
Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình
"Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình" - Bài viết của tác giả Quang Lộc được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình
Quyết định tái khởi động điện hạt nhân là bằng chứng mạnh mẽ cho quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước để tạo những tiền đề cần thiết cho kỷ nguyên mới.
Từ quyết định tạm dừng hai dự án nhà máy điện hạt nhân 8 năm trước…
Cách đây đúng 10 năm, trên một bản tin điện tử xuất hiện bài báo với cái tít đầy hy vọng: “Năm 2023, Việt Nam sẽ có nhà máy điện hạt nhân”. Khi đó nhiều người đã bày tỏ kỳ vọng vào bước đột phá mới trong không gian năng lượng của đất nước, nhưng cũng có người, tuy không nói ra nhưng đã cho thấy những khía cạnh còn phân vân, thậm chí là lo lắng.
Câu chuyện phát triển điện hạt nhân thời điểm đó không còn là câu chuyện mới mẻ và đã được cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước là Quốc hội ra quyết sách. Theo đó, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 41/2009/QH12, ngày 25/11/2009, xác định quy hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam và nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải.
Đó là thời điểm cách sự cố hạt nhân Chernobyl của Liên Xô đã 23 năm nhưng sau đó 2 năm là sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima của Nhật Bản.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm và đoàn công tác Trung ương thị sát địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận. |
Quyết định triển khai các dự án điện hạt nhân tại Việt Nam khi đó là kết quả của những khảo sát, tham vấn hết sức kỹ lưỡng về địa điểm, về công nghệ của loại hình lò phản ứng. Các đối tác của Việt Nam cũng là các cường quốc về điện hạt nhân khi đó cũng đã khẳng định sẵn sàng chung tay với Việt Nam để dòng điện từ những nhà máy dự định xây dựng tại Ninh Thuận hòa lưới điện quốc gia, góp phần đem lại một hình ảnh mới cho năng lượng của Việt Nam.
Ai cũng biết những lợi ích to lớn về môi trường, về kinh tế mà điện hạt nhân đem lại cho phát triển năng lượng, phát triển quốc gia. Nhưng điện hạt nhân là một dạng thức năng lượng không giống như các dạng thức năng lượng khác, đòi hỏi những công nghệ hết sức khe khắt, đội ngũ vận hành là những nhân lực trình độ cao. Còn có cả những đòi hỏi cao về sự đồng thuận, thấu hiểu của người dân, của cộng đồng.
Chương trình phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam được manh nha vào những năm 1970, nhưng tới giai đoạn 1996-2009, loại năng lượng này mới được nghiên cứu một cách nghiêm túc, sau khi cấp có thẩm quyền cho chủ trương, với mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và nhu cầu điện rất cao.
Trong quá trình triển khai cụ thể quyết sách của Quốc hội về phát triển điện hạt nhân, những yếu tố cần thiết được đẩy nhanh như kết cấu hạ tầng, lựa chọn nhân lực quản lý, lựa chọn công nghệ được đặc biệt quan tâm. Còn những gì cần thận trọng như loại hình công nghệ, phương thức vận hành, nhân lực quản lý, cơ chế huy động vốn để xây dựng nhà máy cũng được tiến hành ở mức cao nhất trong điều kiện Việt Nam.
Cho đến tháng 11/2016, cân nhắc tất cả các điều kiện, Quốc hội đã ra quyết định dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Giải thích việc dừng khi đó, Chính phủ cho biết không phải do vấn đề công nghệ, an toàn mà điều kiện phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều thay đổi so với lúc quyết định đầu tư dự án. Khi đó, Việt Nam cũng cần nguồn vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng, các dự án trọng điểm tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội...
Nghĩa là phương án như dự định ban đầu đã không còn tính khả thi. Nhưng chỉ là dừng chứ không phải là nói lời tạm biệt với loại hình năng lượng tiên tiến này. Và tỉnh Ninh Thuận, một địa phương tràn đầy nắng gió thay vì là nơi đặt các nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam, vẫn là một trung tâm năng lượng của Việt Nam với các loại hình năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời.
Ninh Thuận vẫn giữ lời hẹn với điện hạt nhân như Quyết định số 1319/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tại quyết định này có nêu: “Giữ các vị trí đã quy hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận (vị trí Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2) làm đất dự trữ chiến lược lâu dài cho năng lượng, đảm bảo thuận lợi để thu hồi sau này khi có yêu cầu thực hiện các dự án quan trọng quốc gia. Quy hoạch để khai thác, sử dụng đất dự trữ chiến lược này hiệu quả, phù hợp quy định pháp luật và đảm bảo lợi ích của người dân... quan tâm đầu tư nâng cấp, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, cấp bách phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân trong vùng quy hoạch địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân”.
… đến việc tái khởi động ở thời điểm “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”
Sau đúng 8 năm tạm dừng, sau khi Trung ương Đảng quyết định chủ trương tái khởi động, tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV, việc quyết định "đánh thức" dự án điện hạt nhân đã được Quốc hội ra nghị quyết để làm cơ sở cho việc đẩy nhanh dự án.
8 năm là một giai đoạn không dài trong lộ trình phát triển đất nước nhưng không khó để nhận ra trong thời gian đó, tiềm năng, thế và lực của đất nước đã tiến rất nhanh. Đặc biệt đất nước đang ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của cả dân tộc, hướng tới những mục tiêu của các thời điểm 100 thành lập Đảng, 100 năm thành lập nước. Nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phát triển một nước Việt Nam hùng cường từ nội lực kết hợp với cơ hội của thời đại đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi mới về không gian cho năng lượng.
Điện đã tạm đủ, nhưng đó là chuyện của ngắn hạn và nhiều thách thức. Yêu cầu phát triển không thể chỉ bằng lòng với những gì có trước mắt mà còn không thể không tính kế lâu dài. Với các yếu tố phát triển tư duy đó đã là cần thiết, với năng lượng, trong đó có điện hạt nhân lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta không tự cho phép mình bỏ lỡ các cơ hội phát triển khi các điều kiện về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cho kỷ nguyên mới của dân tộc, của đất nước đã hội đủ, đã chín muồi.
Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị đã đặt việc phát triển năng lượng hạt nhân trong tổng thể phát triển năng lượng của đất nước trong vài chục năm tới. Theo Quy hoạch điện VIII, tổng công suất hệ thống điện hiện nay vào khoảng 80 GW sẽ phải tăng lên 150 GW vào năm 2030 và lên đến khoảng 570 GW vào năm 2050. Tuy nhiên, các nguồn năng lượng tái tạo và các nguồn điện nền hiện nay đang không ổn định và đang gặp khó. Về cơ bản, nguồn điện than sẽ hạn chế không phát triển với lý do là giảm phát thải. Nguồn điện khí chúng ta sẽ phát triển quy mô phù hợp. Tuy nhiên, điện khí chúng ta phải nhập khẩu từ quốc tế.
Bởi vậy, quyết định tái khởi động dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và nói rộng hơn là triển khai chương trình điện hạt nhân là một chủ trương đúng đắn và hết sức cần thiết nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững. Đây cũng là yếu tố rất quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài với các nguồn vốn tỷ USD vào Việt Nam.
Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, điện hạt nhân chính là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Trong lịch sử có một số sự cố về các nhà máy điện hạt nhân nhưng xét về xác suất là vô cùng thấp. Hơn nữa, những công nghệ hạt nhân hiện nay đã tiến bộ rất xa, trải qua rất nhiều thế hệ mới so với những công nghệ cũ trước đây.
“Việc phát triển nguồn điện hạt nhân sẽ đa dạng nguồn cung, bảo đảm an ninh năng lượng và chuyển dịch năng lượng xanh, giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào 2050 theo cam kết tại COP26. Bên cạnh đó, làm dự án điện hạt nhân còn là cơ hội để nước ta phát triển nhân lực chất lượng cao, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, tham gia vào chuỗi cung ứng công nghiệp điện hạt nhân toàn cầu”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Phát triển điện hạt nhân: Bác bỏ những luận điệu sai trái
Thực tiễn đã chỉ ra, vẫn còn có những thế lực thù địch không muốn thấy một đất nước Việt Nam phát triển bền vững, hùng cường. Chúng không ngừng tung ra những luận điệu xuyên tạc, thậm chí không từ một thủ đoạn, một cơ hội nào để cố tính bôi nhọ, đánh tráo khái niệm để mưu cầu việc chống phá việc phát triển.
Lĩnh vực năng lượng cũng nằm trong số các lĩnh vực mà các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, bôi nhọ. Xuyên tạc tác động môi trường của các dự án thủy điện, chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo gây ngộ nhận, hiểu nhầm phát triển điện gió dưới danh nghĩa tác động đến đời sống địa phương, cộng đồng, tạo dựng hình ảnh tiêu cực của các dự án điện than, dĩ nhiên là trong các luận điệu sai trái thù địch đó, không thể thiếu việc chống đối các dự án năng lượng hạt nhân với “lý do an toàn”
Luận điệu thường thấy của các thế lực phản động là ra sức tuyên truyền rằng “năng lượng hạt nhân là không an toàn” trong khi cố tình gắn với câu chuyện xảy ra với nhà máy điện hạt nhân Fukushima của Nhật Bản. Rồi rằng, “điện hạt nhân là ngoài tầm với của Việt Nam”, là “xài sang khi dân còn đói khổ”.
Tuy nhiên, khi tung ra các luận điệu này, các thế lực thù địch đã cố tình bất chấp một thực tế là công nghệ hạt nhân đã có những tiến bộ đáng kể những năm qua trong việc đảm bảo an toàn và hiệu quả năng lượng, đặc biệt là với thiết kế của các lò phản ứng thế hệ mới cũng như xử lý rác thải hạt nhân.
Để phản bác các quan điểm sai trái và thù địch liên quan đến chính sách năng lượng quốc gia có hiệu quả, cần thiết phải áp dụng một chiến lược đa diện, kết hợp giữa giáo dục, truyền thông và pháp luật. Mục tiêu là không chỉ minh bạch hóa thông tin mà còn tăng cường sự hiểu biết và đồng thuận trong cộng đồng về tầm quan trọng của các chính sách năng lượng.
Cần khẳng định, việc phát triển điện hạt nhân là mối quan tâm không chỉ của các quốc gia phát triển mà còn cả của các quốc gia đang phát triển. Công nghệ hạt nhân hiện đại đã cho phép rút ngắn khoảng cách tiếp cận về công nghệ, về khả năng huy động vốn cũng như trình độ quản lý.
Việt Nam phát triển điện hạt nhân hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn không chỉ cả trước mắt mà lâu dài. Phát triển điện hạt nhân là để tạo ra những bảo đảm cho an ninh năng lượng, an ninh quốc gia, đây là điều mà bất cứ một quốc gia nào cũng phải tính đến.
Những thông tin về quá trình triển khai các dự án điện hạt nhân đều được lan tỏa tới cộng đồng để tạo sự hòa quyện ý Đảng, lòng dân, tạo sự đồng thuận thống nhất cao trong triển khai.
Việc các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, tung các luận điệu sai trái về phát triển điện hạt nhân nói riêng và chính sách năng lượng nói chung đã cho thấy bộ mặt thật đáng lên án của những kẻ tự tách mình ra khỏi dòng chảy phát triển chung của dân tộc, của đất nước. Cùng với thời gian, những luận điệu đó đã không còn thuyết phục được ai, không còn có sức nặng, có chỗ đứng trong tâm tưởng, ý thức và hành động ở một đất nước mà ở đó trình độ nhận thức của người dân, của cộng đồng ngày càng cao như Việt Nam.
(Còn nữa)
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Hà Nội: Nhiều cây cổ thụ bị chặt hạ để làm dự án nhưng địa phương 'không biết'
Tại khu tập thể Thành Công, quận Ba Đình, đơn vị thi công dự án làm đường ngăn sân A4 - A5 đã chặt hạ nhiều cây xanh. Theo ghi nhận, việc thi công này đã khiến nhiều cây xanh có tuổi đời hàng chục năm bị cưa đổ. Chỉ trong vòng một ngày, 6 cây xanh tại khu vực này đã bị cưa cắt để nhường chỗ cho các công trình ngổn ngang. Nhiều người dân bày tỏ sự lo ngại sâu sắc về số phận còn lại của những gốc cây cổ thụ xung quanh khu tập thể này.
![]() |
Nhiều cây cổ thụ ở phường Thành Công, quận Ba Đình đã bị chặt hạ dù chưa được cấp phép cho hoạt động này theo quy định |
Nhiều cây cổ thụ ở phường Thành Công, quận Ba Đình đã bị chặt hạ dù chưa được cấp phép cho hoạt động này theo quy định
Dù nhiều cây cổ thụ đã bị chặt hạ nhưng đại diện chủ đầu tư dự án lại cho biết, đơn vị chưa nắm rõ thông tin về việc chặt hạ cây xanh. Theo ông Lê Trí Dũng, Phó Giám đốc Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng quận Ba Đình, quy trình chặt hạ cây xanh phải có sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền, nhưng tại phường Thành Công, việc đốn hạ cây xanh lại không được thực hiện đúng quy trình này.
Theo UBND phường Thành Công, việc mở con đường này ngăn này là để giải quyết tình trạng lấn chiếm sân chung để làm nơi đậu xe và buôn bán. Tuy nhiên nhiều cư dân cho rằng con đường này không mang lại hiệu quả như mong đợi. Đường trong khu tập thể vốn đã dài, không bị tắc nghẽn nên việc mở thêm đường ngăn sân khu tập thể chỉ khiến cho khu vực này trở nên chật chội hơn.
Cũng theo người dân, những gốc cây xanh này mới được UBND phường Thành Công thi công hạng mục bó vỉa, lát đá. Chưa đầy 1 tháng sau, các hạng mục này đã bị đào lên để thi công một dự án khác, gây lãng phí ngân sách của nhà nước.
Được biết, dự án thi công đường ngăn sân tập thể là một phần trong gói thầu cải tạo hạ tầng kỹ thuật tại một số phường thuộc quận Ba Đình, với tổng mức đầu tư gần 8 tỷ đồng. Người dân cho rằng cơ quan chức năng cần xem xét kỹ lưỡng việc chặt hạ cây xanh, đầu tư có hiệu quả và hạn chế lãng phí nguồn lực của nhà nước.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư
Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư. Bài viết của tác giả Nguyên Minh - Nguyễn Cường được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư
Chiều 5/12/2024, ngay sau buổi làm việc với tỉnh Ninh Thuận, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới thị sát địa điểm làm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.
Chuyến thăm sau một thập kỷ
Buổi chiều cuối năm nắng nhẹ, biển Phước Dinh xanh ngắt một màu trước những cánh đồng điện gió chong chóng quay tít. Nhịp sống thường nhật ở thủ phủ năng lượng miền Nam bây giờ là vậy. Ít người biết có một điều đặc biệt, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới trực tiếp thị sát nơi được chọn xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 tại thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm thị sát địa điểm khảo sát xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 |
Điều đó phần nào cho thấy sự quan tâm, sâu sát của người lãnh đạo cao nhất trước một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta.
Buổi sáng khi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắc đến chi tiết tròn 10 năm sau chuyến thăm Ninh Thuận của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông mới trở lại Ninh Thuận và rất xúc động trước những đổi thay ở vùng đất “vượt lên nghịch cảnh này”.
Một trong những điều mà Tổng Bí thư quan tâm nhất là lắng nghe tâm tư nguyện vọng của Ninh Thuận, triển khai chủ trương lớn, tạo đột phá phát triển nhưng an toàn cho dân vẫn phải đặt lên hàng đầu. Có lẽ vì thế trong phát biểu của mình, Tổng Bí thư nhiều lần đề cập vấn đề này. Ông khẳng định, điện hạt nhân là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Trong lịch sử có một số sự cố về các nhà máy điện hạt nhân nhưng xét về xác suất là vô cùng thấp. Hơn nữa, những công nghệ hạt nhân hiện nay đã tiến bộ rất xa, trải qua rất nhiều thế hệ mới so với những công nghệ cũ trước đây.
Ý Đảng lòng dân thống nhất
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng rất quan tâm tới cuộc sống người dân vùng dự án khi nêu rõ, người dân Ninh Thuận và các địa phương lân cận chia sẻ, dành nguồn lực (đất đai, tài nguyên) để phát triển dự án năng lượng phục vụ sự phát triển cho cả nước, chắc chắn sẽ phải được tái phân phối, thụ hưởng những thành quả xứng đáng của sự phát triển. “Đảng và Nhà nước sẽ phải đảm bảo lựa chọn những công nghệ hạt nhân tốt nhất, chọn những đối tác tư vấn tốt nhất, đào tạo nhân lực quản lý tốt nhất để bảo đảm vận hành an toàn và hiệu quả dự án năng lượng này của quốc gia, không chỉ vì thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ con cháu mai sau” - Tổng Bí thư khẳng định.
Đứng hồi lâu ngắm khu vực ven bờ biển Phước Dinh đẹp như một bức tranh, Tổng Bí thư chăm chú lắng nghe báo cáo của ông Trịnh Minh Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận về dự án. Dõi theo đường chỉ của ông Hoàng trên bản đồ về tuyến đường kết nối ven biển, về triển vọng các khu công nghiệp, dịch vụ, trung tâm năng lượng và đổi mới sáng tạo tương lai, các khu tái định cư cho người dân không xa gần đó, Tổng Bí thư gật đầu hài lòng.
"Nếu làm sớm, làm tốt thì cả vùng biển này sẽ cất cánh. Không chỉ điện hạt nhân mà công nghiệp, dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản lân cận đây vẫn phát huy rất tốt"- Tổng Bí thư nói.
Tại buổi làm việc trước đó, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận báo cáo với Tổng Bí thư Tô Lâm sự đồng thuận cao của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.
Trước đó, trả lời báo chí, ông Trần Quốc Nam – Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận khẳng định, cùng với người dân cả nước, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Ninh Thuận đồng thuận cao về việc xây dựng dự án điện hạt nhân.
Nói về chủ trương tái khởi động điện hạt nhân, ông Trần Quốc Nam nhấn mạnh Ninh Thuận rất vinh dự được gánh một trọng trách quan trọng, là nơi đảm bảo an ninh năng lượng trong kỷ nguyên mới của đất nước.
Đối với tâm tư của người dân tại xã Phước Dinh (huyện Thuận Nam) và xã Vĩnh Hải (huyện Ninh Hải) – nơi từng quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, ông Trần Quốc Nam cho biết bà con mong muốn ổn định đời sống sản xuất, sinh hoạt.
“Ổn định ở đây có nghĩa là không phải bà con ổn định tại vị trí quy hoạch nhà máy điện hạt nhân cũ, mà hiểu là nếu bà con được về nơi tái định cư, nơi di dời mới để nhà nước làm nhà máy, phải là tốt nhất”.
Thật ra sự đồng thuận của người dân đã rõ từ hơn 10 năm trước, khi dự án đang chuẩn bị. Các phóng viên Báo Công Thương ngày ấy từng nhiều lần về vùng biển này ghi nhận ý kiến người dân. Báo Công Thương số ra ngày 29/10/2010 đăng bài “Lòng dân đã thuận” thuật lại chuyện đoàn đại diện nhân dân địa phương đi thăm nhà máy điện hạt nhân ở Nhật Bản. Ông Nguyễn Thành Du - trưởng thôn Vĩnh Trường, huyện Thuận Nam khi ấy kể: “Ở bển nhà máy sạch lắm, ít người làm. Tôi được đi cạnh các lò “hạt nhân” đang hoạt động mà có làm sao. Giáp nhà máy dân vẫn ở sinh hoạt bình thường. Được đi thăm quan, nhìn tận nơi, hiểu cặn kẽ tui về tuyên truyền trong xóm, bà con vui, quyết tâm ủng hộ chủ trương xây dựng nhà máy của Đảng và Chính phủ. Chỉ mong dự án sớm triển khai thôi”.
Trong xóm của ông Du, được đi Nhật còn có già làng Nguyễn Văn Lậy khen nhà máy họ đẹp, nhiều khách du lịch tham quan nên dân quanh vùng sống khỏe. Khi phóng viên hỏi vui: Thế nhà máy xây dựng xong, bác sẽ làm gì? Ông trả lời ngay: Tôi sẽ làm dịch vụ cho khách”.
Báo Nhân Dân số ra ngày 14/11/2010 cũng trích lời già làng Nguyễn Văn Lậy: “Hồi đầu, khi mới nghe tin xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dân trong thôn cũng hoang mang lắm. Nhưng rồi, sau nhiều cuộc hội thảo, nhiều cuộc tiếp xúc với cán bộ Ban chuẩn bị đầu tư dự án và các cán bộ của huyện, tỉnh, nhất là sáu người của thôn được đi tham quan thực tế nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản cuối tháng 7, đầu tháng 8 vừa qua thì bây giờ dân đã thông hết rồi. Ðược giới thiệu đồ án di dân tái định cư rộng 85 ha chỉ cách nơi ở cũ có 5 đến 7 km, đầy đủ các khu chức năng để có thể chuyển đổi nghề, có trường học cho con em, rồi trạm y tế, khu vui chơi... do Sở Xây dựng lập, bà con đều thấy ưng ý lắm”.
10 việc cần làm ngay, thời gian không chờ đợi
Phát biểu tại khu vực Tổng Bí thư thị sát, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên báo cáo với Tổng Bí thư, mọi việc được đồng thuận, Bộ Công Thương sẽ vào cuộc nhanh nhất, tốt nhất có thể để những chỉ đạo của Tổng Bí thư sớm thành hiện thực.
Trước đó, tại cuộc làm việc buổi sáng, Bộ trưởng đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm chắc vấn đề, trình bày rõ 10 “việc cần làm ngay” để giải đáp ý kiến, kiến nghị của địa phương đề nghị làm rõ lộ trình triển khai tái khởi động các dự án điện hạt nhân, gồm:
Thứ nhất, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các địa phương, EVN để rà soát và bổ sung quy hoạch liên quan đến 2 dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận vào Quy hoạch điện VIII. Dự án này dự kiến sẽ được khởi động lại từ tháng 1/2025 và chúng ta cần hoàn thành các công đoạn này trước tháng 3/2025, dự kiến phát điện trước 2035. Đây là một công việc rất quan trọng, bởi trước đó dự án đã bị đóng băng do nhiều lý do, nhưng việc tái khởi động là hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.
Thứ hai, Bộ Công Thương sẽ chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tham mưu xây dựng và ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Điện lực sửa đổi theo qui trình rút gọn, có hiệu lực cùng với hiệu lực của Luật Điện lực sửa đổi (1/1/2025) kèm theo đó là các cơ chế, chính sách cụ thể cho các dự án điện lực.
"Điều đáng mừng là Luật Điện lực sửa đổi đã có các chương quy định về điện hạt nhân, trong đó có các cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư và khuyến khích đầu tư", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Thứ ba, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo, rà soát các công việc và triển khai để giao EVN làm chủ đầu tư các dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Việc này sẽ làm và phải hoàn thành xong trước ngày 1/2/2025 để trùng với thời điểm các quy định có hiệu lực.
Thứ tư, Chính phủ báo cáo cấp có thẩm quyền để xin chủ trương tái đàm phán, ký Hiệp định với Nga hoặc Nhật Bản theo cam kết cũ là vừa hỗ trợ về mặt kỹ thuật, vừa hỗ trợ về tài chính, ưu đãi. Hiện nay công nghệ đã thay đổi, chúng ta cũng cần rà soát đàm phán lại để xem áp dụng công nghệ nào? Vốn vay ra sao? Lộ trình thực hiện thế nào? Công nghệ hiện nay rất tốt, rất rẻ và rất an toàn. Việc này muộn nhất trong quý I/2025, khi có chủ trương là lên đường đàm phán ngay.
Thứ năm, chủ đầu tư (EVN) phải khẩn trương thuê tư vấn để rà soát, cập nhật các thông tin, điều chỉnh dự án để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt lại chủ trương đầu tư hoàn chỉnh dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Theo quy chế các dự án đầu tư lớn 10 tỷ USD phải đưa ra Quốc hội phê chuẩn. Dự kiến sẽ trình Quốc hội muộn nhất là vào đầu quý II/2025.
Thứ sáu, sau khi có chủ trương đầu tư dự án mới theo quyết định của cấp có thẩm quyền, chủ đầu tư sẽ chọn tư vấn xây dựng dự án để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt FS. Dự kiến muộn nhất là đầu quý III/2025.
Thứ bảy, chủ đầu tư EVN rà soát lại nguồn nhân lực đã được đào tạo. Nếu còn điều kiện và có nguyện vọng tiếp tục phối hợp với các đối tác đào tạo lại; đồng thời lập kế hoạch đào tạo mới, chú trọng các đối tác có hỗ trợ về mặt kỹ thuật, công nghệ. Việc này hoàn thành trong quý II/2025.
Thứ tám, EVN khẩn trương rà soát, điều chỉnh, bổ sung (nếu cần) và tiếp tục triển khai xây dựng các dự án hạ tầng điện, nước, khu quản lý vận hành, khu chuyên gia, nhà điều hành… Tất cả những gì chuẩn bị cho dự án này là phải triển khai ngay, không chần chừ, không chờ đợi, không có bất kỳ sự trì hoãn nào.
Thứ chín, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục triển khai dự án di dân tái định cư. Vướng việc gì cần báo cáo Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan hỗ trợ;
Thứ mười, phải làm thật tốt công tác truyền thông để tạo sự đồng thuận trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, 7 nội dung đầu tiên sẽ hoàn thành theo lộ trình đã báo cáo. 3 nội dung cuối là phải triển khai luôn.
Chăm chú lắng nghe phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Tổng Bí thư Tô Lâm rất tâm đắc. Ông nói: "Nếu giải quyết tốt vấn đề năng lượng thì đời sống của nhân dân Ninh Thuận sẽ rất tốt. Đối với điện hạt nhân thì không phải ở đâu cũng làm được, vì vậy, Bộ Công Thương cần phải tham mưu cụ thể về vấn đề truyền tải điện. Chúng ta không sợ dư thừa, phải huy động mọi nguồn lực, thậm chí cả tư nhân để phát huy hết tiềm năng, lợi thế của Ninh Thuận. Điện hạt nhân thì phải là điện công nghệ số, biến đây trở thành trung tâm. Tương lai ở đây là rất sáng, phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương rất ủng hộ việc phát triển này” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Tổng Bí thư đánh giá cao phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên. Những nội dung đó theo Tổng Bí thư là sát thực tiễn và gợi mở nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế, xã hội. “Những ý kiến, kiến nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương rất hay, rất sáng”- Tổng Bí thư Tô Lâm nói.
Hành trình 30 năm đi tìm ‘vùng đất hứa’
Tình cờ bên bờ biển Phước Dinh, chúng tôi gặp TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, người đã gắn bó với hành trình hơn 30 năm hiện thực hoá ước mơ điện hạt nhân.
Anh tâm sự: Chương trình phát triển điện hạt nhân được ấp ủ vào những năm 1970, nhưng tới giai đoạn 1996-2009 mới được nghiên cứu một cách nghiêm túc, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và nhu cầu điện rất cao.
Tại thời điểm 2008 khi lập đề án, Chính phủ tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế được dự báo tăng 9-10%, kéo theo nhu cầu tăng trưởng điện 17-20%, tương tự như hiện nay.
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Vinatom), Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chuẩn bị nguồn chuyên gia kỹ thuật, gần 100 người được Viện cử đi học thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài thông qua xin học bổng, sang Liên bang Nga, Nhật, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ. Ngoài nhóm này, còn có khoảng 450 sinh viên, kỹ sư đi học ở Nga và Nhật Bản theo chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đào tạo chuyên của EVN, gồm đào tạo đại học về điện hạt nhân, nâng cao trình độ, đào tạo cán bộ chủ chốt về công nghệ và an toàn nhà máy điện hạt nhân...
Trở lại với vấn đề tìm nơi đặt nhà máy điện hạt nhân, để hỗ trợ các nước thành viên trong công tác lựa chọn địa điểm, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đã xây dựng và ban hành một Quy trình chặt chẽ về tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn địa điểm xây dựng với 3 công đoạn sau:
Công đoạn 1: Thăm dò địa điểm.
Công đoạn 2: Đánh giá địa điểm.
Công đoạn 3: Nghiên cứu bổ sung trước và sau khi vận hành.
Trong giai đoạn 1996-2000, dự án "Nghiên cứu tổng quan phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam" triển khai và giai đoạn 2001-2007, tiếp tục dự án "Nghiên cứu tiền khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam".
Trong giai đoạn 2011-2015, các đối tác là ROSATOM (Liên bang Nga) và Jined (Nhật Bản) triển khai thực hiện trong dự án "Nghiên cứu khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam".
Ban đầu, các nghiên cứu tìm ra được 20 địa điểm tiềm năng xây dựng nhà máy trên hàng chục tỉnh, thành. Trên cơ sở 20 địa điểm tiềm năng này, lựa chọn ra được 10 địa điểm có xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận và Xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.
Mười địa điểm tiềm năng này đã được đưa vào "Báo cáo quy hoạch địa điểm xây dựng các dự án nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam" và trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.
Tại Quyết định số 906/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chinh phủ về quy hoạch định hướng phát triển điện hạt nhân, sau khi xem xét và đánh giá, chỉ có 8 địa điểm được đưa vào quy hoạch.
Như vậy, quá trình tìm kiếm địa điểm để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam đã được triển khai từ gần 30 năm trước. Quá trình nghiên cứu tìm kiếm, phân loại, đánh giá địa điểm đã được triển khai công phu, bài bản trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và xuyên suốt thời gian dài theo đúng các quy định, hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và kinh nghiệm của các nước là đối tác của Việt Nam và cũng đã tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng.
Với các phương án khác nhau, địa điểm Phước Dinh luôn đứng đầu, có điểm cách biệt và thực sự đã được lịch sử lựa chọn cho tới hôm nay.
Điều đất nước cần trong kỷ nguyên vươn mình
Trong câu chuyện chia sẻ với chúng tôi về điều Tổng Bí thư Tô Lâm tâm huyết, sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân, TS. Trần Chí Thành kể về lần tham dự lễ kỷ niệm 70 năm Nhà máy điện hạt nhân Obninsk (LB Nga) gần đây. Năm nay thế giới kỷ niệm 70 năm điện hạt nhân ra đời và nhà máy này nay đã trở thành một bảo tàng, một chứng tích lịch sử về sự phát triển vĩ đại và an toàn của điện hạt nhân trong thế giới đương đại.
Obninsk ngày nay là một thành phố khá thịnh vượng của nước Nga, với nhiều tiềm lực công nghệ và các nhà máy của Công ty Máy tính Kraftway, Công ty Xây dựng Kỹ thuật Luyện kim Rautaruukki, Công ty Dược phẩm Hemofarm, Công ty Lotte Confectionery… Nhưng vào những năm 1940, khi nhà máy mới ra đời và cả sau này vào đầu những năm 1950, không chỉ nỗi nghi ngờ xuất hiện khắp nơi nơi, khiến các chuyên gia cũng thận trọng trước hạt nhân.
Khi Liên Xô tổ chức họp báo, công bố về nhà máy điện hạt nhân, ngay cả Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) cũng rất ngạc nhiên, không nghĩ Nhà máy Obninsk có thể nối lưới điện.
Suốt mấy chục năm, trong quá trình vận hành của mình, Obninsk chưa khi nào gây ra những sự cố rò rỉ ảnh hưởng đến môi trường và người dân sống ở thành phố này. Cả một hệ sinh thái khoa học đã được xây dựng ở Thành phố, với 12 cơ sở nghiên cứu gồm: Viện Kỹ thuật Điện hạt nhân Obninsk, Viện Nghiên cứu Phóng xạ Nông nghiệp và Thú y Nga, Viện Nghiên cứu Khí tượng Nông nghiệp Nga, cùng chi nhánh của các viện nghiên cứu liên bang. Nhà máy không chỉ để cung cấp thêm những hiểu biết hỗ trợ Obninsk và cả ngành năng lượng hạt nhân Nga, mà còn phục vụ nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội thiết yếu (như y học, khí tượng khí hậu, nông nghiệp…).
Tạm biệt biển Phước Dinh với niềm tin và khí thế mới có thể giúp dự án điện hạt nhân đang tăng tốc “một ngày bằng nhiều năm”, tôi ấn tượng mãi với câu nói Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhắc đi nhắc lại trong buổi làm việc tại Ninh Thuận: “Thời gian không chờ đợi ai!”. Tôi cũng suy ngẫm và liên hệ tới bài học từ bảo tàng điện hạt nhân, nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới mà TS Trần Chí Thành chia sẻ.
Khi nhìn lại thành công của nền khoa học hạt nhân cho chúng ta rất nhiều bài học quý giá. Nó khiến mọi người thấy rằng, một nhà máy điện hạt nhân như ở Obninsk hay Phước Dinh có nhiều vai trò lớn đối với một quốc gia, không chỉ là việc cung cấp nguồn điện ổn định và tin cậy mà hơn thế là bước lên những tầm cao hơn của khoa học, công nghệ và quản lý cùng những năng lực khác mà đất nước rất cần trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam!
(Còn nữa)
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng
“Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng”- bài viết của nhóm tác giả Nguyên Minh - Nguyễn Cường được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng
Phát triển điện hạt nhân là con đường tất yếu để đất nước đủ điện cho tăng trưởng GDP hai con số. Thế nhưng giấc mơ này đã "ngủ đông" qua 3 kỳ Đại hội Đảng.
Tổng Bí thư nói về điện hạt nhân trên diễn đàn Quốc hội
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu trước Quốc hội về Luật Điện lực (sửa đổi) trong đó có vấn đề liên quan đến điện hạt nhân ngày 23/11/2024 |
Sáng 3/12, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tới Hải Phòng rất sớm để dự chương trình tiếp xúc cử tri tại thành phố năng động và công nghiệp rất phát triển này.
Trước giờ vào hội nghị, đã có nhiều ý kiến cử tri, lãnh đạo thành phố mong muốn được nghe những “câu chuyện mới”, triển vọng mới từ kỳ họp có nhiều quyết sách lịch sử. Với niềm vui xen lẫn hào hứng và xúc động, Bộ trưởng đã chia sẻ về việc Luật Điện lực (sửa đổi) được thông qua trong một kỳ họp, đó thật sự là một kỳ tích, một dấu ấn ngoạn mục mang tính lịch sử để mở đường cho phát triển.
Quyết sách lớn được thông qua có vai trò chỉ đạo sát sao và mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm ngay tại kỳ họp và một trong những điều Bộ trưởng thấy bất ngờ, xúc động nhất chính là những phát biểu, chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về điện hạt nhân. Chính điều này đã cởi bỏ được mối lo luôn canh cánh trong lòng người đứng đầu ngành Công Thương là phải lãnh đạo, điều hành như thế nào để đủ điện cho phát triển.
Đây quả là một bài toán khó, quá khó. Tạp chí Năng lượng, nơi hội tụ nhiều chuyên gia hàng đầu về điện từng có rất nhiều bài viết cảnh báo, khuyến nghị, coi bảo đảm đủ điện cho tăng trưởng kinh tế gần như một nhiệm vụ bất khả thi nếu Việt Nam không có giải pháp mạnh mẽ hơn về điện và hướng tới điện hạt nhân.
Chiều 26/10/2024, một ngày giữa thu tiết trời rất đẹp, lại nhằm ngày thứ bảy cuối tuần đã diễn ra thảo luận ở tổ, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. Tại tổ có Tổng Bí thư Tô Lâm dự, các phóng viên cũng không được thông tin trước là Tổng Bí thư có phát biểu hay không. Vậy mà bất ngờ, Tổng Bí thư phát biểu, dành hẳn thời lượng hàng chục phút cho vấn đề sửa đổi Luật Điện lực, cho những định hướng làm sao đủ điện cho phát triển. Và Tổng Bí thư đã nhắc đến điện hạt nhân với nhiều trăn trở. Ông nhấn mạnh: “Yêu cầu đòi hỏi về hạ tầng năng lượng là một trong những vấn đề dẫn dắt, trụ cột, là một trong những cái điểm đột phá. Bây giờ chúng ta đang đứng thách thức thiếu điện trầm trọng. Vừa qua có một số nhà đầu tư đã tính trước rồi, nếu Việt Nam phát triển như thế này thì độ vài năm nữa là thiếu điện, thôi không đầu tư vào đấy".
“Làm thế nào để đáp ứng đủ lực nguồn năng lượng để cho phát triển"?, Tổng Bí thư nêu câu hỏi và nhắc tới mốc năm 2045: “Bây giờ phải điện hạt nhân, thế giới người ta cũng đang làm như thế. Trước đây ta có chủ trương rồi nhưng đấy vì lý do này rút ra, chúng ta tạm dừng lại thì vừa rồi hội nghị Trung ương 10, nhất trí là phải khởi động lại, phải có chủ trương nghiên cứu về vấn đề này để xin ý kiến Quốc hội. Bây giờ có chủ trương ít nhất chục năm nữa mới có nhà máy điện hạt nhân. Phải rất chủ động. Không thể chờ mấy năm định hướng, mấy năm khảo sát, mấy năm mặt bằng, mấy năm tìm công nghệ. Thời gian không cho phép như thế. Chúng ta phải làm rất nhanh, làm đồng bộ các khâu” - Tổng Bí thư chỉ đạo.
Hôm ấy, nghe những chỉ đạo của Tổng Bí thư, Bộ trưởng rất mừng nhưng cũng rất lo lắng vì nhiệm vụ bảo đảm điện cho phát triển ngày càng cao.
Chỉ ba ngày sau, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì cuộc họp với các đơn vị và tập đoàn năng lượng toàn ngành Công Thương để “lên kịch bản”, phân giao nhiệm vụ cung ứng điện năm 2025. Tinh thần “chỉ bàn làm không bàn lùi” được Bộ trưởng nhấn mạnh khi nhắc đến tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp với tiểu ban chuẩn bị dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Tổng Bí thư nêu thông điệp về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, muốn vươn mình phải phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn, tăng trưởng GDP bình quân phải 2 con số. Mà đối với ngành điện, cứ mỗi %GDP tăng trưởng, điện phải phát triển 1,8-2%. Như vậy trong kỷ nguyên vươn mình, điện phải luôn tăng trưởng trên 20%/năm. Đó là một nhiệm vụ, một bài toán cực khó nhưng không thể không hoàn thành.
Bộ trưởng và kỷ niệm đăng đàn bất ngờ
Cùng với Luật Điện lực được sửa đổi kịp thời, một dấu mốc lịch sử nữa của Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XV chính là việc thông qua chủ trương tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Khoảnh khắc lịch sử quan trọng ấy khiến Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên bồi hồi xúc động nhớ lại kỳ họp Quốc hội cách đây 2 năm. Ông từng bất ngờ được Đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận hỏi quan điểm, giải pháp về điện hạt nhân.
Hôm ấy là chiều 30/5/2022, Quốc hội tiến hành giám sát tối cao “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành đến nay”. Không ai nghĩ sẽ có một câu hỏi liên quan đến Bộ Công Thương hay điện hạt nhân thì bất ngờ đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận phát biểu cho biết: Quốc hội khóa XIV đã có chủ trương dừng thực hiện, đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận vào năm 2016. Thế nhưng gần 14 năm qua, các vấn đề về quy hoạch làm ảnh hưởng tới đời sống, kinh tế của người dân vẫn chưa được giải quyết, gây bức xúc, làm ảnh hưởng tới thu hút đầu tư và phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, người dân mòn mỏi chờ đợi.
Bà Hương kiến nghị Trung ương sớm xem xét, cho ý kiến chính thức về chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Quốc hội, Chính phủ sớm sơ kết việc thực hiện các nghị quyết, giải quyết các vấn đề, vướng mắc và giải quyết kiến nghị của Bộ Công Thương về địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận…
Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa (Đoàn TP. Hồ Chí Minh) đề nghị Quốc hội giải quyết dứt điểm việc này, xóa bỏ quy hoạch dự án phát triển nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.
Trước ý kiến của các đại biểu về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên khá bất ngờ khi được chỉ định phát biểu giải đáp. Vấn đề này cũng đã khá lâu không được đề cập tới. Vậy nên nói thế nào?
Không né tránh, bằng đánh giá phân tích khách quan của người đứng đầu ngành Công Thương, luôn phải lo giải bài toán đủ điện cho phát triển, ông đi thẳng vào vấn đề, nói rõ nghị quyết của Quốc hội là tạm dừng dự án xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, không phải huỷ bỏ. Do vậy, về nguyên tắc không có cơ sở về việc bỏ hoàn toàn dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. "Ninh Thuận là địa điểm đã được các đối tác cũng như các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu rất kỹ lưỡng trong thời gian dài và đã khẳng định đây là địa điểm phù hợp nhất để phát triển điện hạt nhân”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Ở góc độ ngành, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết Bộ Công Thương đã tham mưu Chính phủ về việc cần thiết phải phát triển điện hạt nhân. Bởi lẽ, tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) vừa qua, các quốc gia cam kết về việc phát triển năng lượng sạch (điện mặt trời, điện gió). Nhưng để khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo này nhất thiết phải có một nguồn điện nền ổn định.
“Điện nền hiện nay chỉ có nhiệt điện than hoặc thuỷ điện. Nhưng điện than chúng ta đã không còn điều kiện để phát triển và thủy điện cũng đã hết dư địa. Trong khi đó, chúng ta cần phải thực hiện những gì đã cam kết ở COP26 và phát triển điện hạt nhân cũng là xu hướng tất yếu các quốc gia trên thế giới đang thực hiện”, Bộ trưởng phân tích.
Bộ trưởng cũng chia sẻ thêm, 3 năm trước, Hoa Kỳ và Đức là hai quốc gia đã giảm điện hạt nhân nhưng đến nay đã phải xây dựng lộ trình để phát triển mạnh hơn loại hình này, làm cơ sở khai thác và phát triển năng lượng tái tạo.
Do vậy, Bộ trưởng cho hay, “chúng tôi đã phải kiên trì kiến nghị với Chính phủ và Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về quy hoạch địa điểm phát triển điện hạt nhân ở Ninh Thuận, chờ đến khi cấp có thẩm quyền quyết định tiếp tục hay không tiếp tục..."; "Không có địa điểm nào phù hợp hơn phát triển ở đây", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Giấc mơ lớn ‘ngủ đông’ cần đánh thức
Năm nay thế giới kỷ niệm 70 năm điện hạt nhân ra đời. Thế giới hiện nay có rất nhiều nước quan tâm phát triển điện hạt nhân. Nhóm các quốc gia tiếp tục coi trọng điện hạt nhân trong chính sách năng lượng của mình như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Một số quốc gia có sự thay đổi chính sách đối với điện hạt nhân như Đức, Thụy Điển, Ấn Độ. Một số quốc gia mới nổi, lần đầu tiên xây dựng và vận hành Nhà máy điện hạt nhân như UAE, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh. Một số quốc gia quan tâm đến điện hạt nhân ở khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan…
Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), tại hội nghị khí hậu COP28 kết thúc vào tháng 12 năm 2023, hơn 20 quốc gia đã ký một tuyên bố chung để tăng gấp ba lần công suất năng lượng hạt nhân đến năm 2050. Châu Á vẫn là động lực chính của sự tăng trưởng trong năng lượng hạt nhân, với tỷ lệ của khu vực này trong sản xuất điện hạt nhân toàn cầu dự kiến sẽ đạt 30% vào năm 2026. Châu Á dự kiến sẽ vượt qua Bắc Mỹ trở thành khu vực có công suất hạt nhân lắp đặt lớn nhất vào cuối năm 2026.
Nhưng ở Việt Nam, giấc mơ điện hạt nhân vẫn dang dở dù được khởi động từ hơn 30 năm trước
Nhiều người nhớ mốc lịch sử ngày 25/11/2009, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 41/2009/GH12 về chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận với tổng mức đầu tư dự toán khoảng 200 nghìn tỷ đồng (theo thời giá lập dự toán năm 2008). Theo đó, Việt Nam dự định xây dựng 2 nhà máy có tổng công suất trên 4.000 MW sử dụng công nghệ lò nước nhẹ cải tiến, thế hệ lò hiện đại nhất đã được kiểm chứng, dự định sẽ đưa tổ máy thứ nhất vận hành vào năm 2020. Công nghệ dự định xây dựng và sử dụng cho hai nhà máy điện hạt nhân được chuyển giao từ Nga và Nhật Bản, hai quốc gia hàng đầu về công nghệ điện hạt nhân.
Tuy nhiên, sau đó, dự án xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận đã được Quốc hội bỏ phiếu thông qua Nghị quyết dừng vào năm 2016 trên cơ sở xem xét, cân nhắc rất kỹ lưỡng điều kiện kinh tế của Việt Nam tại thời điểm đó. Cụ thể theo Văn phòng Chính phủ, tình hình phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam tại thời điểm năm 2016 có nhiều thay đổi so với thời điểm quyết định chủ trương đầu tư dự án năm 2009. Do đó, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ là xem xét lại các dự án ưu tiên để quyết định, triển khai cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội là tập trung dồn nguồn lực để triển khai các dự án trọng điểm quốc gia, chú trọng đầu tư phát triển các dự án cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại có mức độ ưu tiên.
Sau thời gian dài “ngủ đông”, điện hạt nhân hầu như ít được nhắc đến nếu không có sự kiện hai kỳ họp Quốc hội mà chúng tôi nêu ở trên.
Đúng như Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhiều lần phát biểu về quan điểm nhất quán, tại dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (dự thảo Quy hoạch điện VIII), Bộ Công Thương chủ động đề cập tái khởi động dự án điện hạt nhân để xem xét cho giai đoạn sau năm 2030.
Đó là một mốc thời gian phù hợp nhưng giấc mơ điện hạt nhân hẳn sẽ vẫn còn ngủ đông, sẽ khó đột phá nếu không có tầm nhìn xa của những người đứng đầu.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân
“Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân”- Bài viết của nhóm PV Báo Công Thương được đăng tải tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân
Ngày 5/12, Tổng Bí thư Tô Lâm cùng Đoàn công tác Trung ương đã thăm, làm việc với Tỉnh ủy Ninh Thuận về kinh tế, xã hội và phát triển dự án điện hạt nhân
Tham gia buổi làm việc của Tổng Bí thư còn có Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Nguyễn Duy Ngọc, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt và lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương. Về phía Ninh Thuận có Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Thanh và các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
![]() |
Lãnh đạo một số Bộ, ngành phát biểu giải đáp những kiến nghị của Ninh Thuận |
Phát triển điện hạt nhân: Chậm là lãng phí
Phát biểu định hướng tại buổi làm việc, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá cao sự phát triển vươn mình đầy vượt bậc của tỉnh Ninh Thuận và ghi nhận sự nỗ lực cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh trong thời gian qua. Tổng Bí thư nhấn mạnh, kết quả đạt được là đáng mừng, song cũng còn nhiều điểm nghẽn, rào cản, khó khăn, vướng mắc yêu cầu Ninh Thuận phải nhận diện đầy đủ, từ đó tập trung thúc đẩy những lĩnh vực đột phá, mũi nhọn.
Đứng trước những thời cơ, thách thức mới, Tổng Bí thư tin tưởng vào sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ hơn nữa của Ninh Thuận trong việc thực hiện đạt những mục tiêu 2025-2030 và những mục tiêu ở tầm cao hơn. Tổng Bí thư lưu ý năm 2025 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và là năm khởi đầu cho nhiệm kỳ mới 2025-2030 của Đảng bộ tỉnh, do đó cần chú ý cho nhiệm vụ tổ chức đại hội, kế đó là khẩn trương, không được chậm rãi, từ từ chờ Đại hội toàn quốc của Đảng mà nhất định phải đưa nghị quyết của tỉnh vào triển khai ngay, quá trình triển khai vừa tiếp thu, vừa bổ sung, điều chỉnh để Nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và lợi ích mhân dân, để Ninh Thuận phát triển nhanh nhất, bền vững nhất.
Chính vì vậy, thông qua buổi làm việc này, Tổng Bí thư muốn lắng nghe Ninh Thuận đưa ra những phương hướng, giải pháp về phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cùng với đó nhận diện được những khó khăn, thách thức cũng như lĩnh vực quan tâm đột phá.
Với tinh thần “cùng gánh vác, cùng tháo gỡ”, Tổng Bí thư đề nghị các Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Thuận thẳng thắn nêu lên những khó khăn, kiến nghị những vấn đề vượt tầm giải quyết của tỉnh để đoàn công tác Trung ương giải đáp cũng như trao đổi, tiếp thu nghiên cứu đề xuất Bộ Chính trị, Quốc hội chỉ đạo, tháo gỡ những vấn đề cụ thể… Thông qua đó, Ninh Thuận có thể tiếp thu, đề xuất những vấn đề với Trung ương. Những khó khăn này phải được tháo gỡ ngay “như đoàn xe đang đi nhưng vướng hòn đá thì phải xuống xe khênh đi, không thể đứng lại chờ đợi mà phải đi luôn. Một việc bé nhưng không tháo thì sẽ gây ra ùn tắc. Làm nhanh, làm tốt, xong việc này để làm ngay các việc khác” – Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Tổng Bí thư cũng cho biết, vừa qua, Trung ương, Quốc hội đã thống nhất khởi động lại Nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Thông qua buổi làm việc này, Tổng Bí thư muốn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, mong muốn gì của nhân dân Ninh Thuận. “Chủ trương đã có, nhân dân đồng tình thì phải bắt tay vào làm, xây dựng kế hoạch chuẩn bị triển khai đạt hiệu quả, chậm là lãng phí. Nhân dân đã đồng lòng ủng hộ cao thì phải tập trung giải quyết dứt điểm mối bận tâm của nhân dân để khơi thông nhanh cho dự án. Mong muốn sao Ninh Thuận phát triển nhanh nhất, đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước” – Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Báo cáo với Tổng Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận Nguyễn Đức Thanh cho biết: Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV trong bối cảnh có những thuận lợi, thách thức đan xen. Qua 5 năm thực hiện, ước thực hiện hoàn thành 16 /18 chỉ tiêu đề ra, kinh tế-xã hội của tỉnh duy trì ổn định và tăng trưởng khá, quy mô nền kinh tế được mở rộng đáng kể, tăng hơn 1,7 lần so với đầu nhiệm kỳ, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt gần 9% thuộc top đầu cả nước (riêng năm 2024, kinh tế tăng trưởng khá, đạt 8,74%, xếp vị thứ 4/14 tỉnh khu vực; 16/63 tỉnh thành phố). GRDP bình quân đầu người đến cuối năm 2023 đạt 88,2 triệu đồng/người, thu hẹp nhanh khoảng cách chênh lệch so với cả nước và trong vùng, đứng thứ 24/63 tỉnh, thành và đứng thứ 3/14 vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung , đưa Ninh Thuận từ tỉnh khó khăn của cả nước lên tỉnh có thu nhập trung bình. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp; khai thác hiệu quả được nhiều tiềm năng thế mạnh. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển khá toàn diện. Dịch vụ, du lịch phục hồi, lượng khách du lịch đến tỉnh tăng mạnh, đến cuối năm 2024 đạt 3,4 triệu lượt, gấp gần 3 lần so với năm 2020. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện tích cực; năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được cải thiện đáng kể, huy động nguồn lực đầu tư đạt kết quả tích cực. Kết cấu hạ tầng thiết yếu liên vùng, kết nối, liên thông đa mục tiêu được tập trung đầu tư.
Về dự án phát triển điện hạt nhân, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận cho biết: Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 41/2009/QH12, ngày 25/11/2009, xác định quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam và Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải. Tổng diện tích quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, 2 là 1.642,22 ha, ảnh hưởng, tác động đến gần 4.000 người/1.100 hộ.
Sau khi công bố quy hoạch địa điểm, Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh Ninh Thuận đã tập trung tuyên truyền vận động. Vì vậy, đa số nhân dân vùng dự án đã chấp hành nghiêm túc chủ trương của Đảng và Nhà nước, đồng lòng tự nguyện chấp thuận di dời, bàn giao mặt bằng. Tỉnh chỉ đạo hoàn thành công tác đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường tại địa điểm Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, các khu tái định canh, định cư, khu nghĩa trang, với tổng diện tích 479 ha/1.029 ha; đồng thời triển khai 10 dự án thành phần phục vụ tái định cư. Đồng thời, tỉnh Ninh Thuận cũng cử 88 học sinh, sinh viên tham gia học tập ngành công nghệ hạt nhân tại Liên Bang Nga. Đến nay có 44 em về nước được Tập đoàn Điện lực Việt Nam giới thiệu việc làm; 29 em tự tìm việc làm; 15 em chưa về nước.
Đối với việc thực hiện dừng chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận nêu rõ: Ngày 26/11/2016, Quốc hội ban hành Nghị quyết 31/2016/QH14 dừng thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; chủ trương này đã làm thay đổi các kịch bản tăng trưởng và phát triển của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và các công trình phúc lợi công cộng trên địa bàn 02 xã Phước Dinh và xã Vĩnh Hải và vùng lân cận bị xuống cấp do không được đầu tư chờ bàn giao chuyển đi nơi ở mới. Nhân dân trong vùng dự án gặp nhiều khó khăn, trải qua thời gian dài chờ đợi, mong mỏi sớm được về nơi ở mới, ổn định đời sống-sản xuất. Tỉnh đã tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân, tuyên truyền đến cán bộ, công chức, đảng viên, các hội đoàn thể chính trị và nhân dân hiểu rõ hơn về chủ trương dừng thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận của Quốc hội. Thông qua đó đã giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc của người dân, tạo đồng thuận cao với chủ trương của Nhà nước.
Để hỗ trợ đời sống nhân dân và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh do tác động chủ trương dừng đầu tư 2 nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP ngày 31/8/2018 thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh Ninh Thuận phát triển kinh tế-xã hội, ổn định sản xuất, đời sống nhân dân giai đoạn 2018-2023. Qua 5 năm thực hiện, kết quả triển khai một số chính sách đóng góp tích cực, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Trung ương hỗ trợ nhiều nguồn lực hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu như giao thông ven biển, hạ tầng đô thị, thuỷ lợi, hạ tầng để phục vụ hỗ trợ khôi phục sản xuất, đời sống nhân dân hai vùng dự án.
“Chủ trương xây dựng Ninh Thuận trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước đã tạo động lực mới đột phá, phát triển kinh tế của tỉnh, đến cuối năm 2024 đã đưa vào vận hành thương mại (COD) 57 dự án với tổng công suất 3.749,942 MW, cao nhất cả nước, chiếm 18% tổng công suất toàn quốc; tỷ trọng ngành năng lượng chiếm 24,6% GRDP của tỉnh, đóng góp trên 25% tổng thu ngân sách tỉnh, giải quyết việc làm khoảng 4.150 lao động” – Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận cho biết.
Song song với đó, tiềm năng, vị thế của Ninh Thuận được cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao. Hạ tầng kinh tế-xã hội được đầu tư ngày càng động bộ, liên thông, cơ bản đáp ứng cho yêu cầu phát triển. Ninh Thuận đã phê duyệt Đề án ổn định sản xuất, đời sống nhân dân và phát triển khu dân cư đối với các vị trí trước đây quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, quy hoạch chuyển đổi đất đai, tạo điều kiện ổn định sản xuất nhưng vẫn bảo đảm chủ trương giữ vị trí đã quy hoạch bảo đảm thuận lợi để thu hồi khi tái khởi động nhà máy Điện hạt nhân trong tương lai.
Để dự án điện hạt nhân nhanh chóng triển khai, tỉnh Ninh Thuận kiến nghị Trung ương sớm xác định lộ trình xây dựng nhà máy Điện hạt nhân; điều chỉnh đồng bộ Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch điện VIII, các Quy hoạch ngành quốc gia về phát triển Điện hạt nhân; hoàn thiện hệ thống pháp luật về điện hạt nhân như: (i) Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) để đồng bộ với Luật chuyên ngành về xây dựng, điện lực, bảo vệ môi trường; (ii) Hệ thống các tiêu chí, quy chuẩn kỹ thuật về đầu tư điện hạt nhân để có cơ sở pháp lý triển khai các công việc tiếp theo.
Cùng với đó, Ninh Thuận cũng đề nghị Trung ương cho chủ trương để tỉnh sớm điều chỉnh Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bổ sung định hướng phát triển Nhà máy điện hạt nhân; lựa chọn phương án phát triển các ngành, lĩnh vực; bố trí lại không gian, phân bổ, khoanh vùng đất đai; tính toán lại kịch bản phát triển; đồng thời điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng vùng phát triển Điện hạt nhân để bảo đảm điều kiện triển khai.
Đồng thời, trên cơ sở lộ trình triển khai dự án các nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận, cho phép tỉnh chủ động tiến hành khảo sát, lấy ý kiến, xác định tâm tư, nguyện vọng Nhân dân vùng dự án; tăng cường công tác tuyên truyền thông tin, vận động tạo đồng thuận Nhân dân khi dự án được triển khai. Tiếp tục đồng ý cho tỉnh xây dựng cơ chế đặc thù phát triển kinh tế-xã hội của địa phương có Nhà máy điện hạt nhân, trong đó ưu tiên cơ chế phát triển nhân lực, hạ tầng trọng điểm.
Với những khó khăn của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đang gặp phải, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận đề nghị Bộ Chính trị sớm cho ý kiến, có cơ chế xử lý vướng mắc các dự án điện mặt trời, điện gió theo Kết luận 1027/KL-TTCP, ngày 28/4/2023 của Thanh tra Chính phủ, trong đó có dự án điện mặt trời, điện gió của tỉnh Ninh Thuận để tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.
Ninh Thuận hội tụ đủ tiềm năng và lợi thế để trở thành trung tâm năng lượng
Trả lời một số khó khăn, vướng mắc, đề xuất một số giải pháp để Ninh Thuận phát triển nhanh, bền vững như chỉ đạo, định hướng của Tổng Bí thư, đại diện một số bộ, ngành đã có những trả lời cụ thể tại cuộc họp.
Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng dư địa tín dụng tại Ninh Thuận còn rất lớn. Bộ Tài chính ủng hộ việc bổ sung các nguồn vốn cho Ninh Thuận song cần phải đưa ra giải pháp để sử dụng hiệu quả và phát huy vai trò của "đòn bẩy" tài chính. Bên cạnh đó, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã gợi mở giải pháp về hạ tầng, thiếu nước phục vụ cho phát triển công nghiệp của Ninh Thuận.
Trong khi đó, liên quan đến phát triển điện hạt nhân Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết: Trước hết, chúng ta phải tiếp tục hoàn thành hệ thống pháp luật về điện hạt nhân như Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi để đồng bộ với các quy định và nghiên cứu các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn hạt nhân. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đang chủ trì xây dựng, sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử với mục tiêu đồng bộ với các luật chuyên ngành. Về việc cấp phép an toàn, lưu trữ chất thải… của điện hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang xây dựng các quy định liên quan và tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Đối với kiến nghị về việc đẩy mạnh tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền trong đời sống nhân dân để tạo sự đồng thuận khi dự án triển khai. Bộ rất đồng tình với việc này, hiện Bộ đang phối hợp xây dựng về trung tâm nghiên cứu công nghệ điện hạt nhân, trong đó có truyền thông về lợi ích của điện hạt nhân. Bộ sẵn sàng phối hợp cung cấp thông tin về công dụng của điện hạt nhân tới đông đảo nhân dân. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng chương trình truyền thông về điện hạt nhân.
"Việc phát điện hạt nhân tại Ninh Thuận không chỉ việc phát điện mà còn là cơ hội tốt cho Ninh Thuận ứng dụng công nghệ điện nguyên tử phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội" - Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh.
Phát biểu tại cuộc họp này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cũng đã có báo cáo Tổng Bí thư về tổng quan phát triển năng lượng, trong đó có phát triển điện hạt nhân và khẳng định: Ninh Thuận hoàn toàn có thể phát triển năng lượng tái tạo trong tương lai gần để trở thành trung tâm năng lượng của cả nước.
Báo Công Thương sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về buổi làm việc...
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm
“Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm”- Bài viết của tác giả Mạnh Hùng được đăng tải trên báo điện tử Đảng Cộng Sản tại trang web dangcongsan.vn, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm
Sáng 4/12, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Chính phủ quán triệt, triển khai về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ.
![]() |
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Chính phủ quán triệt, triển khai về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW |
Hội nghị được Chính phủ tổ chức ngay sau Hội nghị toàn quốc ngày 1/12 quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ trong bối cảnh hiện nay, chúng ta vừa phải hoàn thành các nhiệm vụ năm 2024, vừa rà soát để hoàn thành nhiệm vụ cả nhiệm kỳ, vừa thực hiện tổ chức sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Nhấn mạnh Trung ương đã làm rất bài bản, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai, Thủ tướng cho biết Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và tiến hành phiên họp đầu tiên.
Theo Thủ tướng, sắp xếp tinh gọn bộ máy là việc khó, thậm chí rất khó nhưng không làm không được và khó mấy cũng phải làm, vì hiện bộ máy còn cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, nhiều cấp hành chính, dẫn tới nhiều công việc ách tắc.
Trước nhiệm vụ khó, nặng nề, thời gian ngắn, yêu cầu cao, công việc phức tạp, nhạy cảm, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ trưởng, trưởng ngành phát huy tinh thần trách nhiệm, cùng cấp ủy và các cơ quan thuộc bộ, ngành quán triệt, tổ chức thực hiện thật tốt, bảo đảm khoa học với lộ trình, bước đi phù hợp, hiệu quả.
Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy lần này cần gắn với phát huy trách nhiệm cá nhân của từng thành viên Chính phủ, các bộ trưởng, trưởng ngành, cá nhân lãnh đạo các cơ quan; gắn với việc tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, với việc lựa chọn cán bộ đúng, trúng, phát huy trách nhiệm cá nhân của mỗi người với nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Song song với đó, phải làm tốt công tác tư tưởng, thống nhất ý chí để cùng hành động, cùng làm, "Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, thì chỉ bàn làm, không bàn lùi".
Về thời gian, cách làm, phương pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan quán triệt tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ, khẩn trương thành lập Ban chỉ đạo với tổ giúp việc của bộ, ngành mình để tổ chức thực hiện tổng kết Nghị quyết 18 và phát huy tinh thần chủ động trong sắp xếp theo lộ trình của Trung ương và hướng dẫn chung. Các bộ trưởng dành thời gian, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thật tốt công tác này.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng lưu ý, cần vừa sắp xếp tổ chức Đảng, vừa sắp xếp hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, làm đồng thời theo định hướng của Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ. Quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy vừa phải hoàn thành nhiệm vụ chính trị, vừa tổng kết năm 2024, do đó, phải phân công nhiệm vụ cụ thể của lãnh đạo các bộ, ngành trên tinh thần phát huy tối đa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cá nhân.
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu căn cứ chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nội vụ lên kế hoạch cụ thể để các bộ, ngành thực hiện. Các bộ, ngành phối hợp với Bộ Nội vụ giải quyết các vấn đề phát sinh, báo cáo ngay các vấn đề vượt thẩm quyền. Các Phó Thủ tướng theo lĩnh vực phân công chủ động làm việc với các bộ, ngành để triển khai và kiểm tra công việc thường xuyên. Ban Chỉ đạo của Chính phủ họp hằng tuần để triển khai công việc, nắm bắt tình hình và xử lý các vướng mắc.
Về phương án sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Thủ tướng yêu cầu bám sát Nghị quyết 18, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương và lưu ý một số nội dung: Mục tiêu chung là hoàn thành sớm việc xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan phù hợp, hiệu quả, tinh gọn, sử dụng đội ngũ cán bộ tinh nhuệ hơn; tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, giảm bớt khâu trung gian, cơ bản kết thúc mô hình tổng cục trực thuộc các Bộ; lựa chọn tên gọi các bộ, cơ quan ngắn gọn, bao quát chức năng, nhiệm vụ, vừa có tính lịch sử, kế thừa, nhất là các bộ hợp nhất.
Với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thì cần tổng kết, phát huy các mô hình thành công đã có, nghiên cứu, lựa chọn mô hình phù hợp để làm tốt việc quản lý vốn, phát triển vốn Nhà nước và tập trung cho đầu tư, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp nhà nước dựa trên hiệu quả tổng thể.
Thủ tướng cũng yêu cầu thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, bảo đảm chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi thực hiện sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật không để khoảng trống pháp lý và xây dựng phương án để khi sắp xếp xong thì bắt tay ngay vào công việc.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị các cơ quan truyền thông dành nhiều thời lượng, đẩy mạnh thông tin về những đơn vị làm tốt, các mô hình hay; đẩy mạnh tuyên truyền về các thành tựu, kết quả phát triển đất nước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính một lần nữa đề nghị phát huy tinh thần trách nhiệm của các đồng chí Trung ương, bộ trưởng, trưởng ngành, nếu người đứng đầu gương mẫu làm tốt thì cấp dưới sẽ tin tưởng và lan tỏa tinh thần xuống toàn bộ các cơ quan, điều quan trọng nhất là vì lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nêu giải pháp thúc đẩy công nghiệp, thương mại, xuất khẩu vùng Đông Nam Bộ
Để tạo động lực mới thúc đẩy Công nghiệp, thương mại, trong đó có xuất khẩu của Vùng, ngoài việc tập trung khắc phục các hạn chế như nêu ở trên, cần quan tâm theo dõi sát tình hình thị trường XK năm 2025, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, được dự báo là gặp nhiều khó khăn do sức cầu phục hồi chậm và các chính sách mang tính bảo hộ cao. Trong bối cảnh đó, dưới góc độ ngành Công Thương, tôi xin đề xuất một số nhóm giải pháp trọng tâm sau:
Một là nhóm giải pháp về thể chế, chính sách, tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng ĐNB đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại QĐ 1325 ngày 04/11/2024 để xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án, cơ chế, chính sách cụ thể, đủ mạnh và khả thi. Đồng thời, mỗi địa phương trong Vùng cần chủ động rà soát, cập nhật và nếu cần thiết, đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung QH tỉnh, thành phố nhằm bảo đảm phù hợp, liên thông với QH tổng thể quốc gia, QH vùng và các QH ngành quốc gia; đồng thời, rà soát, bổ sung QH, KH sử dụng đất của địa phương, phù hợp với QH cấp tỉnh để có đầy đủ cơ sở pháp lý, sẵn sàng tiếp nhận, triển khai các dự án đầu tư, tạo động lực tăng trưởng mới.
Làm tốt công tác quán triệt và triển khai sớm, hiệu quả các chủ trương, chính sách mới, có tính đột phá của Đảng, Nhà nước về phát triển KTXH (có hiệu lực thi hành từ cuối năm 2024 và đầu năm 2025), nhất là các cơ chế đặc thù đối với TP Hồ Chí Minh và các Luật, cơ chế, chính sách mới được ban hành, như: (i) Các luật về đầu tư, tài chính ngân sách, đất đai, Luật điện lực; (ii) Các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; (iii) Đặc biệt là các chính sách đột phá mới ban hành trong lĩnh vực năng lượng như cơ chế mua bán điện trực tiếp, cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản tự tiêu... tạo dư địa phát triển kinh tế Vùng và mỗi địa phương.
Thứ hai là nhóm giải pháp về hạ tầng, sớm hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp và khu công nghiệp chuyên biệt, phát huy thế mạnh công nghiệp khai thác, lọc hóa dầu; phát triển năng lượng tái tạo để đảm bảo ANNL và hỗ trợ XK xanh; công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp bán dẫn, tự động hóa, công nghiệp môi trường, chế biến sâu nông-thủy sản; phát triển mạng lưới logistics, các trung tâm trung chuyển và kho vận hiện đại gắn với cảng hàng không quốc tế Long Thành, trung tâm trung chuyển quốc tế tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. HCM nhằm khai thác triệt để lợi thế về vận tải đa phương thức đồng bộ gồm cả đường biển - hàng không - đường sắt - đường thủy nội địa - đường bộ thúc đẩy giao thương nội vùng, liên vùng và quốc tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu quốc tế tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước.
Thứ ba là nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ các ngành công nghiệp trọng điểm, có thế mạnh của Vùng; ưu tiên phát triển một số trường đại học lớn, đa ngành và trường cao đẳng nghề trọng điểm cấp Vùng và cả nước để nâng cao năng lực đào tạo, nghiên cứu, phát triển KHCN (nhất là các công nghệ cơ bản) và xây dựng các chương trình đào tạo đạt chuẩn khu vực và quốc tế; gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động để hình thành đội ngũ người lao động tinh thông nghiệp vụ, có tay nghề, kỹ năng và tính chuyên nghiệp cao.
Thứ bốn là nhóm giải pháp về thu hút đầu tư, gắn với lợi thế nổi trội của vùng, phù hợp với định hướng tại Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và QH vùng, QH các địa phương và các QH ngành quốc gia đã được TTCP phê duyệt. Trong đó, tập trung phát triển mạnh các ngành CN hiện đại, có lợi thế cạnh tranh (như: CN chế biến, chế tạo, điện tử, CN công nghệ số) và ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, có tính “dẫn đường” (như: Sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp NLTT, vật liệu mới); phát triển thị trường nguyên phụ liệu, CN hỗ trợ. Chú trọng thu hút đầu tư từ các tập đoàn lớn, đa quốc gia có năng lực công nghệ cao, đứng đầu các chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, cần tạo lập cơ chế khuyến khích và ràng buộc để các doanh nghiệp FDI có sự lan tỏa, hỗ trợ DN trong nước cùng phát triển một cách thực chất; đồng thời, tạo điều kiện cho các DN trong nước vươn lên, đủ khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ hiện đại và kỹ năng quản trị tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tự chủ, thích ứng, sức chống chịu cao trước biến động của thị trường.
Thứ năm là nhóm giải pháp về phát triển thương mại, thúc đẩy XK, gắn với xây dựng thương hiệu bền vững, tập trung hoàn thiện hạ tầng thương mại (gồm cả thương mại truyền thống và thương mại hiện đại); tận dụng tối đa cơ hội của các FTA mà nước ta là thành viên (điển hình như Hiệp định thương mại tự do VN-UAE, ngay sau khi TTgCP chứng kiến lễ ký Hiệp định ngày 28/10 vừa qua, Bộ Công Thương đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục để Hiệp định có hiệu lực giúp các DN sớm khai thác ưu đãi, thâm nhập thị trường nhiều tiềm năng ở Trung Đông-Châu Phi và khối thị trường Halal. Nhiều sản phẩm chủ lực của Vùng đều được UAE ưu đãi lớn, cần tập trung khai thác như nông sản (hạt điều, hạt tiêu, mật ong), thủy sản, dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ...). Các địa phương trong Vùng cần tập trung khai thác chú trọng thực hiện Đề án XK chính ngạch, gắn với quy hoạch vùng trồng, vùng nuôi, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kết hợp với việc xây dựng, bảo vệ thương hiệu sản phẩm tại thị trường trong nước và quốc tế, chú trọng phát triển kinh tế biên mậu, kết hợp thương mại-du lịch để thúc đẩy XK tại chỗ.

Quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng
Bài viết của tác giả Thanh Bình được đăng tải trong chuyện mục ngành công Thương trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Báo Công Thương điện tử, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu nội dung Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII; báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng của năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế.
![]() |
Các đại biểu tham dự Hội nghị - Ảnh: Phạm Cường |
"Thưa các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị tại các điểm cầu toàn quốc,
Hôm nay, mặc dù là ngày Chủ nhật nhưng Bộ Chính trị, Ban Bí thư vẫn quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc để: (1) Quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. (2) Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng của năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025. (3) Các giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế để phát triển, điều này cho thấy tính khẩn trương, cấp bách và tầm quan trọng của những vấn đề nêu trên.
Các đồng chí đã được nghe đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội báo cáo về kết quả Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, nhất là kết quả xây dựng pháp luật, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế phát triển đất nước; đồng chí Lê Minh Hưng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương quán triệt, triển khai các nội dung Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII "về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Báo cáo của ba đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đã đề cập tương đối cụ thể đối với từng vấn đề và tôi cho rằng các đồng chí đã hình dung ra những việc cần phải làm trong thời gian tới tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
Thưa các đồng chí,
Từ sau Hội nghị Trung ương 10 ngày 20/9/2024 đến nay, cả hệ thống chính trị đã có những chuyển động mạnh mẽ, vận hành với tinh thần mới, vận tốc mới nhằm tạo ra những động lực mới, hiệu năng mới cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Trong khoảng thời gian trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm việc rất khẩn trương, tiến hành hơn 10 phiên họp cho ý kiến giải quyết gần 100 vấn đề lớn theo thẩm quyền, trong đó tháo gỡ cơ bản những tồn đọng, vướng mắc và giải quyết nhiều vấn đề mới phát sinh. Quốc hội - Chính phủ - Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp triển khai rất quyết liệt, nhịp nhàng để tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt, rào cản gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội, cho cuộc sống, sinh hoạt của người dân... Những việc làm trên bước đầu đã tạo sinh lực mới cho nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, trước mắt là phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch của năm 2024 và năm 2025, tạo đòn bẩy để bứt phá, hoàn thành toàn bộ các mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.
Câu hỏi được đặt ra lúc này là chúng ta đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc hay chưa? Câu trả lời là: Đã đủ.
Hiện nay đã là thời điểm, thời cơ; là sự cấp thiết, là đòi hỏi tất yếu khách quan cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hay chưa? Câu trả lời là: Không thể chậm trễ hơn được nữa.
Tôi nghĩ các phát biểu của Thủ tướng Chính phủ, của Chủ tịch Quốc hội và của Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã làm rõ những điều trên. Tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm 3 vấn đề để các đồng chí nghiên cứu, quán triệt:
1. Về kinh tế - xã hội: Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra, chúng ta phải đổi mới tư duy, phải "cởi trói", phải quyết đoán, phải bứt phá, phải vượt lên chính mình. Để vươn tới mục tiêu thu nhập trung bình cao cho người dân vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phải đạt hai con số liên tục trong những năm tiếp theo. Đây là một bài toán rất khó mà chúng ta phải làm. Chỉ có phép giải rút gọn mới ra đáp số kịp thời gian. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội đang tập trung giải quyết những điểm nghẽn và tạo lập những yếu tố nền tảng để đất nước có thể "cất cánh", nhất là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hạ tầng năng lượng, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, cải cách thể chế phát triển, thủ tục hành chính... Trước mắt cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu tăng trưởng GDP của năm 2024 và năm 2025, trong đó phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng 2 con số ngay từ thời gian này, đây là vấn đề chúng ta hoàn toàn có cơ sở để làm được.
Để đạt mục tiêu này, cần tiếp tục tạo đột phá hơn nữa về thể chế phát triển, tháo gỡ hết các khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn để khơi thông mọi nguồn lực và cải cách hành chính mạnh mẽ, kiến tạo môi trường thuận lợi để phát triển. Tôi ghi nhận Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV vừa qua bước đầu có sự đổi mới tư duy sâu sắc trong xây dựng pháp luật, với 7 luật, 4 nghị quyết được thông qua, trong đó có 1 luật sửa 4 luật, 1 luật sửa 9 luật để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên, đây mới là kết quả bước đầu, phía trước còn rất nhiều việc phải làm để khơi thông "điểm nghẽn của điểm nghẽn này". Cần nhận thức rõ, đổi mới thể chế phát triển không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan xây dựng pháp luật, mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và của từng cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng, thực thi pháp luật. Phải có "liều thuốc đủ mạnh" để trị căn bệnh cán bộ làm việc hành chính, máy móc; tiêu cực, nhũng nhiễu, "hành dân", "hành doanh nghiệp", có lợi ích cá nhân thì mới làm, cố tình làm chậm công việc, xin ý kiến lòng vòng, đổ lỗi cho thể chế, đổ lỗi cho sợ trách nhiệm…
Các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã khá đầy đủ. Bây giờ là lúc phải hành động. Trên cơ sở chủ trương, chính sách chung của Đảng, Nhà nước và sự điều tiết của Trung ương, các địa phương phải trăn trở, suy nghĩ "trên chính mảnh đất của mình", phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo để phát triển; từng cơ quan, đơn vị, địa phương phải đặt ra mục tiêu phấn đấu cụ thể để đóng góp vào hoàn thành mục tiêu chung của đất nước. Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần đặt lợi ích chung lên trên hết, mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, đột phá, dũng cảm hy sinh để đất nước phát triển.
Tôi cho rằng ngoài nỗ lực của Đảng, Chính phủ, Nhà nước thì rất cần sự hưởng ứng, vào cuộc của người dân, phải giải phóng sức lao động, sức sản xuất, phải huy động được nguồn vốn vật chất và tinh thần trong Nhân dân và người dân phải cảm nhận được Nhân dân là người hưởng thụ những thành quả đó thì mọi người sẽ chung sức đồng lòng cùng thực hiện. Phát triển kinh tế cần gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm, nhà dột nát... thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
2. Về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV: Đại hội đảng các cấp từ các chi bộ cơ sở, đến cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và các cơ quan Trung ương phải là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, thảo luận về tầm nhìn và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước vươn mình giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã được Trung ương xây dựng công phu, kỹ càng, khoa học. Dự thảo Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới đã được biên tập nhiều lần, đến nay đã đủ điều kiện để gửi đại hội đảng các cấp đóng góp ý kiến. Dự thảo tóm tắt 4 văn kiện này sẽ được gửi đến cấp cơ sở trước ngày 15/12/2024; Dự thảo đầy đủ sẽ gửi đến cấp huyện, cấp tỉnh và các cơ quan Trung ương trước ngày 31/3/2025. Nhiệm vụ của cấp ủy các cấp là sớm tổ chức cho cán bộ, đảng viên, nghiên cứu, đóng góp ý kiến vào các Văn kiện trên. Điều quan trọng là từ nội dung Dự thảo các Văn kiện của Đại hội XIV, cấp ủy các cấp lấy đó làm cơ sở xây dựng nội dung báo cáo chính trị, phương hướng nhiệm vụ công tác cho các văn kiện của cấp mình; xác định cụ thể những mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương mình, đóng góp vào mục tiêu chung của đất nước trong giai đoạn tới. Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức đảng, các nhà khoa học, nhân sĩ, trí thức, các tầng lớp nhân dân để bổ sung, hoàn thiện các Văn kiện để trình Đại hội XIV với tinh thần Văn kiện phải bám sát hơi thở cuộc sống, phải ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện. Văn kiện phải trở thành "Sách giáo khoa", thành "Từ điển" để khi cần thì "tra" vào đó và sẽ thấy ngay "ánh sáng soi đường". Hạn chế tối đa việc phải tiếp tục ban hành các nghị quyết, chỉ thị tiếp theo để thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV.
Cấp ủy các cấp cần tập trung chuẩn bị nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ mới theo đúng các nội dung đã được hướng dẫn, chuẩn bị thật tốt đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu phát triển mới. Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự học hỏi để "nâng mình lên" để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới của đất nước, nếu không đáp ứng được thì tự nguyện đứng sang một bên để người khác làm. Phải hết sức lưu ý khắc phục những "căn bệnh" của công tác cán bộ trước Đại hội như: Người không tái cử thì giữ an toàn, thủ thế, không dám triển khai cái mới; nhân sự dự kiến tham gia cấp ủy khóa mới thì giữ mình, không muốn va chạm, sợ mất phiếu; tính toán cho người thân, người quen, người "cánh hẩu" với mình vào các vị trí lãnh đạo hoặc dùng "thủ thuật tổ chức" để gạt người mà mình không thích... Công tác tổ chức cán bộ là công tác của Đảng, do vậy các cấp ủy đảng phải thực hiện thật nghiêm túc Điều lệ Đảng cũng như các quy định của Đảng, của pháp luật về công tác cán bộ.
3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị: Như Tôi đã đề cập trong một số bài viết, bài nói, đây là vấn đề rất cấp bách, bắt buộc phải làm, càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước vì đã nhiều Đại hội của Đảng từ các nhiệm kỳ trước từng đặt ra vấn đề này, đặc biệt là từ Đại hội XII đến nay. Điều đó cho thấy Đảng đã nhìn ra và thấy cần phải thực hiện nhưng quá trình triển khai chưa đạt mục tiêu đề ra. Đây thực sự là vấn đề khó, thậm chí rất khó vì khi tiến hành tinh gọn bộ máy sẽ liên quan đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và đụng chạm tới lợi ích của một số cá nhân, tổ chức. Do vậy dù đã được chuẩn bị kỹ, bài bản như báo cáo của đồng chí Lê Minh Hưng và nhiều hướng dẫn thực hiện công tác này đã được gửi tới các đồng chí nhưng chắc chắn việc triển khai tại nhiều đơn vị sẽ gặp khó khăn, thậm chí sẽ có cả những lực cản. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiến hành vì muốn có một cơ thể khỏe mạnh, đôi khi chúng ta phải "uống thuốc đắng", phải chịu đau để "phẫu thuật khối u".
Tôi đề nghị các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở phải xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong thực hiện chủ trương này. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đây không chỉ là vấn đề về quy mô hay số lượng, mà sâu xa hơn là phải tạo sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống chính trị. Các đồng chí cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng"; "Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở"; "Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng". Từng cấp, từng ngành bám sát kế hoạch để tổng kết và đề xuất mô hình cơ quan, đơn vị mình bảo đảm đúng tiến độ (bộ, ngành phải hoàn thành trong tháng 12/2024); hướng tới mục tiêu chung là hoàn thành và báo cáo Trung ương Phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong quý I/2025.
Triển khai thực hiện khẩn trương nhưng bảo đảm thận trọng, chắc chắn, giữ vững nguyên tắc, tiếp thu ý kiến từ tổng kết thực tiễn, các chuyên gia, nhà khoa học, kể cả kinh nghiệm nước ngoài... để đề xuất tinh gọn tổ chức bộ máy tối ưu nhất. Thực hiện nghiêm nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; các cơ quan, tổ chức trước đây đã sắp xếp bước đầu, cũng phải rà soát đề xuất sắp xếp lại bên trong; kiên quyết xóa bỏ các tổ chức trung gian; cải cách tổ chức bộ máy phải gắn với quán triệt, thực hiện có hiệu quả các chủ trương về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phân cấp phân quyền mạnh mẽ cho địa phương, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống lãng phí, chuyển đổi số quốc gia, xã hội hóa các dịch vụ công... Yêu cầu chung là bộ máy mới phải tốt hơn bộ máy cũ và đi vào hoạt động ngay; không để ngắt quãng công việc, không để khoảng trống về thời gian, không để bỏ trống địa bàn, lĩnh vực; không để ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của xã hội, của người dân...
Việc tinh gọn tổ chức bộ máy đi đôi với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Tinh giản không có nghĩa là cắt giảm một cách cơ học, mà là loại bỏ những vị trí không cần thiết, giảm những công việc không hiệu quả, từ đó tập trung nguồn lực cho những lĩnh vực then chốt, những con người thực sự xứng đáng và phù hợp. Không để cơ quan nhà nước là "vùng trú ẩn an toàn" cho cán bộ yếu kém. Với yêu cầu cao hơn khi triển khai tổ chức mới, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại cán bộ trước và sau khi sắp xếp lại tổ chức. Từng cơ quan, đơn vị phải thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng do sắp xếp lại tổ chức, bộ máy; bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, không để phát sinh phức tạp. Bộ Chính trị đã có chủ trương tạm dừng việc bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử giữ chức vụ cao hơn đối với các cơ quan, đơn vị thuộc diện dự kiến phải sắp xếp, tinh gọn (trừ những trường hợp thật sự cần thiết); tạm dừng việc tuyển công chức từ ngày 01/12/2024 cho đến khi hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy theo định hướng của Trung ương. Đề nghị cấp ủy các cấp quán triệt, thực hiện tốt nội dung này.
Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng dư luận, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và toàn hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong Nhân dân về chủ trương, yêu cầu, nhiệm vụ tinh gọn tổ chức bộ máy trong tình hình mới. Đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc việc thực hiện chủ trương này; xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng việc sắp xếp tổ chức, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và cơ quan, tổ chức.
Thưa toàn thể các đồng chí,
Công việc phía trước rất bộn bề, khẩn trương. Thời gian không chờ đợi chúng ta. Đất nước đang đứng trước cánh cửa lịch sử bước vào kỷ nguyên vươn mình. Những công việc chúng ta làm hôm nay, sẽ quyết định tương lai. Chậm trễ là có lỗi với Nhân dân. Tôi đề nghị các đồng chí từ Trung ương đến cơ sở có mặt tại Hội nghị hôm nay phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao nhất để hoàn thành sớm việc tinh gọn tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị; góp phần tăng tốc, bứt phá vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2024, 2025 và cả nhiệm kỳ Đại hội XIII; chuẩn bị thật tốt đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng.
Chúc các đồng chí mạnh khỏe và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn."
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử, tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình
Bài viết của tác giả Nguyên Đình được đăng tải trong chuyên mục ngành Công Thương trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Báo Công Thương điện tử, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình: Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử?
Để kế thừa và phát huy sự nghiệp cách mạng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tuyên bố thời điểm tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Từ kinh nghiệm của Việt Nam và thế giới…
Xuyên suốt quá trình sắp xếp bộ máy từ thời kỳ Đổi mới (năm 1986) đến nay, việc sáp nhập những cơ quan trung ương, bao gồm bộ ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lặp đã nhiều lần được thực hiện. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử, bộ máy Chính phủ đều được sắp xếp để phù hợp với thực tiễn.
Chính phủ từng có 36 bộ, ngành trong giai đoạn 1992-1997, sau đó tăng lên 48 đầu mối vào nhiệm kỳ 1997-2002. Sang giai đoạn 2002-2007, số lượng giảm xuống còn 38 đầu mối, gồm 26 bộ và 12 cơ quan thuộc Chính phủ.
![]() |
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit |
Nhìn lại quá trình lịch sử, Bộ Công Thương cũng là một trong những ví dụ điển hình về tinh thần sắp xếp bộ máy chính trị để tạo động lực phát triển. Cụ thể, Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Quốc dân Kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương) phụ trách các Sở Kinh tế, các Nha chuyên môn: Nha Thường vụ, Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế...
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit
Để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Công Thương cũng được chia tách, sáp nhập như Bộ Điện lực, Bộ Mỏ và Than; chia Bộ Lương thực và Thực phẩm thành hai bộ: Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực. Sau đó, các cơ quan thuộc ngành Công Thương hiện nay tiếp tục được tách theo lĩnh vực cụ thể như Bộ Ngoại thương và Uỷ ban Kinh tế đối ngoại; sáp nhập Tổng cục Điện tử và Kỹ thuật tin học vào Bộ Cơ khí và Luyện kim,…
Và đến tháng 7/2007, trong cuộc sắp xếp, sáp nhập bộ, ngành theo hướng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ Công nghiệp sáp nhập với Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương. Sự kiện này được diễn ra sau khi nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu tại Lễ bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư khóa X vào cuối tháng 1/2007: "Đối với tổ chức bộ máy của Chính phủ, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo tinh thần cải cách hành chính, bảo đảm tinh gọn và hợp lý hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ trong giai đoạn mới, phù hợp với cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả".
Cũng vào thời điểm đó, Bộ Văn hóa - Thông tin được tách thành 2 ngành, trong đó ngành văn hóa sáp nhập với Ủy ban Thể dục thể thao và Tổng cục Du lịch tạo nên Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch. Bên cạnh đó, Cục Báo chí, Cục Xuất bản được sáp nhập vào Bộ Bưu chính Viễn thông trở thành Bộ Thông tin và Truyền thông.
Sau nhiều lần sắp xếp, sáp nhập, bộ máy Chính phủ đã được giữ ổn định từ nhiệm kỳ 2007 - 2011 đến nay, với 30 đầu mối gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
Nhìn sang thế giới, việc tinh gọn bộ máy đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Điển hình, Nhật Bản và Trung Quốc là hai quốc gia có hệ thống chính trị, văn hóa và kinh tế khác biệt, nhưng cả hai đều có những nỗ lực đáng chú ý trong việc tinh gọn bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời đại mới.
Năm 2001, Nhật Bản thực hiện một cuộc cải tổ lớn khi số lượng các bộ và cơ quan trung ương giảm từ 128 cục xuống còn khoảng 90 cục. Các bộ có chức năng tương đồng được sáp nhập để tránh chồng chéo. Chẳng hạn, Bộ Y tế và Bộ Phúc lợi sáp nhập thành Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi. Bộ Giao thông và Bộ Xây dựng sáp nhập thành Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch.
Cùng với đó, Nhật Bản ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai chính phủ điện tử từ những năm 2000, giúp giảm bớt các thủ tục giấy tờ phức tạp và cắt giảm nhân sự không cần thiết. Chính phủ quốc gia này cũng đặt ra giới hạn biên chế, đồng thời áp dụng cơ chế đánh giá năng lực để giảm số lượng công chức, tập trung vào chất lượng. Tinh gọn bộ máy giúp Nhật Bản giảm chi tiêu hành chính và tăng hiệu quả quản lý trong các lĩnh vực như phúc lợi, giáo dục và giao thông.
Về Trung Quốc, để tinh gọn bộ máy, quốc gia này đã thực hiện hàng loạt cải cách kể từ cuối thế kỷ XX. Năm 2018, Quốc vụ viện Trung Quốc quản lý một hệ thống khoảng 40 cơ quan bao gồm các bộ và ủy ban. Tuy nhiên, sau cuộc cải cách, Trung Quốc đã tiến hành sáp nhập và giảm số lượng các cơ quan này xuống chỉ còn 26.
Đồng thời, Chính quyền Trung ương Trung Quốc yêu cầu giảm số lượng cán bộ trong các cơ quan chính phủ, đặc biệt ở cấp địa phương. Điều này khuyến khích xã hội hóa một số dịch vụ công.
Từ những ví dụ trong nước và quốc tế, có thể thấy rằng, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là yêu cầu tất yếu của sự phát triển mà còn trở thành yếu tố then chốt giúp tối ưu hóa hiệu quả quản lý và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại. Đối với Việt Nam, quá trình sắp xếp, sáp nhập các bộ, ngành đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và cải thiện khả năng quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những thành tựu này, cần kiên định với mục tiêu xây dựng một bộ máy tinh gọn, hiệu quả, song song với việc ứng dụng công nghệ số và cải cách hành chính, nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thời đại mới.
Trong khi đó, bài học từ Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy rằng, việc xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tránh chồng chéo và lãng phí nguồn lực là yếu tố "sống còn" trong việc tinh gọn bộ máy. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính mà còn nâng cao tính minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, lấy người dân làm trung tâm luôn là kim chỉ nam trong mọi cải cách, bởi cuối cùng, mục tiêu lớn nhất của bộ máy nhà nước chính là phục vụ nhân dân một cách hiệu quả và thiết thực.
Nhìn về tương lai theo thực tiễn tại Việt Nam, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài để xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch và linh hoạt, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Đến chỉ đạo mang tính lịch sử
Phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 25/11, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu, xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong triển khai chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng". Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở; quyết tâm hoàn thành việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW và báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị trong quý I/2025.
Như vậy, việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống chính trị lần này được nhận định rằng có tính cấp bách, không thể chậm trễ. Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị sẽ được hoàn thành vào quý I/2025. Mốc thời gian này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi chỉ hơn nửa năm nữa, Đại hội Đảng các cấp cơ sở sẽ bắt đầu diễn ra, tiến tới Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIV dự kiến diễn ra vào năm 2026.
Nếu phương án triển khai muộn, việc sắp xếp công tác nhân sự sẽ trở nên phức tạp, đi ngược với quy luật. Triển khai tinh gọn bộ máy trước khi Đại hội Đảng lần thứ XIV diễn ra góp phần giúp hệ thống chính trị đủ điều kiện để bước vào giai đoạn mới, và như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".
Đáng chú ý, tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng", Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở khi thực hiện tinh gọn hệ thống chính trị không có nghĩa là công cuộc sẽ diễn ra một cách cập rập, khó kiểm soát. Mà ngược lại, hoạt động triển khai tinh gọn gấp rút nhưng vẫn đảm bảo thông suốt từ Trung ương đến địa phương, không cầu toàn mà làm tới đâu rút kinh nghiệm tới đó. Điều đó chứng tỏ tính sáng tạo, tính khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc cách mạng lần này.
Vì vậy, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, quá trình thực hiện cần theo dõi để phát hiện, nhân rộng những cách làm hay, hiệu quả, uốn nắn và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh, đảm bảo việc triển khai theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đã đề ra.
Với quyết tâm chính trị cao, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã có tuyên bố mang tính lịch sử về cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị. Mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị của nước ta từ năm 1945 đến nay gồm ba khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng các tổ chức chính trị xã hội.
Cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vẫn sẽ là nguyên tắc bao trùm khi tinh gọn bộ máy. Tuy nhiên, sau hàng chục năm vận hành, hệ thống chính trị đã xuất hiện những tồn tại, một số vấn đề không còn phù hợp với thực tiễn, dẫn tới việc cần soi xét kỹ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức để có những quyết định chính xác, hiệu quả.
Vì cuộc cách mạng có thể đi kèm với những hy sinh lợi ích cá nhân. Nên Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập, nhiệm vụ sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người trong từng tổ chức. Do đó, đòi hỏi sự đoàn kết, quyết tâm cao, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.
Kế thừa và đột phá trong thực hiện nghị quyết của Đảng
Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, việc tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị sẽ bắt đầu bằng việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017. Đây được nhận định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Chủ trương này chỉ ra rằng việc sắp xếp lại hệ thống chính trị để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không chỉ có tính nhất thời, mà là sự kế thừa và phát huy những di sản của sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
Nghị quyết số 18/NQ-TW tại Hội nghị lần thứ XI Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII cũng là sự đúc kết tỉ mỉ, nhìn nhận rõ, minh bạch tồn tại của hệ thống chính trị. Nghị quyết nêu rằng, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức còn chồng chéo, trùng lặp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý và đồng bộ. Vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ…
Cùng với đó, mặc dù đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương còn bất cập.
Đặc biệt, tinh thần gấp rút thực hiện tinh gọn bộ máy chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm cũng thể hiện sự nhất quán theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết. Cụ thể, nghị quyết nêu rõ việc sắp xếp bộ máy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Nhìn lại lịch sử, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vị lãnh tụ V.I. Lênin cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng tổ chức hệ thống chính trị của chế độ mới. Người đã để lại những chỉ dẫn mang tính lý luận, thực tiễn vẫn còn có giá trị thời sự đến ngày nay về tầm quan trọng, tính cấp bách, nguyên tắc, phương hướng, cách thức tiến hành xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác ngoài tổ chức. Nhưng V.I.Lênin cũng cảnh báo rằng, lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức; rằng “chính ở chỗ này, ở chỗ làm nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất này, mà chúng ta đã gặp nhiều thất bại nhất và mắc nhiều sai lầm nhất”.
Theo nhà lý luận chính trị V.I Lênin, một hệ thống tổ chức có nhiều bê trễ, thậm chí hư hỏng thì không những không thực hiện được mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà còn làm mất lòng tin của quần chúng. Do đó, điều quan trọng là tổ chức cần chọn những người xứng đáng và phải kiểm tra việc chấp hành thực tiễn. Bởi chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì mới có thể quản lý nhà nước hiệu quả.
Như vậy, có thể kết luận rằng, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì hệ thống chính trị cần đảm bảo các yếu tố: Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả như trong bài viết mới nhất của Tổng Bí thư Tô Lâm được truyền thông trong nước và quốc tế dành nhiều lời ca ngợi.
Hoàn thiện hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua việc thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta sẽ tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, dẫn dắt đất nước đi lên, đảm bảo sự phát triển bền vững và thịnh vượng cho quốc gia và nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của mỗi cá nhân và tổ chức.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Khu thương mại tự do đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định, khu thương mại tự do sẽ đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Sáng ngày 2/12, Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 đã được khai mạc. Sự kiện do Bộ Công Thương phối hợp với UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức.
Sự kiện có sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh; Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu Phạm Viết Thanh. Cùng với đó là hơn 500 đại biểu gồm lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đông Tây Nam Bộ; đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các hiệp hội, doanh nghiệp dịch vụ logistics, sản xuất và xuất nhập khẩu trong và ngoài nước, các chuyên gia và các cơ quan truyền thông, báo chí trên cả nước.
Phát biểu khai mạc sự kiện, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, logistics là ngành dịch vụ được ví như những “mạch máu”của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức hai con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics. Với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc tích cực, hiệu quả của các ban, bộ, ngành và các địa phương; đặc biệt là nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, ngành dịch vụ logistics nước ta đã có những bước phát triển khá mạnh (tăng bình quân 14-16%/năm), từng bước khẳng định được thương hiệu, vị thế của Ngành trong khu vực và thế giới. Năm 2024, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá, xếp hạng thuộc Top 10 thị trường logistics mới nổi; Top 4 thế giới về Chỉ số cơ hội logistics và Top 43 về Chỉ số hiệu quả logistics.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước; chi phí logistics còn cao, năng lực cạnh tranh thấp; sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thiếu tính kết nối về hạ tầng là những “điểm nghẽn” lớn, kìm hãm sự phát triển của dịch vụ logistics thời gian qua. Bên cạnh đó, những biến đổi về địa chính trị và các xu hướng kinh doanh mới (như dịch chuyển chuỗi cung ứng, thương mại điện tử xuyên biên giới, tiêu chuẩn phát triển xanh và bền vững) cùng với sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và dịch vụ logistics nói riêng.
Tiếp nối thành công của các năm trước, Diễn đàn năm nay được tổ chức với chủ đề "Khu thương mại tự do - Giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics" nhằm phát đi thông điệp mạnh mẽ của Chính phủ về việc thu hút, khuyến khích đầu tư, phát triển các Khu thương mại tự do với những chính sách đủ mạnh, khả thi và cơ chế thông thoáng, hấp dẫn để tạo động lực đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và ngành dịch vụ logistics nói riêng. Bởi, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Khu thương mại tự do là một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng và là công cụ hữu hiệu để các quốc gia tận dụng tối đa lợi ích mà quá trình hội nhập mang lại. Thực tế những năm qua, mô hình Khu thương mại tự do đã được nhiều quốc gia (như Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, UAE…) áp dụng rất thành công, giúp giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm và tối ưu hóa dòng chảy hàng hóa, nâng cao năng lực logistics, thu hút đầu tư nước ngoài.
Với vị trí địa lý chiến lược và tiềm năng, thế mạnh về phát triển hạ tầng cảng biển nước sâu, sân bay quốc tế, các đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các khu thương mại tự do quy mô lớn và hiện đại. Bộ Công Thương, với vai trò đầu mối quản lý nhà nước về dịch vụ logistics, đang trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050 ; theo đó, dự thảo Chiến lược đã đề xuất nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt (trong đó có giải pháp về xây dựng Khu thương mại tự do) nhằm hiện thực hoá mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về logistics, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là những nội dung rất quan trọng, có tính thời sự thiết thực không chỉ đối với sự phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam, mà còn quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các đại biểu từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn ở mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, hãy tập trung trao đổi, thảo luận để làm rõ những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân (nhất là nguyên nhân chủ quan); rút ra các bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ logistics ở nước ta thời gian qua, cũng như nhận diện những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; từ đó, hiến kế, kiến nghị với cấp có thẩm quyền về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp dịch vụ logistics phát huy nội lực, tận dụng cơ hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, đón đầu các xu hướng, chính sách thành lập các Khu thương mại tự do tại Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đề xuất các cơ chế chính sách đủ mạnh, khả thi để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các Khu thương mại tự do, tạo động lực đột phá mới thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu
Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu - Bài viết của phóng viên Lan Phương được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu
![]() |
Việc cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu lẫn nhau đã được cơ quan thanh tra kết luận là gây đội chi phí, phát sinh nguồn cung ảo trên thị trường (Ảnh minh hoạ: Cấn Dũng) |
Bài viết: Một số ý kiến gần đây đã nhầm lẫn, vì việc kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo do thương nhân phân phối mua bán xăng dầu lòng vòng lẫn nhau.
Vừa qua, trên một số hội, nhóm kênh mạng xã hội và truyền thông đưa thông tin chưa chính xác, chưa đầy đủ về kiến nghị cho phép hay không cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau. Để viện dẫn cho kiến nghị nên để thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau, các ý kiến nêu lập luận: Hiện vấn đề số liệu "ảo" về lượng xăng dầu tiêu thụ trên thị trường đã được giải quyết thông qua việc kết nối dữ liệu về tổng nguồn xăng dầu, tiêu thụ, tồn kho xăng dầu… về hệ thống của Bộ Công Thương.
Tuy nhiên, trên thực tế, cách hiểu này chưa chính xác, cần được hiểu đúng như sau:
Đối với quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán xăng dầu lẫn nhau như dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu được Bộ Công Thương xây dựng trình Chính phủ ban hành, qua các bài báo trước, Báo Công Thương đã phân tích rõ ràng rằng, quy định này xuất phát từ thực tế việc mua bán xăng dầu lẫn nhau của thương nhân phân phối thực hiện thời gian vừa qua đã được thanh tra Chính phủ kết luận là gây mua bán lòng vòng, phát sinh thêm khâu trung gian gây đội chi phí.
Các cơ quan quản lý và cả cơ quan pháp luật đã chỉ ra, nút thắt của vấn đề này là thương nhân phân phối hoàn toàn không thể tạo ra nguồn cung mới mà thực tế, họ phải đi mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối. Như vậy, nếu thương nhân phân phối xăng dầu mua bán xăng dầu lẫn nhau, sẽ làm tăng lên một nấc nữa trong hệ thống phân phối xăng dầu, gây đội chi phí. Theo kết luận của cơ quan thanh tra, việc mua bán lòng vòng qua lại đã làm tăng thêm chi phí trong khâu này là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp, là tình trạng đã xảy ra thời gian vừa qua.
Về thông tin cho rằng, các qui định mới về kết nối dữ liệu nguồn trong dự thảo Nghị định hiện nay đã "hoá giải" được con số ảo về số lượng xăng dầu trên thị trường, theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lập luận này chưa chính xác. Bởi lẽ, việc kết nối dữ liệu nguồn chỉ thực hiện với thương nhân đầu mối. Nếu muốn nắm số liệu từ thương nhân phân phối mà vẫn để thương nhân phân phối mua bán xăng dầu của nhau họ sẽ báo cáo số liệu cả từ đầu mối và từ các thương nhân phân phối khác nên số nguồn sẽ bị trùng.
Cần phải nói thêm rằng, việc mua bán xăng dầu giữa các thương nhân phân phối xăng dầu với nhau trên thực tế khiến cho cùng một lượng xăng dầu đưa ra tiêu thụ trên thị trường nhưng lại nằm trong số liệu báo cáo tiêu thụ xăng dầu của nhiều thương nhân phân phối xăng dầu. Khi thương nhân báo cáo số liệu này về Bộ Công Thương, dù là qua kênh nào, cũng tạo nên con số tiêu thụ "ảo" trên thị trường, gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát nguồn cung, điều tiết thị trường.
Trong bối cảnh đó, nếu như thương nhân phân phối chỉ mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối – thương nhân có nhiệm vụ tạo nguồn, thực hiện tổng nguồn xăng dầu thì thông qua việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương (thương nhân phân phối không phải thực hiện việc kết nối này do không phải đối tượng thực hiện nhiệm vụ tạo nguồn xăng dầu), cơ quan chức năng có công cụ để kiểm tra thực tế con số tổng nguồn này từ báo cáo của thương nhân sản xuất xăng dầu trong nước, từ con số thực tế của cơ quan hải quan đối với xăng dầu nhập khẩu. Qua đó, nắm bắt được con số chính xác để có thể điều tiết được nguồn cung. Vì xét cho cùng, đối với một mặt hàng đặc biệt như xăng dầu, đảm bảo nguồn cung cho nhu cầu sử dụng của người dân là quan trọng nhất.
Thêm nữa, mục tiêu lớn nhất của việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương là phục vụ kiểm soát nguồn cung xăng dầu cho tiêu dùng trong nước. Trong khi đó, quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán lẫn nhau nhằm mục tiêu hạn chế việc tăng chi phí trong khâu trung gian, là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp gây khó khăn cho thương nhân bán lẻ. Đây là hai vấn đề khác nhau.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS.TS Ngô Trí Long – chuyên gia kinh tế cũng nêu quan điểm: “Một số doanh nghiệp phân phối có phản hồi rằng, cơ quan quản lý đề xuất việc không cho phép mua bán xăng dầu lẫn nhau là hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng tôi cho rằng, quan điểm đó là do doanh nghiệp chỉ đứng ở góc độ của mình để nói chứ chưa nhìn một cách tổng thể. Trong trường hợp muốn tự do mua bán xăng dầu, thương nhân phân phối có thể cố gắng đáp ứng được các tiêu chí đã được quy định rõ ràng để trở thành thương nhân đầu mối và xin cấp phép. Lúc đó hoàn toàn có thể mua bán xăng dầu tự do với nhau”.
Từ kết luận của cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra về một số vụ việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh xăng dầu, có thể thấy, thời gian qua, một số thương nhân phân phối xăng dầu sử dụng hợp đồng mua bán xăng dầu để vay vốn ngân hàng rồi sử dụng nguồn vốn đó cho mục tiêu khác như đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán… dẫn tới thua lỗ, gây lãng phí nguồn lực toàn xã hội. Thực tế này cần được chấn chỉnh trong các văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm hạn chế tối đa những rủi ro, lãng phí nguồn lực, đảm bảo nguồn vốn dành cho xăng dầu thực sự phục vụ mục tiêu kinh doanh xăng dầu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Dự thảo Nghị định về kinh doanh xăng dầu đã xây dựng hệ thống phân phối xăng dầu với 3 cấp (phân khúc): Thương nhân đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu - Thương nhân phân phối xăng dầu - Thương nhân bán lẻ xăng dầu, đồng thời, Dự thảo quy định cụ thể về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của thương nhân ở từng phân khúc. Mặt hàng xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, khi tham gia thị trường, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng các điều kiện, thực hiện quyền và nghĩa vụ ở từng phân khúc mà doanh nghiệp tham gia.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong đó, quyền và lợi ích của người tiêu dùng ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ và an toàn cả trong các giao dịch truyền thống lẫn giao dịch hiện đại.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người tiêu dùng có những đặc điểm riêng như trẻ em, học sinh, sinh viên thường xuyên gặp khó khăn, hạn chế trong quá trình tiêu dùng hàng ngày.
Trước thực tiễn đó, từ năm 2021, Bộ Công Thương đã ban hành Đề án “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế giai đoạn 2021 - 2025”. Hơn 4 năm qua, trong khuôn khổ các hoạt động của Đề án, với vai trò là đơn vị được giao nhiệm vụ triển khai, Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia đã phối hợp với nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan như: Báo Công Thương, các trường đại học trên cả nước, các doanh nghiệp,… thực hiện nhiều hoạt động có ý nghĩa và thiết thực nhằm hướng tới các nhóm người tiêu dùng yếu thế khác nhau.
Nhằm tạo diễn đàn để đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia, nhà giáo cùng trao đổi, thảo luận về kết quả bước đầu, cũng như phân tích những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế, hôm nay, Báo Công Thương tổ chức chương trình Chính sách và đối thoại với chủ đề: “Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh”
Chương trình của chúng tôi đang được phát trực tiếp trên Báo Công Thương điện tử tại địa chỉ Congthuong.vn và trên các nền tảng mạng xã hội Fanpage, Youtube, Tik Tok Báo Công Thương.
Tham gia chương trình hôm nay có các diễn giả:
Ông Hồ Tùng Bách - Phó trưởng ban Ban Bảo vệ Người tiêu dùng, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
- Ông Bùi Thanh Thủy - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội bảo vệ Người tiêu dung Việt Nam
- Luật sư Nguyễn Thanh Hà, CEO Công ty Luật Sb Law
- TS. Nguyễn Ngọc Quyên, Trưởng Bộ môn Pháp luật Cạnh tranh và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh: Người dân vẫn mắc bẫy dù những thủ đoạn lừa đảo cũ
Xin kính chào quý vị khán giả đã đến với chương trình Diễn đàn - Đối thoại của Báo Công Thương, cùng gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng với những câu chuyện lan tỏa, có ý nghĩa trong cộng đồng xã hội.
![]() |
Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh chia sẻ những lời khuyên giúp phòng tránh chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng. |
Thưa quý vị! Thời gian gần đây, bản thân tôi cũng như nhiều người đã từng mắc phải một chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng với những chiêu trò lừa đảo, khiến nhiều người bị mất tiền bởi nhẹ dạ cả tin, đánh vào thói quen mua sắm của người tiêu dùng, những người hay mua hàng trên các sàn thương mại điện tử.

Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của tác giả Thu Liễu được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương tại trang web Congthuong.vn, xin được gửi đến quý vị khán thính giả trong mục Podcast – Thời sự ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Mới đây, tổ chức khủng bố Việt Tân đã “ếch ngồi đáy giếng”, đưa ra thông tin xuyên tạc về nhập khẩu điện nhằm mục đích xấu, cố tình gây hiểu lầm trong dư luận.
Việt Tân cố tình xuyên tạc các chính sách của Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo và hợp tác quốc tế trong việc cung cấp điện.
![]() |
Việt Nam là một nền kinh tế thị trường thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường |
Hai luận điệu chính của tổ chức khủng bố này là việc Việt Nam nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc trong khi điện trong nước dư thừa. Đồng thời tổ chức này còn chỉ trích Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi nhập khẩu điện từ hai nước láng giềng nhưng lại mua điện mặt trời của người dân với “giá 0 đồng”.
Đầu tiên, về vấn đề nhập khẩu điện, Việt Tân cho rằng Việt Nam mua điện từ Lào và Trung Quốc trong khi có tiềm năng điện mặt trời, điện gió và điện gió ngoài khơi dồi dào. Tuy nhiên, sự thật là Việt Nam nhập khẩu một lượng điện rất nhỏ từ các nước láng giềng, chủ yếu là do sự hợp tác giữa các Chính phủ trong khu vực. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường (Việt Nam là một nền kinh tế thị trường) thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường. Việc nhập khẩu điện rẻ hơn chi phí đầu tư tại chỗ sẽ góp phần giảm áp lực cho nguồn tài chính của quốc gia; góp phần giữ vững giá năng lượng trong nước và đương nhiên người dân sẽ không phải chịu chi phí mua điện quá cao, cùng nhiều lợi ích khác…
Về sản lượng điện nhập khẩu, tính trung bình hàng năm khoảng 2% là một con số quá nhỏ. Vào tháng 5/2023, ông Đặng Hoàng An - Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN (Thứ trưởng Bộ Công Thương thời điểm đó) đã có những phân tích rất chi tiết cụ thể về vấn đề này. Theo ông, sản lượng điện nhập khẩu từ Lào chỉ khoảng 7 triệu kWh/ngày, từ Trung Quốc khoảng 4 triệu kWh/ngày, con số này hoàn toàn không đáng kể so với mức tiêu thụ hàng ngày của miền Bắc, khoảng 450 triệu kWh.
Trên thực tế, trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, nguồn điện nhập khẩu hiện nay là phần để mở rộng hợp tác quốc tế và cơ bản dựa trên mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia láng giềng, đây cũng là một phần trong cam kết kết nối mạng lưới điện các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Thậm chí, trong tương lai, xuất nhập khẩu điện của Việt Nam sẽ còn được mở rộng vì tại Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, các nước đã đặt vấn đề kết nối mạng lưới điện liên thông ASEAN.
Hơn nữa, việc mua điện từ các quốc gia láng giềng là một phần trong chiến lược mở rộng hợp tác khu vực và xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng xuyên biên giới. Việt Nam đã thực hiện các thỏa thuận với Lào và Trung Quốc từ nhiều năm nay, và nguồn điện này giúp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt trong các mùa cao điểm hoặc khi có sự cố trong hệ thống điện nội địa. Thậm chí, Việt Nam còn xuất khẩu điện sang Campuchia, cho thấy nguồn cung điện không chỉ phụ thuộc vào nhập khẩu mà còn có khả năng cung cấp cho các nước trong khu vực.
Về cáo buộc mua điện mặt trời từ người dân với giá 0 đồng, đây là một sự xuyên tạc trắng trợn. Thực tế, Chính phủ đã quy định rất rõ về cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ, và việc mua điện dư từ người dân được thực hiện theo các chính sách hợp pháp. Theo Nghị định số 135/2024/NĐ-CP, được chính phủ ban hành và đã có hiệu lực từ ngày 22/10/2024, việc mua bán điện mặt trời giữa EVN và người dân được quy định chặt chẽ với mức giá hợp lý, không phải "0 đồng" như tổ chức Việt Tân cáo buộc. Các chính sách này không chỉ khuyến khích người dân phát triển năng lượng tái tạo mà còn giúp giảm thiểu lãng phí nguồn năng lượng dư thừa.
Điều quan trọng là Nghị định này khuyến khích người dân lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà và cho phép bán lượng điện dư lên lưới quốc gia, với mức giới hạn 20% công suất lắp đặt thực tế. Mức giá mua bán điện được căn cứ theo giá điện thị trường, phù hợp với tình hình phát triển của hệ thống điện quốc gia. EVN là đơn vị mua điện dư này, không phải vì lợi nhuận, mà vì đây là một nhiệm vụ được quy định trong chính sách của Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của năng lượng tái tạo.
Chính sách này thực tế cũng không chỉ đơn thuần khuyến khích lắp đặt điện mặt trời mái nhà mà còn bao gồm các ưu đãi về thuế và giảm thiểu thủ tục hành chính, giúp người dân dễ dàng tham gia vào thị trường năng lượng tái tạo.
Đưa ra những quan điểm sai trái, thiếu hiểu biết kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, Việt Tân đã cố tình dựng lên những câu chuyện sai sự thật, cố tình gây chia rẽ, với mục đích xấu. Thực tế, Bộ Công Thương và EVN đã có những giải pháp phù hợp, kịp thời, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng. Những luận điệu sai trái của Việt Tân không chỉ thiếu cơ sở mà còn đi ngược lại lợi ích của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Bộ Công Thương: Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài Podcast - Thời sự được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương của PV Quỳnh Nga. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội thông qua.
Sáng 8/11, tiếp tục Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe Tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi).
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, Luật Hóa chất được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007. Sau 16 năm thi hành, Chính phủ nhận thấy, so với thời điểm ban hành, hệ thống pháp luật hiện nay đã có nhiều thay đổi; Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn liên quan đến lĩnh vực hóa chất; nhiều Luật mới có liên quan cũng đã được Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương cho hay, xây dựng Luật Hóa chất (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa chất |
Cùng với đó, Việt Nam đã gia nhập nhiều hiệp định thương mại tự do và một số Công ước, Điều ước quốc tế mới về quản lý hóa chất. Mặt khác, thực tiễn thi hành luật cũng cho thấy một số quy định của Luật Hóa chất hiện hành đã bộc lộ những bất cập, vướng mắc, không còn phù hợp với tình hình thực tế.
Vì vậy, việc sửa đổi Luật Hóa chất là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng trong lĩnh vực hóa chất và khắc phục một số vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, quốc tế hiện nay và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Về mục đích, quan điểm xây dựng Luật, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho hay, xây dựng Luật Hóa chất (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa chất.
Sửa đổi toàn diện, đồng bộ các quy định của Luật Hóa chất theo hướng vừa bảo đảm kế thừa các quy định “đã chín, đã rõ, được đa số đồng tình và đã được kiểm chứng qua thực tiễn”; bãi bỏ các quy định không còn phù hợp, gây vướng mắc, cản trở; bổ sung, phát triển các quy định mang tính nguyên tắc, nền tảng phù hợp với tình hình mới gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Dự thảo Luật này không có nội dung trái Hiến pháp, không có chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; không lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ và bảo đảm tương thích với các điều ước/cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội thông qua, bao gồm: Phát triển bền vững ngành công nghiệp hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại; Quản lý hóa chất đồng bộ trong toàn bộ vòng đời; Quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm; Nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn hóa chất.
Dự thảo Luật gồm 9 chương, 89 điều (giảm 1 chương và tăng 18 điều so với Luật Hóa chất hiện hành). Việc tăng các điều, khoản trong dự thảo Luật chủ yếu và thực chất là các quy định mới về phát triển công nghiệp hóa chất, quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm và phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành về quản lý hóa chất.
Cụ thể như sau: Chương I. Quy định chung, gồm 8 Điều. Nội dung chủ yếu về: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hóa chất.
Chương II. Phát triển công nghiệp hóa chất, gồm 6 Điều. Nội dung chủ yếu về: Chiến lược phát triển công nghiệp hóa chất; Các yêu cầu đặc thù đối với dự án hóa chất; Cơ chế ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với lĩnh vực công nghiệp hóa chất trọng điểm.
Chương III. Quản lý hoạt động hóa chất, gồm 30 Điều, được chia thành 4 Mục. Nội dung chủ yếu về: Quy định chung đối với hoạt động hóa chất; Quy định về Hóa chất có điều kiện; Quy định về Hóa chất cần kiểm soát đặc biệt; Quy định về Hóa chất cấm. Các quy định tại Chương này nhằm quản lý các hoạt động trong toàn bộ vòng đời, từ sản xuất, nhập khẩu đến sử dụng, thải bỏ hóa chất.
Chương IV. Thông tin hóa chất, gồm 11 Điều. Nội dung Chương này cơ bản kế thừa quy định tại Luật Hóa chất hiện hành về: Đăng ký, đánh giá, quản lý hóa chất mới; Thông tin về hóa chất, bảo mật thông tin và Cơ sở dữ liệu hóa chất. Việc áp dụng các quy định nêu trên đã ổn định, phù hợp với thực tiễn và các quy định có liên quan của pháp luật. Dự thảo Luật chỉ quy định cụ thể hơn về trách nhiệm cung cấp, lưu giữ, cập nhật thông tin về phân loại đặc tính nguy hiểm của hóa chất và phiếu an toàn hóa chất.
Chương V. Hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm, gồm 3 Điều. Đây là Chương được bổ sung mới nhằm quy định rõ trách nhiệm của các Bộ quản lý ngành về công bố hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật; Tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm chứa hóa chất nguy hiểm phải xây dựng quy trình quản lý hóa chất; Trách nhiệm công bố thông tin trên Cơ sở dữ liệu hóa chất của các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm chứa hóa chất nguy hiểm. Các quy định trên được xây dựng theo hướng minh bạch thông tin đến công chúng, không phát sinh thủ tục hành chính.
Chương VI. An toàn hóa chất, gồm 13 Điều, chia thành 2 Mục. Nội dung chủ yếu về: Yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động hóa chất và Phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất.
Chương VII. Bảo vệ môi trường và an toàn cho cộng đồng, gồm 5 Điều. Nội dung Chương này cơ bản kế thừa quy định tại Luật Hóa chất hiện hành vì đã thực hiện ổn định, phù hợp với thực tiễn và các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Chương VIII và Chương IX. Các quy định về tổ chức thực hiện, gồm 13 Điều. Nội dung chủ yếu về: Trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực hóa chất và Điều khoản thi hành.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Hóa chất (sửa đổi). Hồ sơ dự án Luật đã đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 này. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát dự thảo Luật với các luật khác, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật.
Sau kỳ họp này, trên cơ sở ý kiến thảo luận của các Đại biểu Quốc hội và kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi), bảo đảm thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng trong lĩnh vực hóa chất; đồng thời rà soát, xử lý các mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập (nếu có) với các luật khác để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, quốc tế hiện nay và tương thích với các điều ước quốc tế và các công ước về hóa chất mà Việt Nam tham gia nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa chất phát triển hiệu quả, bền vững.

Thiết giáp Ukraine bị quét sạch, 60 binh sĩ thiệt mạng
Trên mặt trận Kursk, quân Ukraine đã phá thế bao vây của Nga nhưng đổi lại là gặp thiệt hại nặng nề.
Tại khu vực Kursk, Nga và Ukraine tiếp tục diễn ra cuộc chiến pháo binh quy mô lớn, đồng thời tiếp tục tranh giành vòng vây. Theo kênh Telegram “Military Chronicles” đưa tin vào ngày 5/11, quân tiếp viện Ukraine trong cuộc phản công từ ngày 4 đến 5/11 đã phá vỡ sự bao vây ba mặt của quân Nga đối với làng Pogrebki.
Quân tiếp viện Ukraine xuất phát từ làng Malaya Loknya, tiến dọc theo đường cao tốc về phía Bắc, mở cuộc phản công mạnh mẽ vào các vị trí của quân Nga ở phía nam Pogrebki và bờ tây sông Malaya Loknya.
Do sông ngăn cách nên lực lượng dự bị của Nga không thể hỗ trợ kịp thời các vị trí ở bờ Tây, buộc quân Nga tại bờ Tây phải từ bỏ trận địa và rút về bờ Đông. Nhờ vậy, quân Ukraine đã mở thông tuyến đường nông thôn từ Malaya Loknya đến Pogrebki.
![]() |
Do sông ngăn cách nên lực lượng dự bị của Nga không thể hỗ trợ kịp thời các vị trí ở bờ Tây, buộc quân Nga tại bờ Tây phải từ bỏ trận địa và rút về bờ Đông. Ảnh: Getty Images |
Nhìn vào bản đồ, do khoảng cách quá gần, quân Nga ở bờ Đông vẫn có thể sử dụng hỏa lực tầm gần để tấn công trực tiếp vào con đường ở bờ Tây, phong tỏa con đường bằng hỏa lực, khiến quân Ukraine dù đã mở thông đường nhưng không thể sử dụng nó bình thường.
Để đảm bảo an toàn cho con đường, lực lượng tiếp viện của Ukraine đã điều động một trung đội, dưới sự yểm trợ của 3 xe chiến đấu bộ binh, tấn công vào vị trí của quân Nga ở bờ Đông sông.
Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của hỏa lực chống tăng, quân Nga đã phá hủy một trong ba xe chiến đấu bộ binh của Ukraine, buộc hai chiếc còn lại phải rút lui. Bộ binh Ukraine mất đi sự yểm trợ, đã phải rút lui khẩn cấp sau khi 15 binh sĩ bị tiêu diệt và 3 người bị bắt.
Do quân Ukraine đã đạt được đột phá ở tuyến phía Đông của vòng vây, quân Nga bắt đầu tăng cường tấn công tuyến phía Tây của vòng vây, đặc biệt là vào các Novoivanovka và Leonidovo. Quân Nga đã trực tiếp sử dụng máy bay Su-34 để ném bom các ngôi làng này.
Theo kênh Telegram North Wind, quân Ukraine phàn nàn rằng Nga dùng bom không quân tấn công mạnh vào các vị trí của Ukraine trước khi phát động tấn công trên bộ, khiến Ukraine chịu tổn thất lớn và phải liên tục điều động lực lượng dự bị đến khu vực này để củng cố phòng tuyến. Do lực lượng dự bị của Ukraine dồi dào, họ có đủ sức mạnh để giữ vững tuyến phòng thủ.
Theo đoạn video được phóng viên công bố ngày 5/11, Quân đội Nga đã sử dụng hệ thống pháo phản lực phóng loạt Tornado-S để tiêu diệt cụm thiết giáp của Lữ đoàn tấn công đường không số 82 Ukraine, bao gồm hai xe tăng, ba xe chiến đấu bộ binh Bradley, 10 xe bọc thép, pháo tự hành 2S1 “Gvozdika”, một hệ thống phòng không Osa và khoảng 10 xe bán tải đã bị phá hủy.
Video cho thấy máy bay không người lái trinh sát của quân Nga đã thành công tiến sâu 30 km vào khu vực tỉnh Sumy của Ukraine và phát hiện cụm thiết giáp của Ukraine ở vành đai rừng gần làng Kiyanitsa.
Máy bay không người lái của Nga trước tiên đã kiểm tra kỹ lưỡng các trang bị của quân Ukraine, sau đó truyền thông tin thu được về cho lực lượng phóng tên lửa phía sau. Sau khi xác nhận thông tin, quân Nga ở hậu phương đã lập tức sử dụng hệ thống pháo phản lực Tornado-S để bắn một loạt đạn, bao phủ khu vực rừng nơi cụm thiết giáp của Ukraine tập trung.

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long làm việc với tỉnh Thanh Hóa về tình hình công nghiệp, thương mại, năng lượng
Trong chương trình làm việc tại tỉnh Thanh Hóa, chiều 6/11, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long cùng Đoàn công tác của Bộ Công Thương đã làm việc với UBND tỉnh Thanh Hóa về tình hình công nghiệp, thương mại, năng lượng trên địa bàn trong 10 tháng đầu năm 2024; lắng nghe một số kiến nghị của ngành Công Thương địa phương về một số lĩnh vực của ngành.
Tại buổi làm việc, lãnh đạo Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa đã báo cáo với Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long về một số kết quả đạt được về công nghiệp, thương mại trong 10 tháng đầu năm 2024.
![]() |
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long phát biểu tại buổi làm việc |
Theo đó, trong 10 tháng đầu năm 2024, mặc dù tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn, song được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn giữ được ổn định và tiếp tục phát triển, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Lãnh đạo Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa cũng đã kiến nghị với Bộ Công Thương quan tâm hỗ trợ tỉnh Thanh Hoá trong việc giới thiệu các nhà đầu tư tiềm năng trong và ngoài nước để tìm hiểu đầu tư lĩnh vực công nghiệp, thương mại trên địa bàn tỉnh. Đề nghị Bộ Công Thương quan tâm trình Thủ tướng Chính phủ ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư công, chỉ đạo đơn vị liên quan tổng hợp các mô hình hiệu quả trong phát triển công nghiệp, thương mại.
Ngoài ra, tỉnh Thanh Hóa cũng kiến nghị Bộ Công Thương tham mưu cho Chính phủ đề xuất Quốc hội sớm thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực nhằm giải quyết một số vướng mắc trong quá trình thực tiễn thi hành hiện nay.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long đánh giá cao những kết quả mà tỉnh Thanh Hóa đạt được trong thời gian qua. Đối với các kiến nghị, đề xuất của tỉnh Thanh Hóa, Thứ trưởng cho biết, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đồng hành cùng tỉnh tháo gỡ khó các khó khăn, vướng mắc để tỉnh phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Trong sáng 6/11, đoàn công tác của Bộ Công Thương do Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long làm Trưởng đoàn cũng đã có buổi làm việc tại Khu kinh tế Nghi Sơn để nắm bắt, tháo gỡ các khó khăn về hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trên địa bàn Khu kinh tế.
Kết thúc buổi làm việc, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long đã giao nhiệm vụ cho Cục, Vụ, các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Công Thương nghiên cứu, tham mưu để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Kịp thời nắm bắt, tháo gỡ các khó khăn về hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

Khi Thủ tướng trăn trở sửa đổi Luật Điện lực giữa cường quốc khí LNG
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của Nhà báo Nguyên Minh đưa tin trực tiếp từ thủ đô Doha, Quatar. Bài viết được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chưa bao giờ, câu chuyện sửa đổi Luật Điện lực nóng như hiện nay. Thủ tướng Phạm Minh Chính trong chuyến thăm, làm việc tại Qatar đã nhiều lần nhắc tới điều này.
Từ chỉ đạo, định hướng lớn của Tổng Bí thư
![]() |
Quy hoạch Điện VIII đã đề ra con số, cơ cấu cho từng loại nguồn điện |
Tại cuộc làm việc với Quốc vụ khanh phụ trách về năng lượng Qatar Saad bin Sherida Al Kaabi chiều 31/10, sửa đổi Luật Điện lực là cụm từ được hai bên nhắc đến nhiều nhất.
Quốc vụ khanh cho biết, ông vừa là Quốc vụ khanh phụ trách các vấn đề năng lượng Qatar vừa kiêm Giám đốc Điều hành Công ty QatarEnergy, đơn vị đang đàm phán hợp tác với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ông cho biết, khó khăn nhất nằm ở pháp luật Việt Nam và mong chờ Luật Điện lực sửa đổi sớm được Quốc hội Việt Nam thông qua để làm nền tảng cho hai bên đi vào các thỏa thuận hợp tác cụ thể.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, vừa qua, cũng có vấn đề pháp lý liên quan đến Luật Điện lực sửa đổi cản trở sự phát triển của các nguồn năng lượng. “Chúng tôi đang đẩy nhanh quá trình sửa đổi Luật Điện lực, các quy định liên quan theo hướng giảm can thiệp hành chính, tăng sự chủ động và quyền tự quyết của doanh nghiệp để tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động hợp tác của các nhà đầu tư nước ngoài với các đối tác trong nước.
Trong kỳ họp Quốc hội đang diễn ra tại Việt Nam, chúng tôi cũng đã, đang thảo luận về vấn đề này để kịp thời sửa đổi những điểm yếu đó. Các doanh nghiệp có thể làm việc trực tiếp với các ngài. Chính phủ Việt Nam không can thiệp vào quyền mua bán, quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sửa đổi Luật Điện lực sẽ giảm sự can thiệp của Chính phủ, của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, tạo môi trường thông thoáng hơn cho doanh nghiệp” - Thủ tướng nhấn mạnh.
Sự lo lắng, quan tâm trên của Thủ tướng cũng là lo lắng, quan tâm hàng đầu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước hiện nay, kể cả về ngắn hạn hay dài hạn thì mệnh lệnh cuộc sống đang đòi hỏi phải đủ điện cho sản xuất, đủ điện cho tiêu dùng, đủ điện cho phát triển.
Cách đây ít ngày, phát biểu ở tổ trong một phiên thảo luận, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dành thời lượng lớn cho nhiều chỉ đạo mạnh mẽ về sự cần thiết phải sớm sửa đổi Luật Điện lực. Tổng Bí thư cho rằng nếu không đủ điện cho sản xuất, nhiều nhà đầu tư lớn có thể tính toán không vào hoặc rút khỏi Việt Nam. Nhấn mạnh thời gian không chờ đợi, Tổng Bí thư chỉ đạo phải quyết liệt sửa đổi Luật Điện lực đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.
Những chỉ đạo của Tổng Bí thư đã thể hiện quyết tâm chính trị cao, nhìn thẳng vào các điểm nghẽn kinh tế - xã hội để tháo gỡ của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta.
Đến công thức điện cho phát triển
Phát biểu trên diễn đàn Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã nhiều lần nhắc đến con số được các nhà khoa học tính toán. Để GDP Việt Nam tăng trưởng 1%, điện phải đi trước tăng trưởng 1,8-2%.
Thực hiện Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị, Quy hoạch Điện VIII đã đề ra con số, cơ cấu cho từng loại nguồn điện. Để đủ điện cho phát triển, từ nay đến năm 2030, nghĩa là chỉ còn gần 6 năm nữa, Việt Nam phải tăng tổng công suất nguồn điện lên 150.000 - 160.000 MW, gấp đôi tổng công suất hiện nay. Trong khi đó, điện than, thủy điện đã đạt tới hạn phát triển. Điện năng lượng tái tạo muốn phát triển phải có một nguồn điện nền nhất định. Và một trong các giải pháp khả thi nhất chính là phát triển điện khí hoá lỏng. Quy hoạch điện VIII đã xác định nguồn nhiệt điện khí tái hóa từ LNG (hay gọi tắt là “khí LNG”) chiếm tỷ trọng khoảng hơn 14,9% tổng công suất toàn hệ thống phát điện quốc gia vào năm 2030. Việc xây mới 13 nhà máy điện khí LNG với tổng công suất 22.400MW đến năm 2030 và 2 nhà máy nữa với công suất 3.000MW đến năm 2035 là một phần quan trọng trong kế hoạch phát triển nguồn điện của quốc gia. Quy hoạch điện VIII cũng đề ra nhiệm vụ chạy đua với thời gian, tới 2030 phải hoàn thành xây dựng 13 nhà máy điện khí LNG từ Bắc chí Nam.
Và để xây dựng 13 nhà máy ấy, khí LNG ở đâu? Chắc chắn phải nhập từ nước ngoài mà Qatar là một trong những lựa chọn hàng đầu.
Với trữ lượng dầu thô đứng thứ 13 trên thế giới, trữ lượng khí heli đứng số 1 thế giới, Qatar hiện là nhà sản xuất-xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng và nhà sản xuất khí heli lớn hàng đầu thế giới.
Dù đã trở thành ông hoàng ngành năng lượng nhưng Qatar đã có tầm nhìn xa cho tương lai khi từ năm 1996, Tiểu vương Qatar khi đó là Hamad bin Khalifa al Thani cho đầu tư lớn vào công nghệ hiếm hóa lỏng để có thể mang khí tự nhiên ở dạng lỏng có thể vận chuyển bằng tàu lớn.
Qatar khi đó dù còn là nước nghèo nhưng đã mạo hiểm đầu tư rất nhiều tiền vào phát triển các công nghệ này để tăng giá trị công nghiệp khí đốt của họ. Đến nay, Qatar có chi phí khai thác và hóa lỏng khí đốt rẻ nhất trên thế giới. Qatar tiếp tục nhìn xa, mang tiền thu được từ khí đốt đầu tư khắp thế giới với Quỹ đầu tư Qatar có tổng giá trị tài sản lên đến 440 tỉ USD, “trải tiền” đầu tư trên toàn cầu…
Việc cần làm ngay
Những năm đầu đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng nêu ra thông điệp “Những việc cần làm ngay” để cả hệ thống chính trị nhìn thẳng vào sự thật, tháo gỡ các hạn chế, bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Hiện nay, tinh thần ấy cần tiếp tục được khơi dậy trong lĩnh vực năng lượng.
Một trong những “việc cần làm ngay” của hai nước hiện nay chính là tháo gỡ khó khăn cho phát triển năng lượng, trong đó có hợp tác quốc tế về lĩnh vực này. Trong cuộc làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính với ngài Quốc vụ khanh phụ trách năng lượng Qatar, cả ngài Quốc vụ khanh và Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Lê Ngọc Sơn đều nhắc đến khó khăn do cơ chế, các quy định của pháp luật. Không thể nhập khẩu “nhanh, nhiều, tốt, rẻ” khí hoá lỏng LNG nếu không gỡ vướng về thể chế. Trong khi như Tổng Bí thư từng nói “thời gian không chờ đợi”, một dự án muốn triển khai phải mất nhiều năm. Ngài Quốc vụ khanh cũng thẳng thắn nói ông vốn là kỹ sư, là chủ doanh nghiệp nên ông chỉ nói chuyện bằng những con số. Khi Việt Nam sửa đổi Luật Điện lực xong thì việc ký kết, hợp tác, giá cả, số lượng… mới có thể bàn thảo! Ông cũng chỉ còn chờ phía Việt Nam sửa Luật mà thôi.
Bên lề chuyến công tác, chúng tôi gặp ông Phạm Văn Phong, Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam PV GAS, đơn vị mà cái tên của nó chiếm toàn bộ ngoại diên của ngành công nghiệp khí Việt Nam. Ông Phong trước đó từng nhiều lần chia sẻ mong muốn tháo gỡ, sửa đổi các qui định của pháp luật thì mới có thể phát triển được các nhà máy điện khí. Năm 2023, Việt Nam mới nhập khẩu chuyến tàu khí LNG đầu tiên để khởi động cho ước mơ lớn điện khí trong khi trên thế giới, các nước công nghiệp phát triển đã đi trước cả 40 năm như Nhật Bản đón chuyến tàu LNG đầu tiên vào năm 1969. Từ đó, Nhật Bản đã phát triển ngành công nghiệp LNG mạnh mẽ.
Rõ ràng thời gian không chờ đợi nếu Luật Điện lực không được sửa đổi sớm nhất, tốt nhất có thể.
Chuyến công du của Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Diễn đàn sáng kiến Đầu tư tương lai có thể coi là chuyến đi tìm nguồn năng lượng mới cho tương lai. Chuyến đi này, thật trùng hợp khi các nhà lãnh đạo những vương quốc dầu lửa đều nhấn mạnh cụm từ “thời gian và trí tuệ”. Đó là hai thành tố cấu thành phát triển. Không có trí tuệ, tư duy đột phá thì thời gian phát triển sẽ kéo dài bởi sự trì trệ. Nhưng có trí tuệ, có đường hướng phát triển rồi mà không tìm con đường nhanh nhất, rút ngắn thời gian nhất để hiện thực hoá nó thì tất cả cũng vẫn bị trì trệ.
Tháo gỡ nút thắt, mở đường cho phát triển điện trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Để hiện thực hoá kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam như Tổng Bí thư Tô Lâm đề ra, đi tìm nguồn năng lượng mới để đủ điện cho phát triển đang là một trong “những việc cần làm ngay”, là mệnh lệnh cuộc sống.
Trong chuyên đề trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu 7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trong đó nhấn mạnh phải giải quyết vấn đề hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong nhân dân. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Tổng Bí thư yêu cầu phải chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển.
“Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật” - Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh.
Thiết nghĩ những chỉ đạo ấy rất rõ ràng và đầy tính thời sự trong giải quyết câu chuyện sửa đổi Luật Điện lực hiện nay.
Mệnh lệnh cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải tháo gỡ điểm nghẽn pháp luật, sửa Luật để phát triển, để tìm con đường phát triển đột phá ngay dưới chân mình!
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang thông tin điện tử của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
“Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard. Nội dung cuốn sách thuật lại chi tiết toàn cảnh lịch sử của ngành dầu mỏ, mô tả các cuộc đấu tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh ngành công nghiệp dầu mỏ, làm rung chuyển kinh tế thế giới, làm thay đổi vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc, gây ra nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu. Xin lần lượt đăng tải nội dung tác phẩm nổi tiếng này để phục vụ bạn đọc.
![]() |
“Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard |
Trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều chịu tác động rất lớn bởi những biến động của nguồn tài nguyên quý giá này. Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7 năm 2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đô-la/thùng.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo "một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn". Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang.
Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn, mà con đường đó dường như còn xa... Nằm trong sự ảnh hưởng chung đó, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.
Nhận thấy tầm quan trọng của dầu mỏ trong đời sống kinh tế, chính trị quốc tế, PetroVietnam đã hợp tác với Alpha Books, Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC) và NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách mang tên Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực – Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX. Như cuốn sách cho thấy, đằng sau rất nhiều cuộc chiến tranh, xung đột, va chạm, liên kết, liên minh, có một nguyên nhân luôn thường trực, đó là dầu mỏ. Dầu mỏ không còn giới hạn là một thứ nhiên liệu lỏng đơn thuần mà đã trở thành một thứ vũ khí mang màu sắc chính trị, kinh tế, dĩ nhiên là cả tôn giáo, văn hóa…
Đây là một cuốn sách trên 1.200 trang khắc họa sâu sắc toàn cảnh lịch sử phát triển và vai trò của ngành dầu và các sản phẩm lọc hoá dầu. Tác giả của cuốn sách, Daniel Yergin là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng là đồng tác giả cuốn Energy Future (Năng lượng tương lai). Một cuốn sách được giải của ông là Shattered Peace (Nền hòa bình bị phá bỏ) đã trở thành tác phẩm lịch sử kinh điển về những nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh. Cuốn The Commanding Heights (Những đỉnh cao chỉ huy) của ông đã được xuất bản tại Việt Nam và được độc giả đánh giá cao.
Chúng tôi tin rằng, tác phẩm đầy giá trị này của Daniel Yergin – Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực sẽ giúp độc giả Việt Nam, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng hiểu biết sâu sắc hơn về các cuộc giao tranh quyền lực nóng bỏng, sự giàu có của các cường quốc, nguyên nhân cội rễ của các cuộc xung đột Trung Đông, vai trò của các quốc gia Vùng Vịnh trong nền kinh tế toàn cầu và những biến động chính trị trong khu vực ảnh hưởng đến toàn thế giới...
Bạn đang cầm trong tay một cuốn sách rất đặc biệt; có thể coi đây là cuốn biên niên sử hết sức lý thú của hành tinh chúng ta trong hơn một thế kỷ nay, xoay quanh một tài nguyên có tầm quan trọng sống còn đối với hầu hết các quốc gia muốn đặt chân lên con đường công nghiệp hóa và đi tới phồn vinh, đó là DẦU MỎ. Tác giả cuốn sách, DANIEL YERGIN, người đã được trao giải thưởng Pulitzer, là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng từng là giảng viên trường Đại học Harvard và trường John F. Kennedy Harvard.
Một tác phẩm lớn khác của ông đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam là cuốn Những đỉnh cao chỉ huy, được độc giả đánh giá rất cao Ngay từ đầu bạn đọc chắc chắn sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn của cuốn sách. Dù bạn là người đã từng hoặc đang làm việc trong lĩnh vực dầu khí đi nữa thì khi bắt đầu đọc cuốn sách này, bạn vẫn có thể cảm thấy hiểu biết của mình về tầm vóc và ảnh hưởng của các hoạt động dầu khí đối với xã hội loài người còn quá khiêm tốn; rằng hóa ra gần cả thế kỷ nay dầu mỏ và sau này là khí thiên nhiên (còn gọi là khí đốt) đã đóng một vai quan trọng đến mức khó hình dung nổi đối với sự phát triển của lịch sử thế giới; rằng số phận của không ít những quốc gia, dân tộc, tập đoàn kinh tế, nguyên thủ quốc gia và chính khách… lẽ ra đã khác đi nếu dầu mỏ không được dùng làm vũ khí trong các cuộc đối đầu giữa các quốc gia và các thế lực chính trị, xã hội đã từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Nhưng lịch sử đã sang trang và thế giới đang như bạn thấy chứ không phải như thế khác. Nhưng điều hết sức lý thú là tác giả cuốn sách sẽ đưa bạn trở về với những sự kiện lịch sử có thể bạn đã biết, tuy nhiên lại cung cấp cho bạn những thông tin, phân tích, đánh giá khá độc đáo và đầy sức thuyết phục để minh chứng cho vai trò quyết định của dầu mỏ đến chiều hướng phát triển của những sự kiện đó.
Trong phần mở đầu cuốn sách, tác giả viết: "Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX… Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX.
Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ". Có thể coi đó là sự mô tả khá chính xác vóc dáng và bản chất của ngành công nghiệp dầu khí. Từ địa vị chưa mấy được chú ý vào đầu thế kỷ XX, dầu mỏ, với tư cách một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia, đã khẳng định tầm quan trọng của nó ngay trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy bay chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi của các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than.
Đến giữa thế kỷ XX, rất ít người còn hoài nghi về vai trò quan trọng không thể thiếu của dầu mỏ trong cán cân năng lượng toàn cầu. Nửa cuối của thế kỷ XX, thế giới chứng kiến sự bứt phá và chiếm lĩnh vị trí thống soái của dầu mỏ và khí thiên nhiên với nền công nghiệp và dịch vụ xã hội, bỏ xa nhiên liệu hóa thạch truyền thống là than đá. Những năm đầu của thế kỷ XXI này đang đánh dấu sự vươn lên ngoạn mục của dầu mỏ và khí đốt khi các quốc gia giàu hai nguồn tài nguyên này dường như đang có khả năng khuynh đảo ít nhất là một phần của thế giới văn minh bằng cách đóng hay mở các giếng dầu hoặc các đường ống dẫn khí. Mấy năm nay, Iran vẫn bướng bỉnh với các nghị quyết của Liên hợp quốc và các cường quốc Âu - Mỹ về vấn đề hạt nhân chắc cũng dựa vào thế có trữ lượng dầu gần 20 tỷ tấn, chỉ đứng sau Arập Xêút.
Venezuela, một trong những nước có trữ lượng dầu khổng lồ, cũng tỏ ra hết sức ngang ngạnh trong quan hệ với Mỹ. Quan hệ Nga - Ukraine, Nga - Belarus lúc ấm (thậm chí đã quyết định thành lập Liên bang với nhau), lúc lạnh cũng vì khí đốt. Rồi Trung Quốc, quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cùng với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới (trong khi nguồn tài nguyên trong nước có hạn), đã có những hoạt động hết sức mạnh mẽ để đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với hầu hết các nước châu Phi có lẽ cũng nhằm vào nguồn tài nguyên dầu khí từ lục địa này.
Có thể nói, sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than đá. Ngay cả nguồn lương thực của chúng ta, dù là sản phẩm của ngành nông nghiệp, cũng phụ thuộc không ít vào các nguồn tài nguyên này với tư cách là nguyên liệu (ví dụ để sản xuất phân đạm từ dầu, khí và than đá) hoặc nhiên liệu cho máy móc.
Theo thống kê của các tổ chức nghiên cứu năng lượng thế giới, trữ lượng dầu được xác minh của toàn thế giới (số liệu năm 2005) nằm trong khoảng từ 2.050 cho đến 2.390 tỷ thùng, tương đương từ 270 đến 323 tỷ tấn, và đến bây giờ chúng ta đã sử dụng khoảng 45 cho đến 70% trữ lượng đó. Các nước ở vùng Trung Đông chiếm khoảng một nửa trữ lượng dầu xác minh của thế giới, trong đó riêng Saudi Arabia chiếm một phần tư.
Nếu tính cả vùng Bắc Phi và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Trong khi đó, trữ lượng dầu ở các nước G7 khá khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá ít (trừ Canađa có trữ lượng dầu trong cát lớn, nhưng có lẽ còn lâu mới có thể khai thác hiệu quả được do giá thành khai thác cao). Cho nên, điều dễ hiểu là vùng Trung Đông, Trung Á, Bắc Phi và cả Mỹ Latinh, hiện có nhiều điểm nhạy cảm nhất, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị của thế giới.
Không ai có thể dự đoán được nguy cơ mất ổn định ở những vùng này bao giờ mới có hồi kết chừng nào dầu mỏ vẫn còn là đối tượng, cũng là công cụ hết sức nhạy cảm và hữu hiệu trong các tranh chấp quốc tế dù dưới bất kỳ màu áo gì: sắc tộc, tôn giáo hay hệ tư tưởng, chế độ chính trị. Nhưng liệu thế giới còn sử dụng dầu được bao nhiêu năm nữa? Liệu có phải thời gian để sử dụng lượng dầu dự trữ đã được xác minh có thể còn ngắn hơn 40 năm? Vậy các kịch bản có thể xảy ra với bức tranh dầu khí cũng như thế giới trong thế kỷ này sẽ như thế nào? Liệu nhân loại còn có khả năng tìm thấy dầu (và khí) nữa không? Giải pháp nào sẽ được tiến hành để bảo đảm nguồn năng lượng cho tương lai nếu dầu cạn kiệt? Đó là những câu hỏi luôn luôn làm đau đầu nhà lãnh đạo các quốc gia và gánh nặng đó lại được đặt lên vai các nhà khoa học, các nhà quản lý. Câu hỏi đầu tiên cần trả lời là dưới lòng đất còn bao nhiêu dầu nữa?
Theo đánh giá của các nhà khoa học thì trong tương lai còn có thể tìm thêm được khoảng từ 275 đến 1.469 tỷ thùng dầu nữa. Nếu lấy con số lạc quan nhất thì lượng dầu sẽ được phát hiện và xác minh sẽ bằng với trữ lượng xác minh mà chúng ta đang có trong tay. Nghĩa là kỷ nguyên dầu mỏ còn có thể kéo dài thêm 40 – 50 năm hoặc dài hơn, ngắn hơn, tùy mức sử dụng hàng năm tăng hay giảm. Tuy nhiên, triển vọng này lạc quan đến mức độ nào là điều không dễ dự báo.
Song các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách trên thế giới vẫn tỏ ra tin tưởng, bởi hiện tại đang có một số khả năng chứng tỏ việc tăng trữ lượng dầu toàn cầu là điều có thể xảy ra. Thứ nhất, đó là việc tăng hệ số thu hồi dầu ở các mỏ đang và sẽ đưa vào khai thác. Điều này đạt được là nhờ các công ty khai thác dầu đưa vào sử dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm chi phí cho việc thăm dò và khai thác dầu, làm giảm giá thành. Thứ hai, trữ lượng dầu được công bố của các quốc gia chưa phải là trữ lượng thật sự người ta có. Thứ ba, trữ lượng được xem xét hiện nay chưa bao gồm các dạng hóa thạch có chứa dầu như cát dầu (tar sands) và bitum (bitumen).
Một tiềm năng chưa được tính đến nữa là trữ lượng có thể có ở Nam Cực đang bị cấm thăm dò, khai thác vì mục đích bảo vệ môi trường. Nói chung, các nguồn dầu này, nếu khai thác được, sẽ cho sản lượng không nhỏ trong cán cân năng lượng hóa thạch. Thứ tư, các vùng nước sâu, vùng gần Bắc Cực đang là thử thách cũng là cơ hội lớn đối với các công ty dầu khí thế giới.
Trong những năm gần đây, nhiều mỏ dầu nước sâu ở vịnh Mexico, ở Angola và ở Đông Thái Bình Dương đã được phát hiện và đưa vào khai thác. Ở Việt Nam, bên cạnh việc tiếp tục tìm kiếm dầu khí ở những vùng gần bờ, các công việc chuẩn bị cho việc ra xa bờ, nhất là vùng thềm lục địa phía nam, đang được xúc tiến tích cực.
Theo đánh giá của các cơ quan năng lượng quốc tế, Việt Nam đang ở trong giai đoạn tăng trưởng sản lượng dầu, trong khi Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan... đã đi qua giai đoạn đỉnh cao của sản lượng. Triển vọng lạc quan của ngành dầu khí sẽ còn được nâng cao hơn nữa nhờ một hướng đi đang được mở ra để gia tăng nguồn nhiên liệu cho giao thông vận tải, công nghiệp và sinh hoạt. Đó là nguồn nhiên liệu sinh học, mà chủ yếu là cồn sinh học (gasohol) và diesel sinh học (biodiesel). Cồn sinh học, mà thực chất là etanol được sản xuất từ ngũ cốc, sắn, mía, củ cải, kể cả xác các loại thực vật..., đang được nhiều nước như Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines... sản xuất với quy mô không nhỏ để thay thế hoặc pha lẫn với xăng. Trong khi đó, biodiesel sản xuất từ các loại dầu thực vật, chủ yếu là dầu hạt cải (rape oil) và dầu hướng dương (sunflower oil) thì lại được nhiều nước châu Âu chú trọng.
Năm 2005, EU đã sản xuất và tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn biodiesel. Và để đón đầu và tiếp cận sự "ra đi" của kỷ nguyên dầu khí có khả năng xảy ra vào nửa cuối thế kỷ này, các nhà khoa học trên thế giới còn có những kịch bản hấp dẫn và lãng mạn hơn nữa. Đó là năng lượng nhiệt hạch (năng lượng phát ra khi tổng hợp hạt nhân chứ không phải năng lượng phân rã hạt nhân như trong các nhà máy điện nguyên tử hiện nay), năng lượng mặt trời, các dạng năng lượng tái tạo khác và nhất là năng lượng hydro lấy từ nước thông qua phản ứng quang - xúc tác.
Có thể nói, dầu mỏ đã trở thành động lực phát triển của thế giới trên con đường tiến tới văn minh, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra biết bao biến động xã hội để tàn phá nền văn minh đó. Nhưng đó là định mệnh chăng? Năng lượng nguyên tử, thậm chí lúc mới được phát hiện, chưa mang lại lợi ích gì cho nhân loại thì đã gây tai họa, nhưng rồi nó cũng phải thuần phục để phục vụ lợi ích con người. Và chúng ta hy vọng khi phải chia tay với kỷ nguyên dầu khí, thì loài người đã có trong tay những nguồn năng lượng thay thế dồi dào và sạch hơn.
Đúng như lời của tác giả cuốn sách này, dầu mỏ (và khí thiên nhiên) đã tạo nên "những thay đổi vĩ đại" trong hơn một thế kỷ nay của lịch sử nhân loại. Qua những trang sách, độc giả sẽ nhận rõ, một mặt, những "cống hiến" to lớn của dầu mỏ đối với sự phát triển thần kỳ của thế giới, mặt khác, những "tội lỗi" tày trời trong việc tiếp tay cho những kẻ tham tiền bạc và những thế lực tham quyền lực gây ra chết chóc, bất công xã hội và những cuộc tàn phá kìm hãm nền văn minh nhân loại. Đó là chưa kể "tội" của dầu mỏ đang cùng với các nhiên liệu hóa thạch khác gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường và sự nóng lên của toàn cầu.
Và, khi gấp cuốn sách lại, chắc chắn độc giả sẽ đồng ý với tác giả Daniel Yergin rằng, biên niên sử mà tác giả đã trình bày hết sức sắc sảo và hấp dẫn trong cuốn sách này thật sự là "thiên sử thi về cuộc kiếm tìm dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực" trong quá khứ, hiện tại và cả trong tương lai.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dấu ấn một nhà báo - nhà ngoại giao tài ba
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, bài viết của tác giả Trần Hoàng được đăng tải trên Báo điện tử Quân đội Nhân dân tại trang web qdnd.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Nhân 100 năm Ngày sinh của nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (5/11/1924 - 5/11/2024), ngày 1/11 tới, tại Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam sẽ tổ chức Tọa đàm và Trưng bày chuyên đề “Nhà báo - nhà ngoại giao Lý Văn Sáu - một tấm lòng son sắt”. Đây là dịp để khẳng định, nhà báo - nhà ngoại giao Lý Văn Sáu là một trong những gương mặt tiêu biểu của báo chí cách mạng Việt Nam, để lại nhiều dấu ấn quan trọng trên mặt trận chính trị - ngoại giao phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển ngành phát thanh-truyền hình Việt Nam.
![]() |
Nhà báo - nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (hàng đầu, thứ hai, từ phải sang) tại Paris (Pháp). Ảnh: Getty |
Một lòng theo cách mạng
Nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu, tên thật là Nguyễn Bá Đàn, quê ở xã Nhân Thành (Yên Thành, Nghệ An). Từ nhỏ, ông đã được gia đình định hướng theo đuổi học vấn nghiêm cẩn. Ông đỗ bằng tú tài toàn phần ban Triết lý tại Huế. Đây là cuộc thi tú tài cuối cùng của chế độ thực dân phong kiến được tổ chức tại Huế, ít tháng sau cuộc đảo chính của Nhật (ngày 9-3-1945). Được trang bị học vấn căn bản là bệ đỡ cho nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu rèn luyện khả năng tự học sau này. Ông chủ động và bền bỉ tự học tập, trang bị cho mình kiến thức tổng hợp, am tường nhiều ngoại ngữ. Không chỉ đồng chí, đồng nghiệp mà ngay cả đối phương cũng phải thừa nhận ông là một nhà trí thức uyên bác, am hiểu sâu sắc các nền văn hóa.
Cậu “Tú Đàn” sớm giác ngộ cách mạng. Ngay từ khi còn đi học ở Huế, năm 1944, ông đã tham gia quyên góp gạo cứu đồng bào bị đói. Năm 1945 về quê, ông tiếp tục dạy truyền bá quốc ngữ. Tại một cuộc họp thanh niên ở huyện lỵ Yên Thành, có ông Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên của chính phủ Trần Trọng Kim về dự, ông bất ngờ được tiến cử là “Thủ lĩnh thanh niên huyện”, có lẽ do các anh Việt Minh bí mật vận động.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Thế nhưng, nước nhà độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Trong những ngày Khánh Hòa kháng chiến, ông tham gia Thanh niên cứu quốc tại thành Diên Khánh, được tổ chức nhận ra có những năng khiếu phù hợp để làm báo, làm công tác thông tin tuyên truyền. Năm 1947, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng ty Thông tin tỉnh Khánh Hòa kiêm Tổng biên tập Báo Thắng (nay là Báo Khánh Hòa). Kỷ niệm đáng nhớ với nhà báo Lý Văn Sáu là gặp đồng chí Phạm Văn Đồng tại Hội nghị thông tin Liên khu V đầu năm 1948. Những lời động viên, định hướng của đồng chí Phạm Văn Đồng đã giúp ông giữ tinh thần lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn trăm bề, song nhà báo Lý Văn Sáu đã nhanh chóng thích ứng, có nhiều cách làm sáng tạo. Cùng với tờ Báo Thắng in bằng tiếng Việt, ông cùng các đồng chí ra tờ báo binh vận bằng tiếng Pháp đặt tên là “Le Trait d’Union” (Gạch nối), giúp binh lính Pháp hiểu được vì sao ta kháng chiến, vạch trần bộ mặt thực dân, kêu gọi họ phản chiến. Từ tháng 6/1949 đến cuối năm 1953, ông đảm nhận nhiệm vụ Phó giám đốc Đài Phát thanh kháng chiến “Tiếng nói miền Nam” đóng tại Liên khu V. Trọn những năm tháng tuổi trẻ nhà báo Lý Văn Sáu đã dâng hiến cho sự nghiệp báo chí, phát thanh, mang tiếng nói của Đảng, của cách mạng đến với người dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.
![]() |
Nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (ngồi thứ hai, từ phải sang) đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhì tại lễ trao tặng. |
Nhà ngoại giao sắc sảo
Sau Hiệp định Geneva, nhà báo Lý Văn Sáu tập kết ra Bắc, nhận nhiệm vụ tại Ban Thống nhất Trung ương. Năm 1962, ông bắt đầu sự nghiệp ngoại giao với cương vị Phó trưởng Cơ quan đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Cuba.
Từ tháng 1-1969 đến tháng 9-1973, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu tham gia Hội nghị Paris và sau đó là Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam với tư cách ủy viên, cố vấn, người phát ngôn của Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Với vốn tri thức sâu rộng, cách ứng xử văn hóa, lịch thiệp, khả năng ứng biến tuyệt vời trước mọi tình huống, các cuộc họp báo do ông chủ trì sau mỗi phiên họp của hội nghị thu hút sự quan tâm sâu sắc của giới báo chí quốc tế.
Mặt trận đấu tranh dư luận không tiếng súng nhưng rất phức tạp và không ít khó khăn. Phải suy nghĩ thật kỹ trước mỗi phát ngôn bởi đằng sau đó là thế cuộc đất nước, là sự nghiệp mà biết bao con người đang lao động, chiến đấu và hy sinh quên mình, là trách nhiệm chính trị to lớn của người làm báo, làm ngoại giao.
Nhiều người vẫn nhắc lại những “pha” ứng khẩu xuất thần đã trở thành giai thoại của nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu, người phát ngôn của đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tại một cuộc họp báo, có nhà báo Mỹ đưa ra tấm bản đồ khá lớn và hỏi: “Mặt trận của các ông thường khoe là kiểm soát được hai phần ba lãnh thổ miền Nam Việt Nam, vậy ông vui lòng chỉ cho tôi xem trên tấm bản đồ này các vùng giải phóng đó ở đâu?”. Không hề do dự, ông trả lời: “Điều ông hỏi cũng là điều Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn muốn biết. Xin ông hãy đọc thông cáo quân sự của Mỹ ngày hôm nay, xem máy bay của họ đã ném bom những nơi nào ở miền Nam Việt Nam thì những nơi ấy là vùng giải phóng của chúng tôi”.
Một lần khác, có nhà báo hỏi ông về việc chính quyền Sài Gòn khoe khoang bản chất tốt đẹp của họ? Ông Lý Văn Sáu đáp: “Con lạc đà chui qua lỗ trôn kim còn dễ hơn chính quyền Sài Gòn tự cho mình là độc lập, dân chủ, yêu nước”. Hôm sau, tờ báo Công giáo La Croix viết: “Người phát ngôn Việt Cộng cũng dùng đến ngụ ngôn trong Kinh Thánh”.
Nhiều đồng nghiệp cùng thời khẳng định, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu luôn nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Ông đã lý giải một cách ấn tượng về công việc của mình trong gần 5 năm ở Paris như sau: “Những người làm công tác phát ngôn báo chí chúng tôi trong chừng ấy năm trời chỉ nói bằng nghìn cách khác nhau một chân lý không gì thay đổi được, đó là: Nước Việt Nam là một, người Việt Nam dẫu ở miền Nam hay miền Bắc, cũng đều có nghĩa vụ thiêng liêng chung lưng đấu cật chống xâm lược Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.
Không chỉ nổi bật với những câu trả lời sắc sảo, nhạy bén tại các cuộc họp báo, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu còn tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại nhân dân, vận động Việt kiều, các tầng lớp nhân dân cũng như chính giới các nước chia sẻ quan điểm, đồng tình, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Khi đó, nhiều người bị bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Mỹ tác động nên chưa hiểu rõ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, chưa biết Việt Cộng là những người thế nào và chưa tin Việt Nam có thể chiến thắng. Khi giao tiếp với người dân các nước sở tại cũng như Việt kiều tại các nước châu Âu, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu đã khéo léo tuyên truyền, giải thích để mọi người hiểu rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, đồng tình, ủng hộ quan điểm của Việt Nam về các giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Cũng nhờ hoạt động tích cực đó, nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng mở rộng phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ Việt Nam, nhiều nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam trước cả khi Hiệp định Paris được ký.
Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nguyên Trưởng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris cho biết: “Anh Lý Văn Sáu là một nhà báo tầm cỡ, được mọi người rất quý mến và nể phục. Anh rất sắc sảo trả lời câu hỏi hóc búa của các nhà báo quốc tế. Mặt khác, trên mặt trận đấu tranh dư luận, anh Sáu đã phát huy được sở trường, kinh nghiệm báo chí của mình, có những đóng góp rất quan trọng vào thắng lợi chung”.
Tận hiến với nghề báo
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, đồng chí Lý Văn Sáu được phân công giữ nhiều chức vụ quản lý cơ quan báo chí, đó là: Phó giám đốc Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, Tổng biên tập Đài Truyền hình Trung ương (nay là Đài Truyền hình Việt Nam), Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, Phó tổng biên tập Thông tấn xã Việt Nam.
Với bề dày kinh nghiệm làm báo và phát thanh từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, lại có cơ hội tiếp xúc với báo chí thế giới trong nhiều năm nên nhà báo Lý Văn Sáu đã có những chỉ đạo, định hướng làm báo rất nhạy bén, bắt kịp với xu thế hiện đại. Chẳng hạn, ông luôn mong muốn truyền hình phải đưa tin trực tiếp, đa chiều, có tính đối thoại với khán giả. Những điều này với báo hình ngày nay là hiển nhiên nhưng đặt trong bối cảnh truyền hình ở nước ta còn sơ khai thì tầm nhìn kể trên là cực kỳ mới mẻ.
Nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu còn tích cực tham gia nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm về nghề báo, thu hút sự quan tâm của đồng nghiệp, công chúng. Ông không chỉ truyền đạt những kinh nghiệm, kiến thức mà còn truyền cảm hứng, thắp sáng “lửa nghề” cho các đồng nghiệp trẻ.
Với Báo Quân đội nhân dân, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu luôn dành tình cảm đặc biệt. Ngoài tình cảm riêng với người con rể là Trung tướng Lê Phúc Nguyên, nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân, ông luôn dành cho Báo Quân đội nhân dân sự yêu mến và quan tâm sâu sắc, đánh giá cao vị thế và bản sắc độc đáo của tờ báo chiến sĩ. Những năm nghỉ hưu, tuy tuổi cao sức yếu, ông vẫn tích cực tham gia viết bài, viết thư đóng góp ý kiến, gợi ý cách lý giải, phân tích nhiều vấn đề thời sự, đặc biệt là lĩnh vực đối ngoại, nhằm nâng cao chất lượng các ấn phẩm của Báo Quân đội nhân dân.
Từ mùa thu Tháng Tám lịch sử năm 1945 cho đến khi từ giã dương thế vào ngày 30-4-2012, đúng vào ngày kỷ niệm 37 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu đã tận hiến tâm huyết và sức lực cho sự nghiệp báo chí cách mạng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tấm gương lao động tận tụy, trách nhiệm, niềm đam mê và tâm huyết với nghề báo của ông đã để lại những bài học quý đối với người cầm bút hôm nay.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.