụ này không thể hy sinh nhiệm vụ nào, mà phải đảm bảo hài hoà, linh hoạt trong điều hành. Nếu xu hướng lạm phát bùng lên, thì chính sách tiền tệ có nhiệm vụ phòng ngừa, chuẩn bị xu hướng thắt chặt” - bà Hồng nói.

Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cho biết lạm phát có xu hướng đảo ngược, từ tháng 7 đến tháng 9 đã tăng lên, và lạm phát cơ bản tăng 4,49% trong 9 tháng đầu năm. Bà Nguyễn Thị Hồng cho rằng, đây cũng là vấn đề cần lưu ý trong điều hành chính sách tiền tệ.

Ngân Thương
Bài viết cùng chủ đề: Chính sách tiền tệ

Tin cùng chuyên mục

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: 25 năm hành trình vun đắp niềm tin

VietinBank có thu nhập hoạt động (TOI) cao nhất ngành Ngân hàng

BIDV và KIOTVIET hợp tác triển khai dịch vụ ngân hàng tích hợp

Quý 3/2024, tập đoàn Manulife toàn cầu tiếp tục tăng trưởng ấn tượng

Tập đoàn FPT bắt tay Sun Life Việt Nam hợp tác chuyển đổi số nhằm nâng tầm trải nghiệm Khách hàng

Hội thảo góp ý dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) đối với đồ uống có cồn

Khác biệt làm nên sức hút của các dịch vụ ngân hàng số TPBank

Lãi suất tiền gửi dưới 6 tháng tối đa chỉ 5,25%/năm

Trung bình mỗi ngày người dân mang 2.882 tỷ đồng gửi tiết kiệm ngân hàng

Tín dụng tiêu dùng kỳ vọng tăng tốc dịp cuối năm

Cổ phiếu MZG của Công ty Cổ phần Miza chính thức lên sàn UPCoM HNX

Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam triển vọng tích cực giai đoạn cuối năm 2024

Manulife nâng cấp sản phẩm Sống Khỏe Mỗi Ngày, đáp ứng nhu cầu của khách hàng về bảo hiểm sức khỏe

Tín dụng chính sách: Yếu tố giúp Việt Nam thành hình mẫu của thế giới về giảm nghèo

Doanh nghiệp châu Âu lạc quan về triển vọng đầu tư dài hạn tại Việt Nam

Techcombank tiên phong triển khai dịch vụ xác thực điện tử qua VNeID

Thị trường chứng khoán tuần tới: Nhà đầu tư đang chờ đợi tín hiệu hạ nhiệt của tỷ giá

Trái phiếu doanh nghiệp chậm trả giảm mạnh trong 10 tháng

Nguồn vốn tín dụng chính sách mở rộng cơ hội việc làm cho người dân

Tín dụng tăng 10% song sức hấp thụ vốn vẫn còn yếu