
Việt Nam: Ngôi sao đang lên của châu Á
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Tiêu Điểm được đăng tải trên báo điện tử Dân Trí tại trang web dantri.com.vn, sẽ được chia sẻ trong mục Podcast - Thời Sự ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Trước đại dịch Covid-19, chúng tôi (Brook Taylor từ New Zealand và Sam Korsmoe từ Hoa Kỳ) đã khởi xướng một dự án nghiên cứu về tương lai của Việt Nam.
Chúng tôi đã sống, làm việc và nghiên cứu về Việt Nam tổng cộng gần 60 năm. Chúng tôi đã là một phần của câu chuyện tăng trưởng kéo dài suốt ba thập kỷ qua của Việt Nam và chứng kiến các chỉ số đo lường sự phát triển cũng như thịnh vượng của một quốc gia dần được cải thiện trong suốt 25 năm qua.
![]() |
Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á |
Chúng tôi cùng thắc mắc, liệu điều đó đã xảy ra như thế nào? Quan trọng hơn, chúng tôi muốn biết liệu mô hình tăng trưởng của Việt Nam có thể tiếp diễn trong 25 năm tới hay không. Câu hỏi cơ bản của chúng tôi là: Liệu đây chỉ là một giai đoạn phát triển bùng nổ rồi sẽ dừng lại, hay sẽ thiết lập nền tảng cho sự tăng trưởng dài hạn và bền vững?
Những nỗ lực để trả lời các câu hỏi trên của chúng tôi đã được đền đáp với việc xuất bản cuốn Vietnam - Asia's Rising Star (bản tiếng Anh của Silkworm Books) và Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á (bản tiếng Việt của Quảng Văn và nhà xuất bản Hồng Đức).
Chúng tôi đã mang đến cho cuốn sách những kinh nghiệm và thế mạnh khác nhau. Brook là một doanh nhân, thành viên của Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh quốc (ACCA) và Tổng Giám đốc điều hành kiêm Giám đốc công ty Quản lý Quỹ VinaCapital. Còn tôi, Sam, là một nhà văn, giáo viên và đã nghiên cứu về Việt Nam từ năm 1990. Tôi đã viết luận văn thạc sĩ về Đổi mới và có thể nói được tiếng Việt. Sau nhiều cuộc thảo luận, chúng tôi quyết định đưa ra một dự báo (giả thuyết) về tương lai của Việt Nam. Đó là:
Việt Nam là con rồng kinh tế mới của châu Á và sẽ theo đuổi con đường phát triển của những con rồng kinh tế châu Á trước đó như Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc).
Có hai câu hỏi được đặt ra trong giả thuyết này. Đầu tiên là định nghĩa xem thế nào là một con rồng kinh tế. Nó là gì và một quốc gia cần những điều kiện gì để được xem là một "con rồng"? Chúng tôi đã xác định sáu tiêu chí và kiểm định từng tiêu chí với trường hợp của Việt Nam.
Các tiêu chí này bao gồm: (1) Số liệu -các chỉ số kinh tế - xã hội có sự tăng trưởng liên tục trong ít nhất 10 năm liên tiếp; (2) Xuất khẩu - có sự tăng trưởng trong chuỗi giá trị của các mặt hàng được sản xuất để phục vụ xuất khẩu; (3) Công nghiệp hóa - có các chính sách và cơ sở hạ tầng làm nền tảng để phục vụ quá trình công nghiệp hóa; (4) Chuyên môn - trình độ học vấn và kỹ năng của các nhân sự chủ chốt trong nền kinh tế và chính phủ ngày càng được cải thiện; (5) Thị trường - các sản phẩm Made-In-Vietnam tiếp cận được tới nhiều thị trường trên toàn cầu; và (6) Lãnh đạo - có hệ thống lãnh đạo chủ yếu dựa trên năng lực.
Câu hỏi thứ hai là liệu Việt Nam trong những năm 2020 và 2030 có thể lặp lại thành công mô hình tăng trưởng của Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) trong những năm 1980 và 1990 hay không?
Trong vòng 50 năm (từ 1950 đến 2000), Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đã phát triển từ các nền kinh tế thời hậu chiến, thuộc địa và nghèo đói trở thành các quốc gia và vùng lãnh thổ có thu nhập cao. Câu hỏi cơ bản mà chúng tôi đặt ra là liệu Việt Nam có thể làm được điều tương tự không. Để xem xét phần này của giả thuyết, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu, bao gồm sáu nghiên cứu tình huống và tám động lực kinh tế.
Chúng tôi đã chọn phương pháp giả thuyết cho dự án này vì một vài lý do. Thứ nhất, chúng tôi không phải là nhà báo, nhà kinh tế học, nhà sử học hoặc có mối quan hệ với bất kỳ chính phủ hay tổ chức nào. Thứ hai, chúng tôi không phải là người Việt Nam, nên chúng tôi muốn có một phương pháp nghiên cứu khách quan và khoa học nhất có thể. Chúng tôi không bao giờ nghĩ mình thực sự hiểu được trải nghiệm của người Việt Nam như cách mà họ cảm nhận. Thứ ba, phương pháp giả thuyết mang tính khoa học, chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là kiểm tra giả thuyết và báo cáo kết quả. Không có chỗ cho quan điểm cá nhân hoặc tẩy trắng những yếu tố cốt lõi.
Chúng tôi đã đầu tư rất nhiều thời gian để nghiên cứu về cái gọi là "Bẫy thu nhập trung bình", một "cái bẫy" thực sự mà nhiều quốc gia không thể "thoát" ra để trở thành các quốc gia có thu nhập cao. Dĩ nhiên, câu hỏi quan trọng nhất của chúng tôi là liệu Việt Nam có thể thoát khỏi cái bẫy này không?
Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ đưa ra câu trả lời chi tiết cho các câu hỏi trên. Đầu tiên, chúng tôi lập luận rằng Việt Nam sẽ là một con rồng kinh tế tiếp theo của châu Á, vì đất nước này thỏa mãn các tiêu chí mà chúng tôi đã đặt ra. Thứ hai, chúng tôi lập luận rằng Việt Nam rất có thể sẽ lặp lại được mô hình tăng trưởng của Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Điều này là nhờ các động lực kinh tế đã hỗ trợ sự phát triển của Việt Nam trong 25 năm qua.
Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu về các động lực kinh tế đã giúp Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) thành công trong các giai đoạn phát triển nền kinh tế của họ. Sáu trong số những động lực này cũng có thể được áp dụng cho Việt Nam, nghĩa là Việt Nam có tổng cộng 14 động lực kinh tế riêng biệt để giúp nền kinh tế phát triển.
Đây là lý do chúng tôi lập luận rằng Việt Nam có khả năng thoát khỏi Bẫy thu nhập trung bình và trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2040 hoặc 2045.
Liệu sai sót có thể xảy ra không? Có quá đi chứ. Không có gì là chắc chắn cả. Chúng tôi đã dành trọn một chương để giải quyết câu hỏi này (Chương 11 - Những rủi ro phía trước). Vẫn còn nhiều vấn đề đang tồn tại như khoảng cách giàu nghèo, tham nhũng, năng lực của nhà nước, sự đảo ngược của thương mại tự do, môi trường, thay đổi văn hóa và rủi ro địa chính trị. Bất kỳ vấn đề nào trong số này cũng có thể trở thành những trở ngại lớn cho sự phát triển.
Sau khi đầu tư hơn ba năm để nghiên cứu, chúng tôi thường được hỏi xem đâu là khám phá khiến mình bất ngờ nhất. Có ba điểm vô cùng nổi bật, bao gồm:
Thứ nhất, văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Chúng tôi đã nghiên cứu xem Việt Nam là một quốc gia Đông Bắc Á hay Đông Nam Á. Về mặt địa lý, Việt Nam rõ ràng thuộc Đông Nam Á, nhưng chúng tôi phát hiện ra đất nước này lại có đặc điểm văn hóa tương tự như các quốc gia Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…). Điều này bao gồm ảnh hưởng của Nho giáo, tinh thần làm việc chăm chỉ, tuân thủ kỷ luật xã hội và mô hình giáo dục đòi hỏi một nỗ lực học tập xuất sắc. Ngoài ra, Việt Nam có một ngôn ngữ chủ đạo trên toàn quốc và cơ cấu dân số tương đối thuận lợi cho phát triển.
Thứ hai, vai trò của phụ nữ tại Việt Nam, đặc biệt là trong nền kinh tế, quan trọng hơn rất nhiều so với hầu hết các quốc gia khác. Có rất ít rào cản văn hóa và xã hội để phụ nữ Việt Nam đảm nhận các vai trò lãnh đạo và kinh doanh. Do đó, tỷ lệ lao động nữ trong lực lượng lao động tại Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực châu Á và thế giới.
Thứ ba, nghiên cứu về bẫy thu nhập trung bình cho thấy sự phức tạp và khó khăn mà hầu hết các quốc gia gặp phải để "thoát" khỏi bẫy và trở thành các quốc gia có thu nhập cao. Đây là một điều rất khó khăn và hiếm gặp. Theo Ngân hàng Thế giới, từ năm 1960 đến nay mới chỉ có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ đã thoát khỏi Bẫy thu nhập trung bình. Bốn con rồng kinh tế châu Á: Hồng Kông (Trung Quốc), Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) cùng Nhật Bản đã chiếm một phần năm của nhóm này.
Trong giai đoạn từ 2001 đến 2023, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trung bình 6,23%/năm. Khi dự báo về tương lai, chúng tôi đưa ra ba kịch bản tăng trưởng: kịch bản tiêu chuẩn (tốc độ không đổi ở mức 6,23%), kịch bản thận trọng (5,23%) và kịch bản lạc quan (7,23%). Trong cả ba trường hợp, Việt Nam đều sẽ trở thành một quốc gia có thu nhập cao.
Chúng tôi kết thúc nghiên cứu này với ba gợi ý cho Việt Nam trong những năm 2020 và 2030, dựa trên những gì đã giúp nền kinh tế Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) thành công:
Nghĩ lớn - Vào giữa thập niên 1950 tại Nhật Bản và cuối thập niên 1970 tại Hàn Quốc, một nhóm tiên phong đã quyết định đăng cai Thế vận hội. Với Nhật Bản, khi đó Chiến tranh thế giới thứ hai mới kết thúc được 10 năm. Với Hàn Quốc, khi đó họ vẫn là một quốc gia đang phát triển với tài nguyên hạn chế và tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, những người tiên phong ở hai quốc gia này vẫn đưa ra đề xuất, thuyết trình với Ủy ban Olympic Quốc tế và giành quyền đăng cai Thế vận hội năm 1964 (Nhật Bản) và 1988 (Hàn Quốc). Vì sao Việt Nam không thể làm điều tương tự cho một Thế vận hội trong tương lai?
Nỗ lực lớn - Đài Loan (Trung Quốc) hiện là một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới về khoa học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực chip, bán dẫn. Thành tựu đó không bỗng dưng mà có, mà là một hành trình dài và gian khó với nhiều chính sách vĩ mô đúng đắn. Thế mạnh đáng kể nhất của Đài Loan (Trung Quốc) không phải là tài nguyên thiên nhiên, mà là nguồn nhân lực trình độ cao, trong đó có nhiều nhân tài từ nước ngoài trở về xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông tin.
Dám làm lớn - Morris Chang, sinh ra ở Trung Quốc đại lục, đã đến Đài Loan (Trung Quốc) vào năm 1987 và sáng lập Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC), một trong những công ty quan trọng nhất thế giới hiện nay. Đài Loan (Trung Quốc) cũng là quê hương của tòa nhà cao nhất thế giới, Taipei 101, từ năm 2004 đến năm 2010. Cũng trong khoảng thời gian đó, một nhóm kỹ sư Hàn Quốc đã quyết định rằng công ty của họ, Samsung, có thể trở thành nhà cung cấp lớn nhất thế giới về một sản phẩm mới gọi là điện thoại thông minh. Và họ đã thành công.
Con đường mà Việt Nam dường như đang đi đã từng được một số nền kinh tế khác đi qua. Có những mô hình phát triển và các nghiên cứu tình huống phong phú để học hỏi. Tài sản quan trọng nhất của Việt Nam không chỉ là 14 động lực mà chúng tôi đã phân tích trong sách, mà chính là 100 triệu con người đang sống và làm việc tại Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là họ khao khát lặp lại mô hình thành công của các con rồng kinh tế châu Á đến mức nào.
Tác giả: Ông Sam Korsmoe đến từ Mỹ, nghiên cứu về Việt Nam từ những năm 1990, đến nay đã có gần 18 năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Ông từng là Trưởng Văn phòng Thời báo kinh tế Việt Nam (1993-1997), Giám đốc điều hành Mekong Research Ltd. và MekongSources.com (1997- 2004). Ông cũng hoạt động như một nhà tư vấn giáo dục cho sinh viên Việt Nam nộp đơn vào các trường đại học tại Bắc Mỹ.
Ông Brook Taylor đã sống và làm việc tại Việt Nam từ năm 1997 và có hơn 22 năm kinh nghiệm quản lý, bao gồm hơn 19 năm là đối tác cấp cao tại các công ty kiểm toán lớn. Tại VinaCapital, ông Brook Taylor là Tổng Giám đốc điều hành kiêm Giám đốc Công ty Quản lý Quỹ. Chuyên môn của ông Brook Taylor trải rộng trên nhiều lĩnh vực quản lý và tài chính, bao gồm kế toán, lập kế hoạch kinh doanh, kiểm toán, tài chính doanh nghiệp, thuế và quản lý rủi ro. Ông có bằng MBA Quản trị Điều hành của INSEAD, bằng Cử nhân Thương mại và Quản trị của Đại học Victoria Wellington.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA): Bước ngoặt lịch sử trong quan hệ hai nước Việt Nam UAE
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của Nhà báo Nguyên Minh đưa tin trực tiếp từ từ Abu Dhabi, UAE được đăng tải tại trang web congthuong.vn, sẽ được chia sẻ trong mục Podcast - Thời Sự ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chiều 28/10, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE CEPA đã được ký bởi Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE Thani bin Ahmed Al Zeyoudi ký kết Hiệp định CEPA - Ảnh: Dương Giang/TTXVN |
Chiều 28/10/2024 giờ địa phương, tại Dubai (UAE) Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) Mohammed bin Rashid Al Maktoum đã chứng kiến lễ trao văn kiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (Hiệp định CEPA) được ký bởi Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE Thani bin Ahmed Al Zeyoudi.
CEPA là Hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký với một nước Ả-rập, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ được nâng cấp và ngày càng đi vào thực chất giữa Việt Nam với UAE nói riêng cũng như các nước Ả-rập nói chung.
Hiệp định CEPA được ký kết trong bối cảnh quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và UAE đang phát triển mạnh mẽ. Việc ký kết Hiệp định sau khoảng thời gian kỷ lục một năm đàm phán với 5 phiên đàm phán chính thức, trong đó có 3 phiên trực tiếp ở cấp Bộ trưởng, là minh chứng rõ rệt cho cam kết đưa hợp tác thương mại - đầu tư giữa hai bên lên một tầm cao mới.
Hiệp định gồm 18 Chương, 15 Phụ lục và 2 thư song phương với các nội dung gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ - đầu tư, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS), hải quan, phòng vệ thương mại, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, pháp lý – thể chế. Trong đó, đáng chú ý là hai bên đã thống nhất đưa ra cam kết mạnh mẽ về tự do hóa thương mại với việc UAE cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình đối với 99% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang UAE, trong khi Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình cho 98,5% kim ngạch xuất khẩu của UAE sang Việt Nam. Hiệp định cũng bao gồm nhiều quy định tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, phù hợp với các xu hướng chuyển đổi số và phát triển xanh hiện nay.
Hiện nay, UAE là một trong những đối tác thương mại - đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực Trung Đông, là cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận các thị trường trong khu vực này cũng như các thị trường khác ở Tây Á và Châu Phi. Ngoài ra, cơ cấu nền kinh tế và thương mại của hai nước mang tính bổ sung cho nhau.
Do vậy, CEPA là tiền đề thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh sang UAE và tiếp đó là các nước trong khu vực Trung Đông, Tây Á và châu Phi; đồng thời có cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nguồn vốn và dịch vụ chất lượng của UAE, góp phần giảm chi phí sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Ngược lại, hàng hóa và dịch vụ của UAE sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN thông qua vị trí chiến lược của Việt Nam trong khu vực.
Nhân dịp này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có bài trả lời phỏng vấn báo chí, phân tích sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và những nội dung cốt lõi của Hiệp định CEPA. Xin trân trọng kính mời bạn đọc theo dõi nội dung bài trả lời phỏng vấn trên Báo Công Thương điện tử.
Hiện UAE là thị trường xuất khẩu lớn nhất và là đối tác thương mại lớn thứ hai (sau Kuwait) của Việt Nam tại Tây Á. Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong giai đoạn 2018-2023, tổng trao đổi thương mại giữa hai nước bình quân đạt khoảng 5 tỷ USD/năm. Về cán cân thương mại, Việt Nam luôn xuất siêu sang thị trường UAE với giá trị lớn (từ 3-4 tỷ USD/năm).
Năm 2023, tổng trao đổi thương mại hai chiều đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 5,9% so với năm 2022, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 4,3% và nhập khẩu đạt trên 676 triệu USD, tăng 16%. Trong 8 tháng đầu năm 2024, tổng trao đổi thương mại hai chiều đạt trên 4,47 tỷ USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt 3,85 tỷ USD, tăng 47,5% và nhập khẩu đạt 623,5 triệu USD, tăng 32,5%.
Về cơ cấu hàng hóa, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang UAE gồm điện thoại di động, máy vi tính và linh kiện, sản phẩm điện, điện tử gia dụng, hạt tiêu, thủy sản, giày dép, hàng dệt may, sản phẩm ngũ cốc, sản phẩm nhựa, đồ gỗ nội thất… Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ UAE gồm chất dẻo nguyên liệu, khí đốt hóa lỏng (LPG), chế phẩm từ dầu mỏ, nguyên liệu thức ăn gia súc, kim loại thường, hóa chất…
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE: Tạo đột phá trong hợp tác kinh tế, thương mại
Chiều ngày 28/10/2024, giờ địa phương, tại Dubai (UAE) Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) đã chứng kiến lễ trao văn kiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (Hiệp định CEPA) được ký bởi Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE.
CEPA là Hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký với một nước Ả-rập, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ được nâng cấp và ngày càng đi vào thực chất giữa Việt Nam với UAE nói riêng cũng như các nước Ả-rập nói chung.
Hiệp định CEPA được ký kết trong bối cảnh quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và UAE đang phát triển mạnh mẽ. Việc ký kết Hiệp định sau khoảng thời gian kỷ lục một năm đàm phán với 5 phiên đàm phán chính thức, trong đó có 3 phiên trực tiếp ở cấp Bộ trưởng, là minh chứng rõ rệt cho cam kết đưa hợp tác thương mại - đầu tư giữa hai bên lên một tầm cao mới.
![]() |
Lễ ký kết hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (Hiệp định CEPA) |
Hiệp định gồm 18 Chương, 15 Phụ lục và 2 thư song phương với các nội dung gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ - đầu tư, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS), hải quan, phòng vệ thương mại, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, pháp lý – thể chế. Trong đó, đáng chú ý là hai bên đã thống nhất đưa ra cam kết mạnh mẽ về tự do hóa thương mại với việc UAE cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình đối với 99% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang UAE, trong khi Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình cho 98,5% kim ngạch xuất khẩu của UAE sang Việt Nam. Hiệp định cũng bao gồm nhiều quy định tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, phù hợp với các xu hướng chuyển đổi số và phát triển xanh hiện nay.
Hiện nay, UAE là một trong những đối tác thương mại - đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực Trung Đông, là cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận các thị trường trong khu vực này cũng như các thị trường khác ở Tây Á và Châu Phi. Ngoài ra, cơ cấu nền kinh tế và thương mại của hai nước mang tính bổ sung cho nhau.
Do vậy, CEPA là tiền đề thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh sang UAE và tiếp đó là các nước trong khu vực Trung Đông, Tây Á và châu Phi; đồng thời có cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nguồn vốn và dịch vụ chất lượng của UAE, góp phần giảm chi phí sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Ngược lại, hàng hóa và dịch vụ của UAE sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN thông qua vị trí chiến lược của Việt Nam trong khu vực.
Việc ký kết Hiệp định là dấu mốc lịch sử tạo đột phá quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư hai nước, mở ra con đường lớn cho Việt Nam tiến sâu vào thị trường Trung Đông - châu Phi.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh sự cần thiết phải sửa đổi Luật Điện lực
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Nguyên Vũ trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chiều 26/10, Quốc hội thảo luận tổ về Dự án Luật Điện lực (sửa đổi). Tổng Bí thư Tô Lâm đã có ý kiến phát biểu với nhiều chỉ đạo, định hướng hết sức quan trọng.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm tại Tổ thảo luận số 12 |
Vì sao phải có Luật Điện lực (sửa đổi)?
Tổng Bí thư Tô Lâm nêu vấn đề “Vì sao lại phải có Luật Điện lực (sửa đổi) và chỉ rõ: “Yêu cầu đòi hỏi về hạ tầng năng lượng là một trong những vấn đề dẫn dắt, trụ cột, là một trong những điểm đột phá”.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, hiện nay chúng ta đang đứng trước thách thức thiếu điện trầm trọng. Vừa qua có một số nhà đầu tư đã nghiên cứu và dự tính, nếu Việt Nam phát triển như thế này thì độ vài năm nữa thiếu điện mà không xử lý được thì sẽ không đầu tư vào Việt Nam.
Tổng Bí thư nêu thực tế, các nhà đầu tư nước ngoài họ phải cân nhắc về sản lượng điện của Việt Nam có đủ cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ hay không trong tương lai gần hay không. Vừa rồi có một số nhà đầu tư đã vào thăm dò, nghiên cứu, thậm chí có dự án rồi nhưng cuối cùng lại quyết định đầu tư ở nước khác. Một trong những nguyên nhân là vì thiếu điện. Vậy làm thế nào để đáp ứng đủ nguồn năng lượng để phát triển? Đây là một câu hỏi, luật tức Luật Điện lực (sửa đổi) phải đáp ứng được yêu cầu.
Đáp ứng đòi hỏi “điện sạch”
Vấn đề thứ hai đặt ra, theo Tổng Bí thư Tô Lâm là điện sạch, Việt Nam đã cam kết năm 2050 đạt phát thải ròng bằng 0.
Nếu thiếu điện sạch, theo Tổng Bí thư “như thế này thì hàng hóa sản xuất chịu giá khác, chịu thuế khác, có đủ sức cạnh tranh đối với thế giới không"?
Người ta có những biện pháp để phòng vệ, họ bảo tôi điện sạch, ông “điện bẩn” thì làm sao bình đẳng được. Đây là “cuộc chơi” của thế giới, mình không thể tồn tại được, muốn phát triển điện sạch lên thì phải thấy gì? Thủ tướng cũng phát biểu rồi. Bây giờ không phải vì những nhà máy điện, nhiệt điện, điện, than, thủy điện đã đầu tư vào phải thu hồi đủ vốn thì mới cho ông khác phát triển.
“Đến lúc thu hồi được vốn thì thế giới đã đi đến đâu rồi, ông lạc hậu rồi, ông chả có gì trong tay. Kìm hãm như vậy là không được, phải giải quyết, không thể độc quyền kiểu như thế, phải phát triển” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Phát triển truyền tải, điều tiết điện lực
“Vừa rồi cũng có quan điểm nói quy hoạch thế nào, vận tải điện thế nào? Có những tỉnh chẳng sản xuất được kW điện nhưng tiêu thụ điện top đầu, trong khi đó những tỉnh sản xuất ra điện nhưng người dân vẫn chưa được dùng điện. Như vậy phải điều tiết, Chính phủ, nhà nước phải có nhiệm vụ này” - Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định.
Tổng Bí thư phân tích hiệu quả xây dựng đường dây 500 KV mạch 3 vừa qua. “Vừa qua điện sản xuất được, điện không đủ, vậy thì cứ phát triển công nghiệp, miền Trung sẽ phát triển trở thành trung tâm điện năng. Thế thì phải có mạch 3, phải có những đường dây vận tải đó”, Tổng Bí thư nêu tiếp thực tế chuyến công tác gần đây:
“Hôm trước tôi đi vào trong Quảng Trị thấy rất tiềm năng về phát triển điện sạch, điện gió, điện ngoài khơi. Các đồng chí báo cáo tính toán khoảng 10.000 MW/năm, khoảng 10.000 tỷ thu nhập từ năng lượng này. Chưa kể là mua từ Lào sang, Lào sản xuất được điện thì bán sang đây, đi vào đường Quảng Bình, Quảng Trị là gần nhất, thuận lợi nhất”.
“Mạch 3 đến Quảng Bình rồi, nối thêm sang Quảng Trị nữa ra Hưng Yên thì các tỉnh phía Bắc đủ điện. Trước đây, Hòa Bình có điện thì đường dây 500 kW chuyển tải điện vào miền Nam, bây giờ đường dây ấy chuyển ngược ra Bắc. Đấy là điều hòa, cân đối”, Tổng Bí thư chỉ rõ hiệu quả công tác truyền tải.
Thời gian không cho phép
Nhắc lại chủ trương mới của Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Bây giờ là mục tiêu phát triển, điện sạch cũng cân đối tất cả các nguồn. Điện gió có thuận lợi, điện mặt trời có thuận lợi, khó khăn… thì làm gì để mục tiêu năm 2045 đủ điện được? Phải phát triển điện hạt nhân, thế giới người ta cũng đang làm như thế.
Vừa rồi Hội nghị Trung ương 10 nhất trí phải khởi động lại, phải có chủ trương nghiên cứu về vấn đề này để xin ý kiến Quốc hội. Phải có chủ trương thì ít nhất 5-10 năm nữa may ra mới lại có nhà máy điện hạt nhân. Còn nếu mà không có nữa thì đến năm 2045 không kịp” - Tổng Bí thư phân tích.
Vì thế, theo Tổng Bí thư, để giải quyết tất cả những vấn đề đó, những bất cập đó thì Luật Điện lực (sửa đổi) phải định hướng, phải cụ thể hóa những chủ trương của Đảng. Phải đưa pháp lý làm sao để đảm bảo được yêu cầu đủ điện cho sản xuất, tiêu dùng, nhu cầu điện của quốc gia phát triển, điều tiết, quy hoạch thế nào, Quy hoạch điện VIII, điện IX như thế nào. Phải đảm bảo được nguồn điện sạch…
Trên cơ sở đó, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam có thể công bố với thế giới năm nay sản lượng điện bao nhiêu, từ nguồn nào… “Người ta nhìn thấy ngay, thấy minh bạch, người ta thấy thì các nhà đầu tư yên tâm vào. Đấy là cái cấp bách của Luật điện lực (sửa đổi) phải đảm bảo được các yêu cầu như thế” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Tổng Bí thư cũng hoan nghênh sự vào cuộc kịp thời của Chính phủ và các bộ ngành đối với vấn đề này: “Rất hoan nghênh các cơ quan vào cuộc ngay, khi Trung ương có ý kiến về chủ trương điện hạt nhân thì trong Luật điện lực (sửa đổi - PV) xuất hiện ngay”.
Phải tính làm sao để đủ điện, công suất như thế nào, bố trí ở đâu, công nghệ gì? Đây mới là chủ trương, tất cả những việc đó phải bàn, phải tính đến để làm sao chúng ta phải rất chủ động.
“Định hướng thế này rồi chờ đến mấy năm nữa khảo sát, giải phóng mặt bằng, đi tìm công nghệ, đi tìm vốn nữa, trong khi 2045 đến nơi rồi, không chờ đợi được. Thời gian không cho phép, chúng ta phải làm những việc đó, đòi hỏi phải rất nhanh, rất đồng bộ trong những khâu này”- Tổng Bí thư chỉ đạo.
Tổng Bí thư cũng cho rằng: Nếu chờ đợi để hoàn chỉnh được hết, học tập hết kinh nghiệm nước ngoài thì rất khó. Chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thiện hoàn chỉnh nhưng với tầm nhìn để đáp ứng được nhu cầu, mục tiêu như vậy.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ các dự án gây lãng phí, yêu cầu có giải pháp 'gỡ vướng'
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Nguyên Vũ trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Tại phiên thảo luận Tổ ngày 26/10, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có những chia sẻ về nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có ''lãng phí''.
Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá, sau 40 năm đổi mới, đất nước đã có những thành tựu và phát triển vượt bậc và chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về điều đó. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Tổng Bí thư cũng trăn trở, cần làm sao để phát triển kinh tế xã hội phải đi vào bền vững, thành quả phải đến tận tay người dân, nâng cao được mức sống của người dân, bộ mặt xã hội thay đổi.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm dự họp tại phiên thảo luận ở tổ của Quốc hội chiều nay 26/10 (Ảnh: Media Quốc hội). |
Và để có thể sử dụng nguồn lực thật tốt thì cần quan tâm đến vấn đề lãng phí.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm: Dân cho biết có nhiều mảnh đất vàng, nhưng tại sao chục năm rồi vẫn thấy cỏ mọc; phải có ai chịu trách nhiệm chứ, nhà nước cấp thế nào để lãng phí thế này, doanh nghiệp nào được cấp tại sao không làm, không làm thì thu lại theo quy định, tại sao lại để như thế được?
"Nếu vướng thì phải có tháo gỡ, phải có người chịu trách nhiệm. Các vụ án đưa ra, ai vi phạm đã xử lý rồi, tài sản là của Nhà nước, là tiền của của Nhân dân. Người dân họ thấy nói hay lắm, nhưng tại sao lại để thế này? Tỉnh làm, trung ương làm hay ai làm thì phải có địa chỉ chứ!?", Tổng Bí thư nhấn mạnh, đồng thời đưa ra 2 ví dụ cụ thể, đó là dự án phòng, chống ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh 10 nghìn tỷ, hai nhiệm kỳ rồi Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vẫn ngập lụt, tiền nhà nước bỏ ra rồi, nếu để mãi như thế thì lại vi phạm, không tham ô, tham nhũng thì tội lãng phí.
Thứ hai là hai bệnh viện ở Hà Nam, người dân không có bệnh viện, Nhà nước bỏ tiền ra xây rồi mà cũng chục năm rồi không được đưa vào sử dụng, vẫn cứ treo như thế, nếu mà của tư nhân thì họ thu hồi xong vốn, vốn đó được hoàn trả rồi, mà của Nhà nước thì vẫn là để không như thế, không có ai chịu trách nhiệm?. Đây là lãng phí, chưa nói là nếu ai tham ô, tham nhũng thì điều tra xử lý hết rồi, hoặc là chưa điều tra thì cũng quay lại để điều tra, để làm, để có kết luận đưa vào xử lý.
Đối với đầu tư công, Tổng Bí thư đề cập đến giải ngân vốn, trong đó nói đến việc “có tiền" không "tiêu được”. “Giải ngân vốn đầu tư công 9 tháng chưa được 50%, cả năm có tiêu được hết kế hoạch không?
Hỏi tại sao thì bảo vướng quy định này, vướng quy định kia, chương trình mục tiêu quốc gia có hết rồi, quyết định rồi nhưng bảo bây giờ đụng vào đất, mà đất rừng lại phải chờ Quốc hội để giải tỏa đất rừng này rồi mới triển khai được, thế cứ vướng cái nọ, vướng cái kia, thì nó là cái gì? Tại sao lại có những quy định cái nọ lại vướng vào cái kia như thế? Thì quy định là do ai, cũng là do mình cả thôi. Thế tại sao mình làm mình lại cứ vướng vào mình đủ thứ việc như thế, khó đủ thứ, thì khó đến đâu, phải gỡ đến đó.
"Tại sao lại quy định thế nào để đến chính mình không làm gì được, nhà nước cũng không làm được thì làm doanh nghiệp làm được?. Hàng trăm dự án, hàng nghìn dự án được bộ ngành, địa phương đã cấp cho doanh nghiệp, cấp giấy phép rồi nhưng mà đến quá trình triển khai cũng lại vướng cái này cái kia, rồi cứ đứng chờ nhau. Đất cũng được cấp rồi lại vướng không được thực hiện, vướng quy hoạch, vướng cái này cái kia, tất cả đều do mình cả, tự mình làm. Vậy thì bây giờ ai sẽ làm việc đó?", Tổng Bí thư đặt câu hỏi và nêu giải pháp: Phải có sự phối hợp, Chính phủ vướng thì trao đổi với Quốc hội, Quốc hội xem thế nào phải trao đổi với Chính phủ, không thể đổi lỗi cho nhau được, lại không thể chờ đợi nhau được, thì xung quanh đó là những câu chuyện lãng phí, nhưng cũng rất mừng và các đại biểu Quốc hội nhìn là thấy ngay. Dân nhìn thấy, đặt câu hỏi thì cũng phải tìm cách trả lời, mình cũng phải có trách nhiệm chứ không phải chỉ có phản ánh Quốc hội, phản ánh chung.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ khối Đại đoàn kết dân tộc sau Đại hội XIII
Bài 3: Vạch trần những âm mưu xuyên tạc tình hình kinh tế Việt Nam
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của nhóm PV: Nguyễn Sơn, Kim Thanh, Kiều Giang, Bùi Liên, trên báo điện tử Đảng Cộng Sản tại trang web dangcongsan.vn,được đăng tải trong mục Podcast - Chính Luận 35 của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bất chấp những âm mưu xuyên tạc, thủ đoạn chống phá, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những bước đi mạnh mẽ, xác lập vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực và thế giới.
Thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế, những năm gần đây, đặc biệt là từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước; phủ nhận những thành quả của đất nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, tác động làm thay đổi đường lối, chính sách kinh tế, kích động các hoạt động cản trở, chống lại việc thực hiện chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước.
![]() |
Việt Nam đang khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực và thế giới. |
Cố tình bóp méo, bôi đen hiện thực
L ợi dụng những hạn chế của nền kinh tế Việt Nam và việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam, một số cá nhân, tổ chức ở trong, ngoài nước đã đăng tải trên Internet, mạng xã hội những luận điệu suy diễn, xuyên tạc. Mưu đồ đằng sau những luận điệu này không gì khác là gây tâm lý hoài nghi, phân tâm trong xã hội, hướng tới làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Bên cạnh đó, các đối tượng cố tình xuyên tạc cho rằng, mô hình kinh tế thị trường gắn liền với chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), không có thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; gán ghép định hướng XHCN với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn…
Có đối tượng thì cố tình đưa ra những luận điệu xuyên tạc, đả kích vai trò, phương thức quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước. Những người này cho rằng, các cơ quan quản lý không đủ năng lực, trình độ, đang sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp vào các hoạt động kinh tế một cách trái quy luật, làm cản trở phát triển kinh tế hoặc bóp méo thị trường nhằm trục lợi. Từ đó, họ cho rằng, phải có sự chuyển hướng, “xoay trục” phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam theo nền kinh tế thị trường TBCN. Thậm chí, có đối tượng còn ngang nhiên xuyên tạc rằng, dường như Việt Nam đang “xoay trục” sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN bằng việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng sự điều tiết của thị trường.
Một số đối tượng khác lại tìm cách khoét sâu, thổi phồng những hạn chế, bất cập của nền kinh tế và những sai phạm, thiếu sót của các cá nhân, tổ chức trong các vụ án về kinh tế xảy ra ở một số bộ, ngành, địa phương để quy kết, nguyên nhân là do lỗi hệ thống, muốn khắc phục phải thay đổi thể chế kinh tế. Thậm chí, những người này còn cố tình xuyên tạc rằng, cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế, chống tham nhũng đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng xấu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu.
Đặc biệt, sau khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường ở Việt Nam, các đối tượng đã cố tình xuyên tạc, vu cáo cho rằng, nguyên nhân Hoa Kỳ từ chối nâng cấp Việt Nam lên nền kinh tế thị trường là do “nhà nước Việt Nam vẫn can thiệp sâu vào mọi khía cạnh của nền kinh tế”; “nền kinh tế Việt Nam đang không vận hành theo quy luật thị trường mà nằm dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Không những vậy, một số cá nhân, tổ chức ở bên ngoài còn tổ chức livestream dưới dạng “hội luận” với thành phần tham gia được gắn mác “chuyên gia”, “luật sư”, “tiến sĩ”… Mục đích không gì khác là bôi đen, đả phá nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cổ xúy việc Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Một số phần tử phản động ở bên ngoài nhân cơ hội này đưa ra các luận điệu kiểu như “độc tài thì làm gì có cơ chế kinh tế thị trường”, “muốn có kinh tế thị trường phải có đa nguyên, đa đảng”…
Đây rõ ràng là những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc nhằm thực hiện mưu đồ đen tối, gây tâm lý hoài nghi, dao động, mất niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Đồng thời, làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên… Càng nguy hiểm hơn khi những luận điệu trên lại được núp bóng những “kiến nghị”, “góp ý”, “ý kiến tâm huyết” và được các đối tượng đăng tải, chia sẻ rộng rãi trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Youtube, Snapchat, TikTok… theo các tuyến bài với tần suất liên tục.
Những "con số biết nói" bác bỏ mọi xuyên tạc
Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người chứng minh kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của CNTB. Điều đó đồng nghĩa với việc, các nước XHCN, trong đó có Việt Nam có thể sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh tế - xã hội theo những nguyên tắc, mục đích riêng phù hợp với điều kiện của quốc gia.
Phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ, Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế phù hợp trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Cùng với phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, Đảng, Nhà nước ta xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Do đó, sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế.
Qua gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 40 - 43% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tỉ lệ đóng góp thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước… Đến năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân có khoảng 90.000 doanh nghiệp hoạt động.
Mặc dù coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, nhưng kinh tế nhà nước mới là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế (trong đó có kinh tế tư nhân) theo định hướng XHCN, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Những năm qua, xuất phát từ thực tế một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, Đảng, Nhà nước ta đang chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động vốn đầu tư. Qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh.
Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Điển hình như, Vinamilk sau khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, quy mô tài sản liên tục gia tăng, khả năng tự chủ tài chính được cải thiện. Tính đến hết năm 2023, Vinamilk đã xuất khẩu đến gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 5.000 tỉ đồng. Bởi vậy, không thể nói rằng, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước là “tư nhân hóa” nền kinh tế quốc dân, là Việt Nam đang “xoay trục”, “chuyển hướng” sang phát triển kinh tế thị trường định hướng TBCN.
Thực tiễn việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới gần 40 năm qua ở Việt Nam đã đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên, từ chỗ chỉ đạt 4,5 tỉ USD vào năm 1986, thì đến năm 2023 đã đạt 430 tỉ USD, đứng thứ 35 thế giới. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần không ngừng được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ khoảng 250 USD/năm, thì đến năm 2023 đã đạt 4.284 USD, đứng thứ năm trong ASEAN.
Chống tham nhũng, tiêu cực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đã trở thành xu thế không thể đảo ngược; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm nản chí, chùn bước, sợ sai không dám làm của cán bộ, đảng viên, mà chỉ làm chùn bước những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm.
Thực tế cho thấy, cuộc chiến tham nhũng đi vào thực chất, không có vùng cấm, không có ngoại lệ đã và đang nhận được sự đồng tình, ủng hộ tích cực từ người dân và tạo cơ chế thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Điều đó được thể hiện ở chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam tăng 40 bậc, từ xếp thứ 123 vào năm 2012 lên thứ 83/180 quốc gia và vùng lãnh thổ vào năm 2023.
Trong khi đó, tỉ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều cả nước còn 2,93%. Tỉ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33% (giảm 5,62%); tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%).
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế với nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với những cam kết rất cao về tự do hóa thương mại và phát triển bền vững. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam ngày càng thích ứng với các điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; đồng thời, đưa nước ta trở thành nền kinh tế có độ mở cao - tới 200% GDP.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2005 mới đạt 20,7 tỉ USD/năm, thì riêng năm 2022 đã đạt 732,5 tỉ USD, năm 2023 đạt 681 tỉ USD. Cán cân thương mại hàng hóa đã chuyển từ nhập siêu sang suất siêu 8 năm liên tục kể từ năm 2016, riêng năm 2023, xuất siêu đạt 28 tỉ USD, thuộc nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại hàng đầu thế giới; bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát tốt; nợ công năm 2023 ở mức khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều giới hạn quy định. Về thu hút đầu tư nước ngoài, năm 2023 thu hút được trên 39,4 tỉ USD, vốn thực hiện đạt 23,2 tỉ USD, lọt vào nhóm 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI.
Với các thành tựu đạt được, Việt Nam đang khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực và thế giới. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam để phát triển kinh tế là rất to lớn.
Có thể thấy rằng, những quan điểm sai trái, xuyên tạc về kinh tế Việt Nam thực chất nhằm hướng đến mục đích duy nhất là làm chệch định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, từ đó làm chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch này, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN Việt Nam nói chung và với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước nói riêng.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Luật Điện lực (sửa đổi) cần sớm được thông qua để giải quyết các vấn đề thực tiễn cấp bách
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Thu Hường trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Thảo luận tại tổ chiều 26/10, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng Luật Điện lực (sửa đổi) cần sớm được thông qua để giải quyết các vấn đề cấp bách
Chiều 26/10, tiếp tục chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 8, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật Điện lực (sửa đổi) và một số nội dung quan trọng khác.
Sửa đổi Luật Điện lực - đòi hỏi cấp bách
![]() |
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại tổ vào chiều 26/10 (Ảnh: Văn Phúc) |
Báo cáo các đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận về dự thảo Luật Điện lực sửa đổi, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: Điện là bánh mì của nền kinh tế. Điện phải đi trước một bước để bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Luật Điện lực được xây dựng từ năm 2004 và đến bây giờ đã bốn lần sửa, lần gần nhất là tháng 9/2023. Nhưng cả bốn lần trước chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều và đã giải quyết được một số vấn đề vướng mắc phát sinh.
"Nhưng trước đòi hỏi cấp bách về tăng trưởng điện năng theo quy hoạch, đến năm 2030 (tức là còn hơn 5 năm nữa) chúng ta phải đầu tư gấp hai lần số tổng công suất toàn hệ thống hiện nay. Hiện nay, tổng công suất gần 80.000MW trong khi vào năm 2030 phải đạt tối thiểu là 150.524MW, tức là gần gấp hai lần tổng công suất hiện nay. Đến năm 2050, tức là còn 25 năm nữa, phải đạt gấp 5 lần hiện nay, tương đương với mức 530.000 MW trên phạm vi toàn quốc”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay.
Theo Bộ trưởng, việc đòi hỏi phát triển nguồn điện lớn như vậy nếu không có những cơ chế bảo đảm, thông thoáng như một số đại biểu nói thì rõ ràng không thể thực hiện được. Hơn thế nữa, việc đạt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 mà chúng ta đã cam kết với cộng đồng quốc tế thì quá trình chuyển dịch năng lượng ở nước ta cũng đòi hỏi một hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực này rất thông thoáng mới thực hiện được. Chúng ta phải phát triển năng lượng tái tạo, đồng thời phải chuyển đổi mạnh những nguồn điện có nguồn gốc hóa thạch từ than cho đến điện khí.
Điện khí trong giai đoạn đến năm 2030 vẫn có thể phát triển, nhưng sau năm 2030 không phát triển được nữa. Bởi vì điện khí phát thải tới 40% so với điện than. Hơn nữa, khí cũng là nguồn không phải vô tận, và giá của khí cũng theo thị trường. Cho nên cũng rất rủi ro, mà chúng ta không phải là quốc gia sở hữu nhiều sản lượng khí để cung cấp cho các nhà máy điện.
Lý do phải sửa đổi toàn diện
Bộ trưởng nhấn mạnh, Ban soạn thảo đã đề xuất với Chính phủ và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đồng thuận lấy cái tiêu đề của lần sửa đổi này là Luật Điện lực (sửa đổi) chứ không phải là sửa đổi, bổ sung một số điều vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi giám sát hoạt động điện lực và thực hiện Luật Điện lực, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 937 ngày 13/12/2023, yêu cầu cần có quy định cơ chế tổng thể để giải quyết bất cập, vướng mắc trong lĩnh vực hiện nay. "Tổng thể thì chỉ có thể sửa một cách toàn diện chứ không thể sửa một số điều. Bởi vì sửa điều này được thì lại vướng điều khác. Do đó, cơ quan chủ trì soạn thảo tuân thủ Nghị quyết và triển khai theo quy định"- Bộ trưởng thông tin.
"Tôi về Bộ Công Thương gần bốn năm rồi. Bắt đầu từ ngày tôi về cho đến bây giờ, cứ thanh tra, kiểm tra, thậm chí là điều tra trong lĩnh vực này. Trên thực tế, nhiều vấn đề xảy ra từ trước, tất cả những vấn đề mà cơ quan chức năng chỉ ra, chúng tôi cố gắng đưa vào trong Luật Điện lực (sửa đổi) để gỡ vướng mắc"- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chia sẻ và cho biết, chiếu theo quy định hiện hành của Luật Điện lực là vi phạm, trong khi ngành điện rất đặc thù, khác hẳn với các ngành khác.
Bộ trưởng lấy ví dụ, quy hoạch về công nghiệp chẳng hạn, nếu như anh quy hoạch ở điểm này không làm thì có thể làm điểm khác. Anh sản xuất ra không bán cho nước này thì bán cho nước khác. Nhưng điện thì không thể như vậy. Đơn cử, thủy điện phải làm ở chỗ có nước. Chỗ nào có đủ các điều kiện thì mới phát triển điện chứ không thể tùy tiện đưa ra chỗ khác được. Như vậy, anh đã quy hoạch rồi thì chỉ có thể làm và nếu anh không làm thì phải giao cho người khác.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng chỉ ra thực tế việc thu hồi đất là không dễ và lấy dẫn chứng một dự án điện bị thu hồi và phát sinh nhiều phức tạp.
Thứ hai, cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất phải sửa toàn diện là vì chúng ta hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, cho nên việc phát triển lưới điện ASEAN và rộng hơn là khu vực Châu Á Thái Bình Dương đang diễn ra một cách rất chóng vánh. Nếu không sửa luật thì không thể thu hút đầu tư.
Thứ ba, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách mới. Thế nhưng trên thực tế thì chúng ta luật hóa chưa kịp. Ngay Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các nghị quyết sau này của Trung ương, chúng ta có quán triệt, có thể chế nhưng chưa tới tầm và hình như vẫn còn mâu thuẫn, chồng chéo giữa những luật này với luật khác. Rõ ràng là điện có đặc thù như vậy mà không ưu tiên để thực hiện theo Luật Điện lực thì rõ ràng công trình điện sẽ vô cùng khó khăn.
Lý do nữa là nhu cầu và điện năng của chúng ta tăng phi mã, cho nên cần phải sửa đổi Luật Điện lực để tháo gỡ khó khăn, giải phóng nguồn lực.
Đồng thời, nhiều loại hình nguồn điện có tiềm năng lớn ở trong nước, ví dụ như năng lượng tái tạo (điện mặt trời và điện gió) ở rất nhiều địa phương trong cả nước có tiềm năng để phát triển. Nhưng nếu không có cơ chế đồng bộ, khả thi thì phát triển lên một chút sẽ tiếp tục bị vướng mắc. Do đó, phải thiết kế lại đồng bộ và ưu tiên những công trình về điện phải thực hiện theo Luật Điện lực.
Bộ trưởng chia sẻ, nếu Luật Điện lực ban hành rồi lại phải tuân thủ những quy định của luật khác thì thật sự rất khó, và sửa ngay luật khác cũng không dễ nên những gì liên quan đến điện thì phải thực hiện theo Luật Điện lực.
Dự án khẩn cấp, lĩnh vực đặc thù cần có cơ chế đặc biệt
"Trên thực tế rất cần có những cơ chế đặc biệt để quyết định các chủ trương đầu tư cho các công trình điện khẩn cấp. Ví dụ như vừa rồi mưa bão, gió... cháy trạm hoặc đổ cột, nếu như phải tổ chức đấu thầu thì làm gì có thời gian. Trong khi điện là phải có ngay sau khi nước rút."- Bộ trưởng dẫn chứng.
Những công trình cấp bách thì đã quy định trong Luật Đầu tư, nhưng các công trình khẩn cấp chưa có. Ví dụ 10 năm nay chúng ta không hề có một dự án điện nguồn lớn nào cả. Các nhà đầu tư nhận phần để đấy, có những dự án nhận phần đến cả 15-17 năm nay không triển khai nhưng thu thì cũng không được. Nhưng cũng có dự án thu được rồi. Ví dụ gần đây một dự án ở Quảng Bình được nhà đầu tư Thái Lan trả lại, và để giao lại cho một doanh nghiệp của Nhà nước cũng không dễ, chưa nói gì đến doanh nghiệp tư nhân.
Chính phủ cũng không có thẩm quyền quyết định những công trình khẩn cấp. Cho nên trong Luật Điện lực lần này, phải thiết kế quy định trao cho các cấp có thẩm quyền (ở đây là Chính phủ), cơ quan hành pháp được quyết định những dự án khẩn cấp kể cả trạm, đường dây và các dự án nguồn, như vậy mới đáp ứng được tiến độ theo Quy hoạch điện VIII.
Luật Điện lực lần này sửa đổi căn bản những bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tế, kể cả vấn đề chế tài đối với các nhà đầu tư chậm tiến độ.
Bộ trưởng nêu ví dụ, nếu Quốc hội thấy có những vấn đề chưa đủ chín thì có thể trao quyền cho Chính phủ được thí điểm rồi báo cáo Quốc hội, nếu quy định cứng trong luật thì chỉ cần điều chỉnh, thay đổi dù chỉ là vấn đề rất nhỏ cũng phải đưa ra Quốc hội, sẽ làm mất cơ hội. Do đó, phải giữ tên của Luật, giữ được nội dung, tinh thần cái gì đã rõ thì chúng ta phải làm và đưa vào luật.
Vì sao phải trình Quốc hội xem xét thông qua. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay, Quy hoạch Điện VIII xác định đến năm 2030, chúng ta phải đạt gấp hai lần công suất hiện nay. Chúng ta chỉ còn 5 năm, mà Luật Điện lực (sửa đổi) không được thông qua trong năm nay thì không có cách nào để thực hiện được. Một dự án điện than (theo quy hoạch cũ mới được tiếp tục triển khai) cũng phải mất 5 - 6 năm. Dự án điện khí mất từ 7- 8 năm, nếu mà dự án điện hạt nhân khởi động bây giờ thì cũng phải mất khoảng 10 năm.
Bộ trưởng cho hay, các nguồn hiện tại không còn kể cả thủy điện, điện than chỉ còn 5-6 dự án theo quy hoạch cũ. Do đó, nếu chậm một ngày ban hành Luật Điện lực (sửa đổi) sẽ phải chậm hằng năm cho việc triển khai. Và như vậy, rủi ro mất an toàn điện năng và an ninh năng lượng điện của đất nước. Mặt khác, chúng ta phải chuyển đổi rất mạnh cơ cấu về nguồn để đạt Net Zero.
Nếu không sửa Luật Điện lực thì năng lượng tái tạo không thể phát triển, nhà đầu tư không dễ vào
Bộ trưởng lấy ví dụ, muốn phát triển 34.000 MW điện khí, nhà đầu tư phải bỏ ra từ 1,5-1,6 tỷ USD/1000MW. Bỏ khoản tiền lớn ra đầu tư mà không biết nhà nước bao tiêu sản lượng điện tối thiểu bao nhiêu thì nhà đầu tư không thể có phương án tài chính, do đó sẽ không dám đầu tư, nhà tài trợ không dám cho vay vốn.
Sản xuất sản phẩm công nghiệp nếu không bán ở Việt Nam, doanh nghiệp có thể bán cho nơi khác, nhưng điện là đáp ứng nhu cầu tại chỗ. Hơn nữa, điện phải trước một bước và điều này nhìn thấy rõ. Nhà đầu tư vào họ sẽ hỏi có điện không, thậm chí điện có sạch không?
"Cho nên chúng tôi đề xuất sửa, thông qua trong một kỳ họp và giải quyết được vấn đề là có được những cơ chế đủ mạnh để có thể thực hiện, vừa tăng nhanh về công suất nhưng đồng thời lại chuyển đổi rất mạnh về cơ cấu"- Bộ trưởng nhấn mạnh.
Có đại biểu băn khoăn dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) lần này tăng tới 60 điều so với luật cũ. Lý giải về điều này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, về mặt thực chất chỉ là những quy định về những lĩnh vực mới mà trên thực tế chúng ta đã làm nhưng được điều chỉnh ở dưới dạng Nghị định và Quyết định. Chúng ta thấy rất nhiều nghị định không đầu và từ đó cũng có thông tư không đầu, tức là không có luật mà lại dẫn chiếu từ các luật khác có liên quan. Trên thực tế là như vậy, trong lĩnh vực năng lượng tái tạo vừa rồi ta làm đều là dạng như thế.
Lần này, chúng tôi cố gắng làm rõ hơn thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của các loại hình nguồn điện. Chúng ta nói nhiều về điện gió ngoài khơi nhưng đến giờ này không biết ai là cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư? không biết ai là người có thẩm quyền quyết định khảo sát đáy biển? khảo sát gió, cường độ, tần suất…. Bởi vì từ trước đến nay chúng ta chưa có nguồn điện này bây giờ mới có, cho nên chúng ta phải đưa vào luật, do đó làm tăng điều, tăng chương.
Về cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển năng lượng, tái tạo năng lượng mới, theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, đặc thù ở đây là đi ngược với Luật cạnh tranh, đi ngược với Luật Thương mại. Bằng chứng, nếu là thương mại thì “lời ăn lỗ chịu”, cạnh tranh cũng là như thế. Nhưng đối với lĩnh vực điện lực, nếu không đưa ra sản lượng tối thiểu cho một loại hình nguồn điện ( điện nền, điện khí, hay trong tương lai có thể là điện hạt nhân) thì không thể nào triển khai được.
Bộ trưởng lấy dẫn chứng, cho đến giờ, Quy hoạch điện VIII đã công bố đến hơn 1 năm, nhưng các nhà đầu tư rất uể oải. 11/13 dự án đã chọn được nhà đầu tư nhưng nhà đầu tư vẫn chờ, nghe ngóng chứ không dám làm, bởi vì họ có làm thì cũng không tìm được các nguồn tài trợ về vốn. Bởi đầu tư một nhà máy với nguồn vốn rất lớn thì phải có phương án thu hồi vốn.
Như vậy, dự thảo Luật Điện lực sửa đổi lần này chúng ta phải giải quyết được bài toán là có cơ chế đặc thù và giao cho Chính phủ quy định cơ chế đặc thù, ở đây là quy định sản lượng điện tối thiểu. Bao tiêu sản lượng điện tối thiểu cho những dự án điện nguồn, điện nền tập trung.
Tiếp theo, phải chấp thuận giá khí theo giá thị trường và như vậy giá điện cũng phải theo giá thị trường. Hiện khí LNG chúng ta phải mua của thế giới, nhưng đầu ra điện lại quy định giá để đảm bảo an sinh, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Cho nên, Luật lần này có quy định rất rõ, phát triển thị trường điện trên cả 3 cấp độ: Phát điện cạnh tranh, bán buôn cạnh tranh, bán lẻ điện cạnh tranh. “Một số nguồn điện nền rất cần có những cơ chế đặc thù thì phải quy định”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Giải bài toán khó giá điện
Theo Bộ trưởng, những cơ chế, chính sách chủ đạo để xây dựng, phát triển thị trường điện cạnh tranh ở 3 cấp độ (cơ chế thị trường) nhưng phải có sự quản lý của nhà nước. Chúng ta khác với các nước ở chỗ đó, nhất là vấn đề giá sản xuất, giá kinh doanh điện, phí truyền tải, điều độ…
Liên quan đến giá điện, Bộ trưởng cho hay, thực tế giá điện của chúng ta hiện nay chưa phản ánh đúng, phản ánh đủ giá thành điện năng, chúng ta mới cơ bản tính được giá sản xuất ở thị trường giao ngay so sánh với giá bán ra theo quy định của Nhà nước, một loại giá nhưng 6 bậc.
Bộ trưởng giải thích, thực tế giá, phí truyền tải điện rất lớn, đơn cử như hệ thống truyền tải từ Ninh Thuận ra phía Bắc, ngoài chi phí đầu tư hệ thống truyền tải, chi phí hao hụt đường dây, chi phí điều độ vận hành hệ thống điện cộng vào mới ra giá sản xuất, giá thành điện năng. Nhưng thực tế, từ trước đến nay hệ thống truyền tải do nhà nước đầu tư, EVN hưởng lợi từ đầu tư này, giá và phí truyền tải có được tính trong giá thành điện năng nhưng tỷ lệ rất thấp, vào khoảng 5-7% trong cơ cấu giá điện, trong khi thực tế giá và phí truyền tải, điều độ, vận hành hệ thống điện phải chiếm khoảng 30% mới đúng bản chất của giá thành.
Từ thực tế đó, trong dự thảo Luật Điện lực sửa đổi lần này, cơ quan soạn thảo phải từng bước bóc tách, ngay cả cơ chế giá thì phải là giá điện 2 thành phần ( giá điện năng và giá công suất). Như vậy, khách hàng A không sử dụng điện nhưng đã tham gia vào lưới điện là phải trả một loại phí, nó giống như thuê bao điện thoại ngày trước. Thuê bao là ai cũng phải trả để duy trì an toàn, còn khách hàng dùng hết bao nhiêu thì trả bấy nhiêu. Khung giá theo giờ thị trường thì phải như vậy, lúc nắng nhiều thì giá điện rẻ, nhưng đến khi hết nắng, hết gió hoặc những lúc phải dùng nguồn điện nền giá cao thì phải chấp nhận giá cao. Nhưng chúng ta cứ bình quân cho nên bài toán phải là khung giá theo giờ.
Bộ trưởng nhấn mạnh, phải từng bước bóc tách giá và phí truyền tải ra khỏi giá thành điện năng, chừng bào bóc tách ra được và cân đối tương đối phù hợp thì mới có nhà đầu tư trong lĩnh vực truyền tải.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay, cơ quan soạn thảo sửa điểm 2, Điều 4 của dự thảo Luật từ tháng 9/2023 nhưng đến giờ không có một nhà đầu tư nào hỏi đến chuyện đầu tư về hệ thống truyền tải. Bởi họ thấy mức phí truyền tải rất thấp, trong khi đó đầu tư thì rất cao và rủi ro vận hành hệ thống lại rất lớn, cho nên không ai làm.
“Do vậy phải bóc tách từng bước giá và phí truyền tải, phí điều độ hệ thống điện ra khởi giá thành điện năng, cân đổi để làm sao đủ điều kiện, đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực này”- Bộ trưởng nhấn mạnh và khẳng định: “Cơ chế để có thể quyết định chủ trương đầu tư đối với những công trình điện khẩn cấp như tôi đã báo cáo ở trên được phép chỉ định, được phép giao, nếu không thì rất chậm”.
Phân cấp phân quyền, quy định chi tiết quyền của Chính phủ để tháo gỡ nhiều vướng mắc
Liên quan đến cơ chế xử lý đối với dự án điện chậm tiến độ để bảo đảm an ninh năng lượng điện quốc gia, theo Bộ trưởng, hiện chúng ta chỉ có mỗi cơ chế theo Luật Đầu tư về xử phạt. Nhưng phạt cũng chẳng được bao nhiêu mà cốt lõi là không có điện và ảnh hưởng rất lớn đến an ninh năng lượng quốc gia.
Đặc biệt, trong dự thảo luật thì có nhiều điều thuộc thẩm quyền của Chính phủ như các đại biểu nêu, qua thảo luận đại biểu Quốc hội chuyên trách và qua góp ý ở các Đoàn đại biểu có đại biểu cho rằng, chưa đúng với nguyên tắc làm luật, tức là luật cũng không nên chi tiết quá. Bộ trưởng cho hay, quan điểm xuyên suốt từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến nay là không làm luật khung, luật ống.
Gần đây, lãnh đạo Đảng, Nhà nước thống nhất chủ trương phải thay đổi tư duy làm luật, theo đó đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giao cho các cơ quan chức năng. Quan điểm mới được triển khai trong khi dự thảo Luật được xây dựng từ được gần 2 năm, do đó có những nội dung được quy định chi tiết đến thẩm quyền của Chính phủ.
“Những năm qua luật được vận hành có nhiều nội dung chưa điều chỉnh, trong khi các luật có liên quan khác có quy định nhưng không rõ ràng, thậm chí còn mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Thực tế đang đòi hỏi chúng ta phải có những quy định rất là linh hoạt”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên thông tin.
Để giải quyết được thực tiễn và thực hiện được các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước, trên thực tế Chính phủ đã phải ban hành các văn bản dưới luật như Nghị định, Nghị quyết, Quyết định để điều chỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nay sửa Luật Điện lực sẽ được thực hiện một cách tổng thể và phải luật hóa những điều đã nêu trong các Nghị định, Nghị quyết, Quyết định của Quốc hội, của Chính phủ trước đây để cho minh bạch.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định sẽ tiếp thu ý kiến của các đại biểu, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ thiết kế lại theo hướng chỉ đưa vào luật những điều khoản quy định thẩm quyền của Quốc hội, còn những nội dung chi tiết sẽ giao cho Chính phủ quy định, kể cả việc thí điểm đối với những vấn đề mới, những cơ chế, chính sách mới và báo cáo lại Quốc hội. Đảm bảo đúng tinh thần cải cách, tinh thần mới trong làm luật. Sẽ có những văn bản dưới luật để cụ thể hóa điều này.
Đối với trình tự, thủ tục và thẩm quyền quyết định các dự án điện, Bộ trưởng cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ tiếp thu ý kiến các đại biểu về câu chữ hoặc không mâu thuẫn, chồng chéo với các luật khác. Sẽ nghiên cứu, thiết kế lại, bảo đảm đơn giản, thuận tiện nhưng không buông lỏng quản lý và các cơ quan được phân cấp, phân quyền nhiều hơn. Tinh thần Chính phủ và Bộ chỉ làm 3 việc: (i)Quy hoạch, kế hoạch, (ii) cơ chế chính sách và (iii) là thanh tra, kiểm tra. Còn cấp phép, cấp chủ trương đầu tư cơ bản là giao cho chính quyền cấp tỉnh, thành phố.
Bộ trưởng cũng đồng tình với ý kiến của đại biểu kiến nghị về sửa Luật Quy hoạch thì phải bổ sung quy hoạch điện cấp tỉnh, bởi nếu chỉ quy hoạch điện quốc gia sẽ dẫn đến mâu thuẫn và ách tắc. Bởi hiện nay chúng ta quy định là dưới 110kV là do địa phương quyết định.
"Giờ chúng ta chủ trương phát triển tối đa nguồn năng lượng tái tạo, như vậy trên địa bàn của một địa phương sau này dày đặc công trình điện, nếu chỉ có quy hoạch điện quốc gia mà không có quy hoạch điện địa phương sẽ rất khó thực hiện, do vậy cần phải có quy hoạch điện của địa phương và phải đồng bộ với quy hoạch điện quốc gia”- Bộ trưởng chia sẻ.
Bộ trưởng khẳng định, cơ quan soạn thảo sẽ thiết kế theo hướng triệt để phân cấp, phân quyền áp dụng công nghệ trong quản lý, xóa bỏ cơ chế xin cho, thực hiện đúng chức năng là quản lý nhà nước trên 3 nội dung chính: Quy hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách và thanh tra kiểm tra.
Đồng thời, tiếp thu tất cả ý kiến các đại biểu, và sẽ cố gắng soi chiếu để đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện hành. Tinh thần chung, Luật Điện lực phải được ưu tiên để áp dụng khi mà triển khai các dự án liên quan đến điện, nếu như các dự án liên quan đến điện lại phải thực hiện đồng thời với lại các quy định của các luật khác có liên quan trong khi đó luật điện lực đã có quy định cụ thể thì thật sự sẽ là rất khó khăn.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đại biểu Quốc hội: Xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) có ý nghĩa vô cùng quan trọng
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Quỳnh Nga trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Đại biểu cho rằng, việc trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) với 6 chính sách lớn phù hợp với thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
![]() |
Đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm - đoàn Sóc Trăng |
Tạo hành lang pháp lý mang tính ổn định, lâu dài
Góp ý về Luật Điện lực (sửa đổi) tại phiên họp tổ Quốc hội chiều 26/10, đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm - đoàn Sóc Trăng cho biết, trên cơ sở đánh giá, tổng kết các tồn tại, vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật Điện lực thời gian qua, đặc biệt là các vướng mắc liên quan đến tính chưa đồng bộ, thiếu cơ sở pháp lý, quy định pháp luật, cơ chế đặc thù trong thực hiện đầu tư các dự án điện..., việc trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) với 6 chính sách lớn và sửa đổi chủ yếu 62 điều, bỏ 4 điều, bổ sung 68 điều với một số điểm mới, phù hợp với thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Theo đại biểu, các tài liệu được công bố, lộ trình ngắn - trung hạn, cần phải tăng tổng nguồn cung điện 10-15%/năm mới đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của toàn nền kinh tế quốc gia, và trong dài hạn là phải theo lộ trình hướng tới mục tiêu Net-Zero (trung hoá Carbon) vào năm 2050 mà Thủ tướng Chính phủ đã cam kết tại COP26.
Qua quá trình nghiên cứu các văn bản được trình tại kỳ họp này, về chính sách phát triển năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới (tại khoản 8, điều 5) và phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới (mục 1,2 chương III), đại biểu rất đồng tình ủng hộ các chính sách cụ thể để phát triển năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay và xu hướng của thế giới.
Đại biểu đề xuất, dự thảo Luật cần thể hiện cơ chế cụ thể, đồng bộ và nhất quán với chính sách phát triển năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới (tại khoản 8, điều 5). Trước mắt, tiếp tục thực hiện tốt quan điểm của Chính phủ về thí điểm dự án như hiện nay, gia tăng nội lực, hướng đến làm chủ công nghệ, ít nhất ở khâu vận hành, bảo trì, bảo dưỡng và tiến tới nội địa hóa các thiết bị.
Đồng thời, xem xét thúc đẩy các cơ sở nghiên cứu, các tổ chức khoa học, đầu tư nguồn lực để chúng ta chủ động trên sân nhà trong việc khuyến khích phát triển điện gió ngoài khơi (các dịch vụ sau đầu tư của dự án điện gió hiện nay vẫn phụ thuộc gần như tuyệt đối vào các hãng tuabin).
Để hướng đến giảm phát thải, netzero cũng như thúc đẩy khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, chúng ta đã có nhiều cơ chế và đã đạt được nhiều thành quả (tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện tăng cao).
Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định và nâng cao hơn nữa các nguồn điện sạch thì cần những giải pháp kỹ thuật/phương án hạn chế/bổ sung cho sự thiếu ổn định của nguồn điện sạch này thông qua việc: Xem xét xây dựng các trung tâm/dự án lưu trữ năng lượng quốc gia ở những nơi có tiềm năng về năng lượng (Sử dụng pin lưu trữ điện). Sớm hoàn thiện khung pháp lý cho các dự án thủy điện tích năng đang đầu tư xây dựng, hay các dự án khác đã có trong kế hoạch điện VIII.
Đại biểu đề xuất Luật Điện lực cần nghiên cứu và tạo hành lang pháp lý mang tính ổn định, lâu dài; tạo điều kiện cho các chính sách cụ thể để thể chế hóa các chủ trương, mục tiêu tại Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị trong việc khuyến khích phát triển các ngành điện sau khi các quy định khuyến khích về cơ chế giá FIT hết hiệu lực để tránh lãng phí nguồn lực của xã hội. Đồng thời, đảm bảo sự phát triển ổn định của hệ thống điện trong xu thế tỷ trọng năng lượng tái tạo ngày một tăng cao.
Về hành lang an toàn công trình điện gió, bà Triệu Thị Ngọc Diễm nhận xét, nhiều công trình, dự án nhà máy điện gió ở nước ta được triển khai trên đất liền. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành thì đối với công trình năng lượng chỉ có 3 loại công trình có hành lang bảo vệ an toàn (để đáp ứng điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất hoặc hỗ trợ khi giảm khả năng sử dụng đất theo quy định pháp luật của Luật Đất đai) là công trình đường dây dẫn điện trên không, đường dây ngầm và trạm điện.
Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng chưa quy định cụ thể về “Hành lang an toàn công trình điện gió”, “Hành lang an toàn của cột tháp gió” do thiếu cụm từ “bảo vệ” nên nhiều địa phương gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong công tác đền bù, hỗ trợ cho người dân do hạn chế quyền sử dụng đất bị ảnh hưởng bởi hành lang công trình điện gió. Trong khi các cột tháp gió cũng là một bộ phận trong công trình điện gió.
Thực tế quá trình thi công và vận hành, cánh quạt gió lại nằm ngoài ranh giới giải phóng mặt bằng thu hồi đất của cột điện gió. Do đó, khi gặp sự cố sẽ ảnh hưởng tới sản xuất của người dân. Cụ thể gần đây có tình huống sét đánh vào cột gió rồi lan truyền dẫn đến thiệt hại tôm cá của người dân trong phạm vi dự án.
Theo đó, đại biểu đoàn Sóc Trăng đề xuất nghiên cứu, bổ sung nội dung quy định hành lang bảo vệ đối với công trình, dự án điện gió để làm cơ sở cho các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế, chính sách đền bù, hỗ trợ phù hợp. Đồng thời, xem xét bổ sung tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn để đảm bảo công trình điện gió không tác động xấu đến các tài sản/công trình xung quanh.
Phát triển bền vững nguồn điện tái tạo, năng lượng xanh
Đại biểu Lý Tiết Hạnh - đoàn Bình Định nhận thấy, việc nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Điện lực mới thay thế cho Luật Điện lực năm 2004 là rất cần thiết và Dự thảo luật đã được nghiên cứu khá công phu.
Tham gia một số ý kiến, đại biểu cho rằng, về tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, dự thảo Luật quy định một số nội dung mới như: Chính sách phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới, điện hạt nhân. Những quy định này cần được kiểm nghiệm thực tế, đánh giá, hoàn thiện để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong việc triển khai.
Do đó, đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đối chiếu các quy định của dự thảo Luật với các luật có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, nhất là các luật đang được xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.
Thứ hai, về tính khả thi của dự án Luật, qua rà soát chúng tôi thấy rằng, hiện nay, trong dự thảo Luật hiện nay có tới 35 nội dung giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết và 18 nội dung giao Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương hướng dẫn, do vậy, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát và nghiên cứu bổ sung quy định đảm bảo phù hợp, khả thi, đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, tại Điều 4 “Giải thích từ ngữ”, Luật Điện lực là bộ luật tính chuyên môn kỹ thuật rất cao, vì vậy theo đại biểu phần giải thích từ ngữ phải rất sát với cách tiếp cận từ luật này. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát các định nghĩa, khái niệm trong luật.
Đại biểu dẫn ví dụ, về ngữ nghĩa, giải thích lại từ “An toàn công trình thủy điện” và từ “An toàn điện” theo giải thích được hiểu là “các biện pháp tổ chức và phương tiện kỹ thuật”. Như vậy, nội dung giải thích 2 khái niệm này chưa tương thích với nhau. Một bên an toàn là chỉ về thực trạng, còn nội dung toàn bộ nội hàm giải thích lại có tính các hành động, quy định để đảm bảo sự an toàn đó.
Bên cạnh đó, trong dự thảo luật nhiều cụm từ "chi phí hợp lý, hợp lệ" và "lợi nhuận hợp lý", “bảo vệ công trình điện lực” và cụm từ “bảo đảm an toàn điện lực” xuất hiện nhiều lần, về nội hàm các thuật ngữ này tính chuyên môn rất cao, và chi phối đến các nội dung, điều luật cụ thể.
Chẳng hạn như cụm từ "chi phí hợp lý, hợp lệ" và "lợi nhuận hợp lý" xuất hiện nhiều lần trong việc xác định giá điều độ vận hành hệ thống điện, giá điều hành giao dịch thị trường điện lực, giá truyền tải điện, lập quy hoạch, đấu thầu; còn cụm từ “bảo vệ công trình điện lực” và cụm từ “bảo đảm an toàn điện lực” được sử dụng nhiều lần và toàn bộ các điều từ Điều 102 đến Điều 108 và từ Điều 110 đến Điều 115 Chương VII. Tuy nhiên, chưa được giải thích cụ thể.
Vì vậy, đại biểu đề xuất Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung giải thích thêm các từ ngữ nêu trên mà mang tính chuyên môn kỹ thuật cao và có ảnh hưởng tác động trực tiếp đối với các điều luật ở trong dự thảo.
Đại biểu cũng đồng tình cao về chính sách của Nhà nước về phát triển điện lực, đặc biệt là chính sách phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới tại khoản 9 điều 5.
Song để đảm bảo phát triển bền vững nguồn điện tái tạo, điện năng lượng, năng lượng xanh, đại biểu đoàn Bình Định kiến nghị trong luật cần tiếp tục rà soát, tham chiếu các quy định pháp luật liên quan để có quản lý, phát triển, sử dụng phù hợp. Đồng thời, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung 1 khoản hành vi bị cấm vào điều 8 dự thảo Luật đó là: “Thải ra môi trường các chất thải nguy hại tới môi trường từ các nhà máy điện, công trình điện…
Băn khoăn về sử dụng đất, sử dụng khu vực biển cho các dự án điện (điều 25), đại biểu nhận định, các dự án điện gió ngoài khơi hiện nay vẫn chưa có quy định cho thuê mặt nước biển để thực hiện. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét, báo cáo cơ quan có thẩm quyền đề xuất bổ sung quy định về cho thuê mặt nước biển để có căn cứ pháp lý thực hiện các dự án điện gió ngoài khơi.
Đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định về "trách nhiệm của nhà đầu tư" tại Điều 23 trong việc sử dụng đất và sử dụng khu vực biển nhằm bảo vệ quyền lợi của cộng đồng dân cư và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Cuối cùng, với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp ô tô điện, ngày càng nhiều người tiêu dùng lựa chọn xe điện như một giải pháp thay thế, vừa tiết kiệm vừa thân thiện với môi trường. Từ đó, đầu tư vào hệ thống trạm sạc để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật cũng chưa đề cập đến nội dung này.
Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung chính sách của Nhà nước về phát triển điện lực quy định về đầu tư xây dựng hệ thống các trạm sạc điện như: Quy hoạch; giấy phép hoạt động điện lực; an toàn điện; quản lý, vận hành… Đồng thời, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, xem xét đưa vào dự thảo nội dung quy định cấp Giấy phép hoạt động điện lực đối với việc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng trạm sạc tại Chương IV Giấy phép hoạt động điện lực.
Chủ động, linh hoạt hơn trong công tác cấp phép hoạt động điện lực
Đại biểu Hoàng Ngọc Định - đoàn Hà Giang góp ý, tại Khoản 2. Điều 14. Nội dung lập, phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch nêu “2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh, trong đó có kế hoạch thực hiện phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh”.
Ông Định đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh. Điều này để sớm thống nhất trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tại Khoản 2, Điều 18. Quy định chung về đầu tư xây dựng nêu: “2. Các trường hợp không phải đánh giá phù hợp với Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh: a) Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật này; b) Dự án lưới điện trung áp”. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ nội dung khoản 2 Điều 18, đại biểu cho rằng, theo quy định Khoản 2 Điều 10 Dự thảo quy định: Tổng khối lượng lưới điện trung áp là một nội dung quan trọng thuộc phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh trong quy hoạch tỉnh.
Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo đã quy định các trường hợp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Mặt khác, việc đầu tư công trình lưới điện trung áp theo quy hoạch giúp cơ quan nhà nước tại địa phương phát huy hiệu quả công tác quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư xây dựng công trình điện của các đơn vị đện lực và các chủ đầu tư, đảm bảo không vượt quá quy mô tổng khối lượng lưới điện trung áp trên địa bàn dẫn đến những biến động bất thường về nhu cầu nguồn cấp điện, phá vỡ kết cấu quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh.
Ngoài ra, theo quy định Khoản 1, Điều 4 Luật Xây dựng sửa đổi, bổ sung. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đầu tư xây dựng của Luật Xây dựng: “Bảo đảm đầu tư xây dựng công trình theo quy hoạch, thiết kế, bảo vệ cảnh quan, môi trường; phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm văn hóa của địa phương; bảo đảm ổn định cuộc sống của Nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 19. Quy định về chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện lực nêu: “a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp, hạ áp cần đầu tư trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Đại biểu đề xuất Ban soạn thảo xem xét bổ sung, sửa đổi như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp cần đầu tư hằng năm trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Lý do theo đại biểu để thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo là lưới điện hạ áp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Tại Khoản 2, Điều 18. Quy định chung về đầu tư xây dựng nêu: “2. Các trường hợp không phải đánh giá phù hợp với Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh: a) Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật này; b) Dự án lưới điện trung áp”. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ nội dung khoản 2 Điều 18, đại biểu cho rằng, theo quy định Khoản 2 Điều 10 Dự thảo quy định: Tổng khối lượng lưới điện trung áp là một nội dung quan trọng thuộc phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh trong quy hoạch tỉnh.
Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo đã quy định các trường hợp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Mặt khác, việc đầu tư công trình lưới điện trung áp theo quy hoạch giúp cơ quan nhà nước tại địa phương phát huy hiệu quả công tác quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư xây dựng công trình điện của các đơn vị đện lực và các chủ đầu tư, đảm bảo không vượt quá quy mô tổng khối lượng lưới điện trung áp trên địa bàn dẫn đến những biến động bất thường về nhu cầu nguồn cấp điện, phá vỡ kết cấu quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh.
Ngoài ra, theo quy định Khoản 1, Điều 4 Luật Xây dựng sửa đổi, bổ sung. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đầu tư xây dựng của Luật Xây dựng: “Bảo đảm đầu tư xây dựng công trình theo quy hoạch, thiết kế, bảo vệ cảnh quan, môi trường; phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm văn hóa của địa phương; bảo đảm ổn định cuộc sống của Nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 19. Quy định về chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện lực nêu: “a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp, hạ áp cần đầu tư trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Đại biểu đề xuất Ban soạn thảo xem xét bổ sung, sửa đổi như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp cần đầu tư hằng năm trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Lý do theo đại biểu để thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo là lưới điện hạ áp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Tại Khoản 2, Điều 58. Thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép hoạt động điện lực, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa lại như sau: “2. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp, thu hồi giấy phép hoạt động điện lực lĩnh vực phát điện, phân phối điện, bán buôn điện, bán lẻ điện trong phạm vi địa phương theo quy định của Chính phủ..."
"Lý do để phát huy vai trò cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương, chủ động, linh hoạt hơn trong công tác cấp phép hoạt động điện lực trên địa bàn, phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phân cấp phân quyền của Chính phủ" - đại biểu nói.
Mặt khác, khoản 5, Điều 92. Quản lý nhu cầu điện, đại biểu Đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung, sửa lại như sau: “Bộ Công Thương ban hành quy định về thực hiện chương trình quốc gia về quản lý nhu cầu điện, quy định về giờ cao điểm, giờ thấp điểm, giờ bình thường”.
Theo đại biểu, nhằm phát huy hiệu quả Chương trình Quản lý nhu cầu điện của quốc gia và các địa phương, cần thiết phải có quy định mang tính bắt buộc và chế tài xử phạt phù hợp theo từng giai đoạn, thời kỳ phát triển ngành năng lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nêu lý do cấp bách phải sửa đổi Luật Điện lực
Tiếp tục Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XV, chiều 26/10, Quốc hội thảo luận tại tổ về Dự thảo Luật Điện lực sửa đổi (Dự thảo).
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, sửa đổi Luật Điện lực là đòi hỏi thực tiễn cấp bách, nóng bỏng. Dự thảo tăng 60 điều so với luật hiện hành, thực chất là các quy định, chính sách cho phát triển các lĩnh vực năng lượng mới; hoặc các cơ chế đã được đề cập ở các nghị định, thông tư… và lần này thể chế hóa vào luật.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu về Dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) bổ sung tại Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XV. |
Chẳng hạn, chúng ta đề cập nhiều tới điện gió ngoài khơi, nhưng tới giờ không rõ ai, cơ quan nào có thẩm quyền quyết định khảo sát biển, đo gió… Vì thế, sửa luật lần này để làm rõ hơn thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các loại hình nguồn điện, trong đó có điện gió ngoài khơi, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên dẫn chứng.
Dự thảo lần này, theo Bộ trưởng, cũng bổ sung các cơ chế đặc thù phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới, nhằm tháo gỡ vướng mắc trong đầu tư các nguồn điện này hiện nay. Bởi như Quy hoạch điện VIII, kế hoạch thực hiện quy hoạch này đã ban hành một năm nay, tới giờ các nhà đầu tư vẫn “uể oải, nghe ngóng cơ chế, không dám làm”, vì chưa rõ cơ chế, khi bỏ ra số tiền lớn đầu tư thì sẽ thu hồi thế nào.

Việt Nam tiếp tục đóng góp tích cực vào công việc chung của "Nhóm G77 và Trung Quốc"
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết được lấy từ nguồn TTXVN sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Ngày 25/10, tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) ở New York, đã diễn ra Lễ kỷ niệm 60 năm thành lập “Nhóm G77 và Trung Quốc”.
![]() |
Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ. (Ảnh tư liệu: Thanh Tuấn/TTXVN) |
Tham dự sự kiện có Chủ tịch Đại hội đồng LHQPhilemon Yang cùng Đại sứ các nước thành viên G77 và Trung Quốc tại tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh.
Theo phóng viên TTXVN tại New York, phát biểu tại sự kiện, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại LHQ, khẳng định Nhóm G77 và Trung Quốc là một trong những tập hợp quan trọng nhất tại LHQ, không chỉ bởi số lượng thành viên đông nhất mà còn do tinh thần đoàn kết trong thúc đẩy các ưu tiên về kinh tế và phát triển cho các nước đang phát triển.
Tại Hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững 2023 và Hội nghị thượng đỉnh Tương lai 2024, Nhóm đã thúc đẩy lập trường chung, bảo vệ lợi ích và ưu tiên của các nước đang phát triển trong thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, cũng như huy động tài chính và phương thức thực hiện để đạt được các mục tiêu này.
Trong thời gian tới, Việt Nam đề xuất tiếp tục thúc đẩy các ưu tiên và nhu cầu của Nhóm G77 và Trung Quốc tại các tiến trình lớn của LHQ, tăng cường hợp tác Nam-Nam để hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển và tăng cường phương thức làm việc, trong khi vẫn giữ vững các giá trị truyền thống để cải thiện hiệu quả hoạt động của nhóm.
Việt Nam tự hào là một trong những thành viên sáng lập Nhóm G77 và Trung Quốc, khẳng định sẽ tiếp tục đóng góp tích cực, thực chất vào công việc chung của nhóm, trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Ưu tiên những công trình về điện phải thực hiện theo Luật Điện lực
Tiếp tục Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XV, chiều 26/10, Quốc hội thảo luận tại tổ về Dự thảo Luật Điện lực sửa đổi (Dự thảo).
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Dự thảo tăng 60 điều so với luật hiện hành, thực chất là các quy định, chính sách cho phát triển các lĩnh vực năng lượng mới; hoặc các cơ chế đã được đề cập ở các nghị định, thông tư… và lần này thể chế hóa vào luật.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XV thảo luận về Luật Điện lực sửa đổi (Dự thảo). |
Đáng chú ý, để đảm bảo tính đồng bộ với các Luật chuyên ngành khác liên quan thì các điều khoản quy định về công trình điện lực phải được ưu tiên theo Luật Điện lực sửa đổi.

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ khối Đại đoàn kết dân tộc sau Đại hội XIII
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Chính luận 35 ngày hôm nay, của PV Kim Thanh, Kiều Giang, Nguyễn Sơn, Bùi Liên được đăng tải trên báo điện tử Đảng cộng sản tại trang web dangcongsan.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài 2: Lợi dụng tôn giáo để "châm ngòi” kích động, chia rẽ Nhân dân
Ngạn ngữ phương Tây có câu: “Nửa cái bánh mỳ vẫn là một nửa cái bánh mỳ, nhưng nửa sự thật không còn là sự thật”. Thế nhưng các thế lực thù địch vẫn luôn “nhào nặn” những thông tin thật - giả lẫn lộn nhằm mục đích “châm ngòi” chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị, hòng làm suy yếu nước ta.
![]() |
Các đại biểu, đại diện các giai cấp, giai tầng xã hội, dân tộc, tôn giáo, lực lượng vũ trang, người Việt Nam ở nước ngoài về dự Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 - 2029 chụp ảnh lưu niệm trước giờ bắt đầu phiên Bế mạc, ngày 18/10/2024 |
Luận điệu bẻ cong sự thật
Việt Nam có 54 dân tộc anh em với những bản sắc văn hóa riêng, đa đạng, phong phú và thống nhất, hoà hợp trong tình đoàn kết, cùng nguồn cội con Lạc - cháu Hồng. Chính sự đoàn kết, yêu thương giữa các dân tộc như lời cha ông đã dạy: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng” đã trở thành nguồn sức mạnh để cả dân tộc Việt Nam đi qua các cuộc kháng chiến cũng như biết bao khó khăn trong xây dựng, phát triển đất nước.
Thế nhưng, theo PGS.TS Lê Văn Cường, Phó Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), các thế lực thù địch vẫn hàng ngày, hàng giờ lợi dụng dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta.
“Dân tộc, tôn giáo được coi là một “mũi nhọn” công phá vô cùng lợi hại mà các thế lực thù địch, phản động đã, đang và sẽ áp dụng để chống phá cách mạng Việt Nam” - PGS.TS Lê Văn Cường nhấn mạnh.
Thực tế, thời gian gần đây, đặc biệt là từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, các thế lực thù địch, phản động không ngừng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quan điểm sai trái, thù địch về tôn giáo nhằm chống phá chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; kích động hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết tôn giáo, dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước.
Các tổ chức nước ngoài như “Theo dõi nhân quyền thế giới”, “Ân xá quốc tế”, “Nhà báo không biên giới”, “Hội đồng Liên tôn quốc nội hải ngoại”, “Việt Tân”… và một số chức sắc, chức việc cực đoan ở trong nước đã triệt để sử dụng Internet, mạng xã hội, lợi dụng các vấn đề nhạy cảm liên quan đến tôn giáo tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Luận điệu được các tổ chức, cá nhân này đưa ra đó là, Việt Nam hạn chế tôn giáo, đàn áp, sách nhiễu tôn giáo, không bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; pháp luật về tôn giáo của Việt Nam “không tương thích với pháp luật quốc tế” và “không phù hợp với tự do tôn giáo”; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là “bước thụt lùi”, “đi ngược với tự do tôn giáo thế giới”; Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi tôn giáo như “kẻ thù” của dân tộc nên tìm mọi cách để diệt trừ… Từ đó, tạo định kiến, quy chụp và kêu gọi cộng đồng tôn giáo “đồng tâm, hiệp lực” chống phá Nhà nước.
Không những vậy, các đối tượng còn cố tình “ngụy tạo chứng cứ”, bóp méo sự thật về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, bịa đặt cho rằng, Đảng, Nhà nước ta đang ủng hộ cái gọi là “chùa quốc doanh”, “sư quốc doanh”, “chùa BOT”…; phân biệt, đối xử với “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Tin Lành đấng Christ”, “Bà Cô Dợ”,… Qua đó, vu cáo Đảng, Nhà nước ta đàn áp, ngược đãi các nhóm tôn giáo phi chính thức, kêu gọi quốc tế gây sức ép, sớm đưa Việt Nam quay trở lại danh sách “Các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” (CPC)...
Để tuyên truyền những quan điểm, luận điệu trên, các đối tượng triệt để sử dụng không gian mạng, lập ra các website, trang mạng xã hội để đăng tải, chia sẻ các bài viết, hình ảnh, video clip xuyên tạc chính sách tôn giáo, bôi nhọ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Thủ đoạn của các đối tượng là xây dựng những video clip với thời lượng khoảng 2 - 3 phút, đi vào các vấn đề thời sự, với những câu nói theo kiểu danh ngôn, hành động đẹp đẽ, hình ảnh bắt mắt. Khi thu hút được nhiều người quan tâm, chia sẻ, những website, trang mạng xã hội này chuyển sang đăng tải thông tin phiến diện, một chiều, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, kích động đòi tự do tôn giáo.
Bên cạnh đó, các đối tượng còn tìm cách đánh tráo khái niệm, gán ghép, quy chụp các sự kiện, vụ việc không liên quan đến tôn giáo thành mâu thuẫn, xung đột tôn giáo; cổ xúy, khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo và những cá nhân tôn giáo có tư tưởng cực đoan tuyên truyền, kích động, xúi giục người khác tập trung đông người, biểu tình, gây rối an ninh, trật tự… Từ đó, tạo ra những vụ việc phức tạp nhằm xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, xuyên tạc bản chất của chế độ ta.
Đặc biệt, một số đối tượng còn tìm cách “chính trị hóa” vấn đề tôn giáo, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, gắn vấn đề dân tộc với tôn giáo nhằm chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; thực hiện chia rẽ giữa người có đạo và người không theo đạo và giữa các tôn giáo với nhau. Lợi dụng các hiện tượng, sự kiện liên quan đến tôn giáo để kích động, gây mâu thuẫn giữa các tôn giáo, thúc đẩy tư tưởng hẹp hòi dân tộc tại các địa bàn trọng điểm về an ninh, quốc phòng và cổ xúy cho những tổ chức tôn giáo bất hợp pháp.
Tôn giáo và đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là chủ trương nhất quán
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng tiếp tục ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm khẳng định nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về công tác tôn giáo khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật”.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, ngay từ những ngày đầu được thành lập, Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm cao nhất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Tính đến nay, Việt Nam đã 4 lần sửa đổi Hiến pháp, song quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn luôn được thể hiện nhất quán và được khẳng định trong Hiến pháp như một giá trị của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người.
Tiếp nối các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, Hiến pháp năm 2013, Điều 24 tiếp tục khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Cụ chế hóa quy định của Hiến pháp 2013, Khoản 1, Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 nêu rõ: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Đồng thời, nghiêm cấm các hành vi: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo…
Như vậy, có thể khẳng định rằng, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào. Đồng thời, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được “phần hồn thong dong, phần xác ấm no”, có một cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”.
Những bằng chứng thép phản bác luận điệu xuyên tạc
Ngạn ngữ phương Tây có câu: "Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải là sự thật". Vậy mà, dưới chiêu bài liên quan đến nhân quyền, dân chủ, tín ngưỡng, tôn giáo, các thế lực thù địch đã trắng trợn “nhào nặn” những thông tin thật - giả lẫn lộn nhằm "châm ngòi” chia rẽ, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị xã hội, hòng làm suy yếu đất nước ta.
Và những kết quả thực tế chính là bằng chứng thép đập tan các luận điệu bẻ cong, xuyên tạc sự thật của các đối tượng phản động!
Hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước, những năm qua các tôn giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển nhanh về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự. Tôn giáo ở nước ta cũng không ngừng mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo, đồng đạo ở nước ngoài. Mọi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đều được chính quyền tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ngày càng được nâng cao.
Nếu như năm 2003, cả nước có 15 tổ chức thuộc 6 tôn giáo, 17 triệu tín đồ, với khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sức. 78.000 chức việc tôn giáo; thì đến tháng 6/2024, Nhà nước Việt Nam đã công nhận 38 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau, cả nước có hơn 27 triệu tín đồ, gần 30.000 cơ sở thờ tự, trên 56.000 chức sắc và hơn 144.000 chức việc. Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc gia có hệ thống tín ngưỡng vô cùng phong phú, với 50.703 cơ sở tín ngưỡng, trong đó khoảng 3.000 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO ghi danh là di sản thế giới.
Nhà nước Việt Nam cũng luôn tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo của tất cả các tôn giáo được diễn ra bình thường. Những ngày lễ trọng của các tôn giáo, như: Lễ Phật đản của Phật giáo; lễ Giáng sinh, Phục sinh của Công giáo và Tin Lành… thu hút đông đảo tín đồ tham dự và được tổ chức với quy mô lớn. Sau khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực đã có thêm 1.100 điểm nhóm được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp trên 690 quyết định xuất bản, trên 2,4 triệu bản in các tác phẩm và kinh sách tôn giáo, được dịch và xuất bản bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của mọi người.
Bên cạnh đó, hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo được Nhà nước quan tâm và hỗ trợ. Tháng 7/2023, Việt Nam - Tòa thánh Vatican đã nâng cấp quan hệ lên cấp có Đại diện thường trú tại Việt Nam, đồng thời thông qua việc ký quy chế Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng đại diện thường trú Tòa thánh Vatican tại Việt Nam. Việc tăng cường mối quan hệ này thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước dành cho cộng đồng Công giáo ở Việt Nam.
Tại buổi tiếp Tổng Giám mục, Bộ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Vatican Paul Richard Gallagher nhân chuyến thăm Việt Nam, ngày 10/4/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Việc hai bên nâng cấp quan hệ lên đại diện thường trú là dấu mốc quan trọng và là kết quả của một quá trình trao đổi tích cực trên tinh thần tôn trọng, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau, đồng thời thể hiện Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tôn giáo, trong đó có Công giáo”.
Ngoài ra, trong năm 2023, có hơn 300 đại diện cho các tổ chức tôn giáo đã tham gia vào các diễn đàn, hội thảo, các khóa đào tạo về tôn giáo tại nước ngoài. Gần 400 lượt người nước ngoài vào nước ta tham gia các hoạt động tôn giáo. Nhiều sự kiện tôn giáo lớn đã được tổ chức tại Việt Nam, như: Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á Châu, tổ chức tại Giáo phận Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; Hội nghị Ban Thư ký Diễn đàn Phật giáo châu Á vì hòa bình…
Có thể khẳng định rằng, chưa khi nào quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được tôn trọng và bảo đảm như hiện nay. Các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân ngày càng nhiều, mức độ đa dạng tôn giáo ở Việt Nam cũng luôn nằm trong nhóm đầu thế giới. Đây rõ ràng là những minh chứng rõ nét nhất phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch, luận điệu xuyên tạc về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Các quan điểm sai trái, thù địch về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thực chất là những luận điệu xuyên tạc nhằm cố tình làm sai lệch sự thật, đổi trắng thay đen, hòng tạo ra các lý do để can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam, lợi dụng vấn đề tôn giáo để gây sức ép hòng chuyển hóa chế độ chính trị Việt Nam.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Việt Nam - Liên Bang Nga mong muốn thúc đẩy triển khai thêm các dự án năng lượng
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, của PV Khánh An được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Việt Nam - Liên Bang Nga mong muốn thúc đẩy triển khai thêm các dự án năng lượng
Trong cuộc hội đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Nga Putin đã bày tỏ mong muốn thúc đẩy hợp tác thêm các dự án năng lượng phù hợp nhu cầu mỗi nước.
Trong khuôn khổ tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo Nhóm BRICS mở rộng 2024 tại Kazan, Liên Bang Nga, tối 24/10 (theo giờ địa phương), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có cuộc hội đàm với Tổng thống Liên Bang Nga Vladimir Putin.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cùng một số lãnh đạo các bộ, ngành đã tháp tùng Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự hội đàm.
![]() |
Tổng thống Vladimir Putin chào mừng và cảm ơn Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo Nhóm BRICS mở rộng 2024; cảm ơn Chính phủ Việt Nam và cá nhân Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo quyết liệt việc triển khai các thỏa thuận đạt được giữa hai nước... - Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Phát biểu tại cuộc hội đàm, Tổng thống Vladimir Putin chào mừng và cảm ơn Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo Nhóm BRICS mở rộng 2024.
Tổng thống Vladimir Putin bày tỏ hết sức xúc động về những kỷ niệm sâu sắc và cảm kích trước sự đón tiếp thân tình, chu đáo của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã dành cho Tổng thống trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam rất thành công vào tháng 6 vừa qua, thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc, thủy chung giữa hai nước. Tổng thống Liên bang Nga gửi lời thăm hỏi tới Tổng Bí thư Tô Lâm và các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và chuyển lời chúc mừng đồng chí Lương Cường nhân dịp đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Tổng thống Putin cảm ơn Chính phủ Việt Nam và cá nhân Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo quyết liệt việc triển khai các thỏa thuận đạt được giữa hai nước, cũng như tìm giải pháp tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong hợp tác song phương.
Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng được đến thành phố Kazan và gặp lại Tổng thống Vladimir Putin; khẳng định Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện với Liên Bang Nga. Việt Nam không bao quên sự ủng hộ, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Nga đối với Việt Nam; mong muốn làm sâu sắc và hiệu quả hơn nữa quan hệ hợp tác song phương trên tất cả các lĩnh vực, phù hợp với lợi ích của hai bên, đáp ứng mong muốn và nguyện vọng của nhân dân hai nước.
Thủ tướng Chính phủ chúc mừng những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội mà nước Nga đạt được trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Vladimir Putin, tiếp tục khẳng định tính cách, văn hóa của đất nước và con người Nga không khuất phục trước mọi thách thức, khó khăn.
Nhân dịp này, Thủ tướng chuyển lời thăm hỏi của Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch nước Lương Cường và Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn; chúc mừng Tổng thống Vladimir Putin chủ trì thành công Hội nghị Thượng đỉnh BRICS và BRICS mở rộng, cũng như toàn bộ các hoạt động của BRICS trong năm 2024 để "xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn".
Tại hội đàm, hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện thời gian qua không ngừng được củng cố và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu; các chuyến thăm, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc các cấp, nhất là cấp cao diễn ra hết sức sôi động; kim ngạch song phương tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo cho rằng kết quả này chưa đáp ứng mục tiêu đặt ra và đòi hỏi hai bên cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa để triển khai hiệu quả hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực mới như năng lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng...
Tổng thống Vladimir Putin đánh giá cao việc hai bên đã tổ chức thành công khóa họp lần thứ 25 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Liên Bang Nga về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật; đề nghị hai bên triển khai hiệu quả Biên bản khóa họp.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Việt Nam sẵn sàng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Nga quan tâm đầu tư vào thị trường Việt Nam, đồng thời đề nghị Tổng thống Vladimir Putin tiếp tục quan tâm, chỉ đạo Chính phủ Nga phối hợp với phía Việt Nam tiếp tục triển khai hợp tác trên mọi lĩnh vực, bảo đảm hài hòa lợi ích của hai bên.
Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác năng lượng - dầu khí, một trong những trụ cột của quan hệ Việt - Nga; ghi nhận những kết quả ấn tượng trong lĩnh vực hợp tác quan trọng này, nhất trí tiếp tục khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp dầu khí hai nước tại Việt Nam và Liên Bang Nga. Hai bên mong muốn thúc đẩy thêm các dự án hợp tác năng lượng đáp ứng nhu cầu phát triển tại mỗi nước, phù hợp với xu hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững hiện nay. Trước mắt, hai bên nhất trí tập trung và tăng cường hợp tác chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ chuyên gia cho Việt Nam.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Vladimir Putin cũng thảo luận các định hướng và biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hợp tác trong các lĩnh vực khác mà hai bên có nhiều tiềm năng và dư địa, như khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, du lịch, giao thông vận tải… Hai bên nhất trí phối hợp chuẩn bị tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2025.
Thủ tướng Chính phủ cảm ơn Tổng thống Vladimir Putin và lãnh đạo Liên Bang Nga đã quan tâm và đề nghị tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt tại Nga được sinh sống, làm ăn và học tập ổn định tại Nga, góp phần làm cầu nối hữu nghị và hợp tác giữa hai dân tộc. Nhân dịp này, Liên Bang Nga cho biết sẽ duy trì cung cấp 1.000 học bổng cho sinh viên Việt Nam đang học tập tại Nga.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Vladimir Putin hoan nghênh và ghi nhận việc các cơ quan, doanh nghiệp hai nước đã ký và trao các văn kiện hợp tác trong dịp Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đến Kazan.
Đây cũng là hoạt động cuối cùng của Thủ tướng Chính phủ và đoàn đại biểu Việt Nam trong chuyến công tác tại Liên Bang Nga lần này.
Sau cuộc hội đàm, vào lúc 1h ngày 25/10 (theo giờ địa phương), Thủ tướng và Đoàn đại biểu Việt Nam lên đường về nước, kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo Nhóm BRICS mở rộng theo lời mời của Tổng thống Liên Bang Nga Vladimir Putin, Chủ tịch Nhóm BRICS năm 2024.
Từ 23-24/10/2024, Hội nghị các Nhà lãnh đạo Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) mở rộng diễn ra tại thành phố Kazan, Nga. Đây là Hội nghị quan trọng trong khuôn khổ hợp tác giữa BRICS với các nước đang phát triển. Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo các thành viên BRICS và lãnh đạo hơn 30 nước khách mời, bao gồm các nước đang phát triển ở các châu lục và một số tổ chức quốc tế.
Theo lời mời của Tổng thống Nga Vladimir Putin, nước Chủ tịch BRICS năm 2024, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị với tư cách khách mời.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cùng Đoàn công tác Bộ Công Thương tháp tùng Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị BRICS mở rộng cùng các hoạt động liên quan. Đi cùng Bộ trưởng có đại diện lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ như: Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Vụ Dầu khí và Than, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, Văn phòng Bộ...
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thủ tướng đề xuất 5 kết nối, chia sẻ 3 quan điểm quan trọng tại Hội nghị BRICS mở rộng
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, của PV Khánh An được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Thủ tướng đề xuất 5 kết nối, chia sẻ 3 quan điểm quan trọng tại Hội nghị BRICS mở rộng
Tại Hội nghị BRICS mở rộng năm 2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề xuất 5 kết nối chiến lược để cùng kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn.
Sáng 24/10 (theo giờ địa phương), tại Kazan, Liên bang Nga, đã diễn ra phiên toàn thể Hội nghị các Nhà lãnh đạo BRICS mở rộng năm 2024 với chủ đề "BRICS và Nam bán cầu: Cùng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn" dưới sự chủ trì của Tổng thống Nga Vladimir Putin, Chủ tịch BRICS năm 2024.
Tham dự hội nghị có hơn 40 lãnh đạo cấp cao các nước thành viên BRICS, các nước khách mời là đại diện của các nước đang phát triển tại các khu vực trên thế giới và các tổ chức quốc tế.
![]() |
Chia sẻ bài học phát triển của Việt Nam về "kết nối, hội nhập, cùng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn", Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh 3 quan điểm lớn. Ảnh: Nhật Bắc |
Phát biểu khai mạc, trên cương vị nước Chủ tịch BRICS 20024, Tổng thống Nga Putin khẳng định, BRICS sẽ tiếp tục phát huy vai trò, thúc đẩy hợp tác toàn cầu, trao cho tất cả các quốc gia cơ hội bình đẳng, xây dựng hệ thống quản trị toàn cầu cân bằng và công bằng hơn, nâng cao vai trò của các quốc gia đang phát triển hơn nữa nhằm xây dựng một thế giới tốt hơn, trong đó các lợi ích chính đáng và quyền phát triển của tất cả các dân tộc được tôn trọng.
Tại hội nghị, lãnh đạo các nước tham dự đã tập trung thảo luận các định hướng lớn để giải quyết một số vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu, như xung đột, khủng bố, xóa đói nghèo, biến đổi khí hậu và an ninh lương thực…; nhấn mạnh BRICS phải là nơi để các quốc gia cùng phối hợp vì mục tiêu chung là phát triển thịnh vượng, góp phần tăng cường hợp tác ở Nam bán cầu, thúc đẩy nỗ lực chung của các nước đang phát triển trong ứng phó thách thức, cải thiện quản trị toàn cầu theo hướng công bằng và toàn diện hơn.
Nhiều nước cũng nhấn mạnh, trước hết cần bảo đảm môi trường hoà bình, ổn định cho hợp tác và phát triển; đẩy mạnh các động lực tăng trưởng mới, như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo…
Phát biểu tại hội nghị, nhận định sâu sắc về "kỷ nguyên mới – kỷ nguyên kết nối và hội nhập sâu rộng, kỷ nguyên công nghệ thông minh và đổi mới sáng tạo", Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh tầm nhìn, cách tiếp cận toàn cầu, toàn dân, toàn diện và đề cao chủ nghĩa đa phương, đoàn kết quốc tế, xây dựng một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, chia sẻ chung trách nhiệm để giải quyết thách thức chung chưa từng có.
Để cùng kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn, hợp tác vì hòa bình và thịnh vượng, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề xuất 5 kết nối chiến lược.
Một là, kết nối nguồn lực, theo đó BRICS cần đi đầu trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực để thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an ninh thông tin.
Hai là, kết nối hạ tầng chiến lược, cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm.
Ba là, kết nối các chuỗi cung ứng toàn cầu trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo để tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế, mở rộng không gian phát triển cho mọi quốc gia.
Bốn là, kết nối con người với con người thông qua hợp tác văn hóa, giáo dục, du lịch và giao lưu nhân dân giữa BRICS và các nước để xây dựng một không gian văn hóa "thống nhất trong đa dạng"; nơi mà các giá trị khác biệt được tôn trọng, điểm đồng được nhân lên, nơi vẻ đẹp của tình hữu nghị và hợp tác được nuôi trồng, vun đắp, như đại văn hào Nga Dostoevsky nhấn mạnh "Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới".
Năm là, kết nối trong cải cách các cơ chế quản trị toàn cầu theo hướng liên kết, chia sẻ, cân bằng, bình đẳng, hiệu quả, bao trùm, toàn diện để phát triển nhanh, bền vững. BRICS cần đấu tranh mạnh mẽ hơn trong chống lại xu hướng bảo hộ và chính trị hóa các quan hệ kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Chia sẻ bài học phát triển của Việt Nam về "kết nối, hội nhập, cùng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn", Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh 3 quan điểm lớn.
Một là, lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực và là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Hai là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên có tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Ba là, chính sách quốc phòng "4 không" (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế).
Trên tinh thần thúc đẩy hoà bình, đối thoại, hợp tác, trích dẫn câu văn của đại thi hào Nga Marxim Gorky rằng "Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia là một phần không thể thiếu trong cơ thể con người vĩ đại và chỉ cùng nhau chúng ta mới có thể đạt được tiến bộ thực sự", Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng BRICS sẽ đoàn kết hơn nữa, phát huy sức mạnh nội sinh để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Nhắc lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công", Thủ tướng Chính phủ khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác cùng BRICS và cộng đồng quốc tế để hiện thực hóa ý tưởng "cùng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn" cho tất cả mọi người dân.
Từ 23-24/10/2024, Hội nghị các Nhà lãnh đạo Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) mở rộng diễn ra tại thành phố Kazan, Nga. Đây là Hội nghị quan trọng trong khuôn khổ hợp tác giữa BRICS với các nước đang phát triển. Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo các thành viên BRICS và lãnh đạo hơn 30 nước khách mời, bao gồm các nước đang phát triển ở các châu lục và một số tổ chức quốc tế.
Theo lời mời của Tổng thống Nga Vladimir Putin, nước Chủ tịch BRICS năm 2024, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị với tư cách khách mời.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cùng Đoàn công tác Bộ Công Thương tháp tùng Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị BRICS mở rộng cùng các hoạt động liên quan. Đi cùng Bộ trưởng có đại diện lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ như: Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Vụ Dầu khí và Than, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, Văn phòng Bộ...
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dự thảo Nghị định kinh doanh xăng dầu đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, của PV Hoàng Hòa được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Dự thảo Nghị định kinh doanh xăng dầu là một trong số những nội dung các cơ quan truyền thông quan tâm tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Công Thương.
Trả lời câu của phóng viên liên quan đến nội dung về Dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu (Dự thảo Nghị định), ông Phan Văn Chinh - Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) thông tin: Về nội dung các thương nhân phân phối không mua hàng chéo của nhau, khi xây dựng Dự thảo Nghị định cơ quan soạn thảo đã cân nhắc rất kỹ.
![]() |
Dự thảo Nghị định kinh doanh xăng dầu là nội dung được cơ quan truyền thông quan tâm tại buổi họp báo. Ảnh: Cấn Dũng |
Về mặt thực tiễn, qua thanh tra, kiểm tra và điều tra các cơ quan chức năng kiến nghị với Bộ Công Thương và Chính phủ làm sao có quy định đảm bảo cho quản lý xăng dầu tiến dần tới thị trường nhưng phải cắt bỏ khâu trung gian để giảm chi phí. Bộ Công Thương đã xây dựng Dự thảo Nghị định với định hướng xuyên suốt này.
Trong quá trình xây dựng, Bộ Công Thương nhận được nhiều ý kiến của doanh nghiệp nói chung và thương nhân phân phối nói riêng. “Bản thân doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm, tuy nhiên đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện như xăng dầu, doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện”, ông Chinh nêu rõ.
Trong Nghị định số 80/2023/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, Chính phủ đã thông qua việc cắt bỏ bớt khâu trung gian như tổng đại lý. “Thực hiện quản lý theo chuỗi thẳng, chứ không quản lý theo chuỗi ngang”, ông Chinh cho biết.
Cùng đó, điều kiện trở thành nhà phân phối và doanh nghiệp bán lẻ hoàn toàn khác nhau. Ở phân khúc nào doanh nghiệp phải đáp ứng đúng điều kiện của phân khúc đó, không có sự phân biệt đối xử.
Một điểm mới của Dự thảo Nghị định là đa dạng hoá phân khúc bán lẻ. “Ngay cả việc treo biển, logo cũng do hai doanh nghiệp thoả thuận với nhau theo quy định của pháp luật, nhà nước không can thiệp”, ông Chinh thông tin.
Bổ sung thêm thông tin về Dự thảo Nghị định, tại buổi họp báo, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, khi xây dựng Dự thảo Nghị định Bộ Công Thương đã rất cầu thị và tổ chức nhiều hội nghị, toạ đàm để lấy ý kiến đóng góp. Bộ Công Thương sẽ xây dựng 2 phương án về thương nhân phân phối và xin ý kiến của thành viên Chính phủ. Và với 30 đầu mối hiện nay đã có thể tạo ra thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.
Ông Phan Văn Chinh cũng cho biết, với đối tượng thương nhân phân phối xăng dầu trong Dự thảo Nghị định đã rà soát và cắt bỏ rất nhiều điều kiện, như: Loại bỏ quy định thương nhân phân phối phải dự trữ xăng dầu 5 ngày, loại bỏ 1 số quy định về kho chứa…
Ngược lại, thương nhân đầu mối xăng dầu lại tăng thêm các điều kiện để gắn trách nhiệm của đầu mối và tạo nguồn cho hoạt động phân phối. Cùng với đó là việc áp dụng số hoá trong công tác kiểm soát cả chuỗi cung ứng xăng dầu dễ dàng và hiệu quả hơn.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ khối Đại đoàn kết dân tộc sau Đại hội XIII
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, của PV Kim Thanh, Kiều Giang, Nguyễn Sơn, Bùi Liên được đăng tải trên báo điện tử Đảng cộng sản tại trang web dangcongsan.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài 1: Xuyên tạc công tác cán bộ: Luận điệu cũ, chiêu trò mới (dangcongsan.vn)
Trong mọi giai đoạn lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…” nhằm đáp ứng những đòi hỏi thực tiễn phát triển đất nước trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nhất là kể từ sau Đại hội XIII, các thế lực thù địch luôn tìm cách gia tăng các hoạt động chống phá, hòng làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết của dân tộc. Trong từng thời điểm cụ thể, lợi dụng những khó khăn, vướng mắc cần phải giải quyết, những vấn đề phức tạp nảy sinh từ thực tiễn của đời sống xã hội, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước câu kết, móc nối, gia tăng các hoạt động chống phá bằng các phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt trên nhiều lĩnh vực. Mục đích của chúng là xuyên tạc, phủ nhận sự nghiệp đổi mới, thành tựu hội nhập, phát triển của đất nước ta; bóp méo sự thật nhằm gây nhiễu loạn thông tin, làm phức tạp về an ninh chính trị; gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Chùm bài “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại những âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc từ sau Đại hội XIII” góp thêm tiếng nói về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; góp phần lan toả tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc và khát vọng của người dân về một Việt Nam cường thịnh, vững vàng trước mọi bão giông.
Giả mạo thông tin, lèo lái thông tin, lặp đi lặp lại những thông tin bịa đặt về công tác cán bộ là chiêu bài hết sức thâm độc của các thế lực thù địch, phần tử phàn động, cơ hội chính trị tập trung từ sau Đại hội XIII nhằm kích động sự hoài nghi, hoàn mang trong xã hội.
Cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, đất nước và chế độ. Công tác cán bộ được xác định là “then chốt của then chốt”. Mọi sự thay đổi công tác nhân sự, nhất là nhân sự cấp cao đều rất được sự quan tâm của xã hội.
Chính vì vậy, các thế lực thù địch, phản động đã triệt để khai thác các diễn biến của tình hình chính trị nội bộ, nhất là kết quả công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, công tác tổ chức, nhân sự lãnh đạo Đảng, Nhà nước để tiến hành liên tiếp các chiến dịch tuyên truyền chống phá, công khai, trắng trợn; tạo thành các “điểm nóng truyền thông” trên mạng xã hội, thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội.
![]() |
Các thế lực thù địch tung nhiều tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc, bôi lem, hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước |
“Bổn cũ soạn lại” nhằm lung lạc niềm tin của nhân dân
Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực ngày càng bài bản, quyết liệt và đi vào thực chất. Nhiều cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất vì đồng tiền, lợi ích cá nhân đã phải trả giá đắt cho hành vi tham nhũng, tiêu cực của mình. Tuy nhiên, đây lại nhanh chóng trở thành cái cớ cho các thế lực thù địch ra rả các luận điệu xuyên tạc, chống phá để công kích công tác nhân sự, công tác tổ chức của Đảng.
Một mặt, các thế lực thù địch cố tình phủ nhận kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng do Đảng ta chỉ đạo. Một mặt, các đối tượng khoét sâu các vụ việc, vụ án trọng điểm, liên quan sai phạm, vi phạm của cán bộ, đảng viên để công kích công tác nhân sự, công tác tổ chức của Đảng. Đồng thời tung tin kích động gây mâu thuẫn nội bộ, quy kết trách nhiệm của Đảng, quy chụp tham nhũng là bản chất chế độ.
Những kẻ phản động, thù địch vu cáo công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý cán bộ đảng viên sai phạm chỉ là trò “đánh trống” “khua chiêng” nhằm “che mắt thế gian”, thực chất là “đấu đá giữa các phe nhóm trong đảng”; “trả thù cá nhân”.
Đặc biệt, lợi dụng sự thay đổi về nhân sự cấp cao của Đảng, Nhà nước, việc bổ nhiệm một số lãnh đạo cấp vụ, sở ở một số bộ, ngành địa phương, các tổ chức phản động đồng loạt đăng tải các bài viết xuyên tạc công tác nhân sự của Đảng là “không bảo đảm dân chủ”, “áp đặt”; “đặt lợi ích nhóm lên trên lợi ích quốc gia - dân tộc”; “không thể lựa chọn” được người đủ năng lực và đạo đức để lãnh đạo đất nước…
Không chỉ dừng lại ở đó, một số tổ chức, cá nhân phản động, cực đoan cũng ra sức tuyên truyền xuyên tạc công tác nhân sự của Đảng là mất dân chủ; ca ngợi nền dân chủ phương Tây; cổ xúy tư tưởng đa đảng, kích động người người dân biểu tình chống phá chế độ.
Khi có lãnh đạo Đảng, Nhà nước xin từ chức thì những kẻ này lại vu khống, xuyên tạc, quy chụp cho rằng đó là bị bắt ép. Trong khi trước đó, chỉ cần lãnh đạo các nước trên thế giới tuyên bố từ chức, dù với bất kỳ lí do gì thì họ ca ngợi, cho rằng đó là hành động văn minh, tiến bộ, dân chủ là “văn hóa từ chức” và ca thán cho rằng “không biết khi nào ở Việt Nam mới có lãnh đạo xin từ chức”.
Chiêu bài thâm hiểm khác mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng là tung tin bịa đặt, bôi nhọ cán bộ từ nguồn gốc xuất thân, gia đình, tới quá trình phấn đấu; quá trình điều hành, lãnh đạo… nhằm hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cán bộ cấp chiến lược và chính quyền các cấp.
Những chiêu trò mới, tinh vi hơn
Thủ đoạn nói xấu, bôi nhọ cán bộ, đảng viên đã được các thế lực thù địch thực hiện để chống phá cách mạng nước ta từ lâu. Tuy nhiên, thời gian qua, cách thức tiến hành được che đậy bởi chiếc “bình mới” tinh vi hơn. Nếu như trước đây, các đối tượng tập trung chống phá trọng tâm trên Facebook, Youtube, thì hiện nay các đối tượng đã đẩy mạnh sang TikTok, Telegram, X (trước đây là Twitter)…. gây khó khăn cho công tác đấu tranh, ngăn chặn của các cơ quan chức năng.
Các tuyến bài viết được tổ chức với tần suất dày đặc trên không gian mạng, mạng xã hội để hình thành tâm lý lo ngại “bất ổn chính trị” trong dư luận xã hội.
Không khó để nhận ra, các đối tượng trọng điểm khai thác triệt để diễn biến tình hình, nhất là các vấn đề, vụ việc, vụ án nóng, nhạy cảm… để từng bước khơi gợi, đưa đẩy thông tin nhạy cảm. Sự tinh vi của các thế lực thù địch, phản động được thể hiện ở chỗ thường “lập lờ đánh lận con đen”, “đánh tráo khái niệm”, kết hợp đưa những thông tin chính thức được cơ quan truyền thông công bố rồi lồng ghép với nội dung, hình ảnh xuyên tạc, sai trái theo các kịch bản thuyết âm mưu.
Cùng với đó, các đối tượng triệt để sử dụng ảnh hưởng của tài khoản cá nhân trên mạng xã hội để biên tập, tung tin với nhiều thủ đoạn mới tinh vi hơn như: Tìm cách che giấu nguồn (không đề cập nguồn cấp, lảng tránh khi được hỏi về nguồn tin, đưa các thông tin không liên quan để “pha loãng”, “đánh lừa” dư luận…), từng bước biến “tài khoản cá nhân” thành địa chỉ thu nhận và “loa phát tin” có yếu tố nội bộ.
Để kích thích sự tò mò, các đối tượng thường viết những dòng status ngắn gọn, lấp lửng hoặc chỉ một câu cảm thán tưởng như vô hại nhưng hàm chứa đầy ẩn ý.
Người viết có thể chỉ là một “chim mồi”, sau đó dưới bình luận có thêm nhiều đối tượng khác đóng vai “nhân chứng” chứng minh “độ tin cậy” của thông tin xuyên tạc vào bình luận. Những tin giả được tạo ra một cách có tổ chức, chủ đích cộng thêm sự hỗ trợ và tham gia của công nghệ tự động hiện đại sẽ tác động mạnh đến dòng chảy thông tin chính thống, gây hoang mang trong dư luận.
Nguy hiểm hơn, lợi dụng những tiện ích vượt trội của Internet, các thế lực thù địch còn tích cực phát trực tiếp video để tương tác, thu hút dư luận trên mạng xã hội… Để đạt mục đích, các thế lực chống phá không từ một thủ đoạn nào; trong đó, có sử dụng công nghệ “trí tuệ nhân tạo” để giả tạo hình ảnh, video, clip bôi nhọ cán bộ rồi tung lên các nền tảng mạng xã hội
Đặc biệt, các đối tượng phát tán thông tin, hình ảnh các văn bản mật liên quan trực tiếp tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước, một số bộ, ngành, địa phương, tạo “điểm nhấn” để các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc về tình hình nội bộ, tạo “điểm nóng truyền thông mạng xã hội”. Các nguồn tán phát thông tin, hình ảnh đầu tiên trên mạng chủ yếu là đối tượng trọng điểm ở nước ngoài, đã tạo ra dư luận nghi ngờ, đặt ra nhiều câu hỏi nghi vấn về “nguồn tin trong nội bộ” cung cấp ra bên ngoài cho các đối tượng hoạt động chống phá.
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương nhận định, việc nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của cán bộ, đảng viên đã và đang được các thế lực thù địch coi là trọng điểm chống phá, tiến hành liên tục, vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên được coi là một cái cớ để các thế lực “vơ đũa cả nắm”, “thổi phồng” đó là tình trạng “phổ biến”, “bản chất” của đại bộ phận cán bộ, đảng viên.
"Điều hết sức nguy hiểm là các thế lực thù địch phản động thường kết hợp, trộn lẫn thông tin thật - giả, thật - ảo. Những thông tin này thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều người, làm những người nhẹ dạ cả tin không phân biệt được đúng - sai, trắng - đen”, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ nói.
Theo TS. Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội dù phương thức, thủ đoạn mới có tinh vi đến đâu thì bản chất vẫn không thay đổi, vẫn là những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo sự thật. Từ những luận điệu xuyên tạc đó, họ bác bỏ hoàn toàn vai trò của công tác nhân sự trong việc xây dựng Đảng, Nhà nước, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh để lãnh đạo đất nước.
“Mưu đồ đằng sau những luận điệu xuyên tạc không gì khác là nhằm làm nhiễu loạn, bất ổn xã hội, thao túng tâm lý một bộ quần quần chúng nhân dân, chia rẽ nội bộ, chia rẽ Nhân dân với Đảng, Nhà nước” - TS Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nhấn mạnh.
Tỉnh táo để không bị mắc mưu thế lực thù địch
Công tác cán bộ được Đảng ta xác định là “then chốt của then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ. Vì vậy, Đảng luôn đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân; đồng thời, kiên quyết, kiên trì đấu tranh loại bỏ những cán bộ thoái hóa, biến chất khỏi Đảng và bộ máy lãnh đạo.
Quan điểm nhất quán của Trung ương trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực là phải làm một cách kiên trì, nhân văn, bài bản và thuyết phục. Quy trình xử lý cán bộ vi phạm được thực hiện chặt chẽ từ xử lý về mặt Đảng, đến xử lý hành chính và xử lý hình sự theo quy định pháp luật; từng bước đều được cân nhắc một cách dân chủ, công bằng, công khai theo nguyên tắc của Đảng và các quy định pháp luật.
Thực tế, trong công cuộc này, chúng ta đã đạt được những kết quả không thể phủ nhận. Nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương được chỉ đạo xử lý nghiêm minh theo đúng phương châm "xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực”, "không có vùng cấm, không có ngoại lệ". Kể cả các vụ việc tồn đọng, phức tạp như những vụ việc liên quan đến Công ty AIC và đặc biệt là mới phát sinh như những vụ việc trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, vụ việc liên quan đến Công ty Phúc Sơn, Công ty Thuận An, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát.
Không phải như một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm "nhụt chí", "chùn bước" những người dám nghĩ, dám làm, làm "chậm" sự phát triển đất nước. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng mang lại nhiều cái được. Chống tham nhũng hiệu quả sẽ tạo nên sự minh bạch trong các chính sách kinh tế, tài chính, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Cái được lớn nhất, công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, làm trong sạch Đảng và bộ máy Nhà nước, như phát biểu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022 ngày 30/6/2022, đó là “chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót "nhúng chàm" và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm”.
Lẽ đương nhiên, cán bộ có vi phạm thì có xử lý, kỷ luật. Việc cho thôi giữ các chức vụ, nghỉ công tác của các đồng chí lãnh đạo cho thấy công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước ta đang thực hiện đúng phương châm “có lên, có xuống, có vào, có ra”, bất kể người đó là ai và đang giữ chức vụ gì. Khi cán bộ có sai lầm, khuyết điểm, vi phạm và không còn đủ uy tín thì việc thôi giữ chức vụ cũng là điều hoàn toàn phù hợp. Đó hoàn toàn không phải là “đấu đá quyền lực”, “trả thù cá nhân ” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động.
Việc miễn nhiệm, từ chức cũng là việc diễn ra bình thường trong công tác cán bộ, không chỉ ở Việt Nam, mà ở nhiều nước trên thế giới, không phải đến bây giờ mới có. Vấn đề miễn nhiệm, từ chức đã được đặt ra trong các nghị quyết, quy định của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và được luật hóa trong hệ thống pháp luật nhà nước. Cụ thể, Quy định 41-QĐ/TW ngày 3/11/2021 của Bộ Chính trị về miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ đã quy định rất rõ các căn cứ xem xét miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ.
Hay tại Thông báo kết luận số 20-TB/TW, ngày 8/9/2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật nêu rõ: “… thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và Quy định của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, thực hiện phương châm “có vào, có ra, có lên, có xuống”…. Khuyến khích cán bộ bị kỷ luật cảnh cáo hoặc khiển trách mà năng lực hạn chế, uy tín giảm sút tự nguyện xin từ chức. Nếu không tự nguyện từ chức thì cấp có thẩm quyền xem xét miễn nhiệm theo quy định…”.
Cũng cần khẳng định, công tác nhân sự luôn được tiến hành một cách khoa học, kỹ lưỡng và theo quy trình nghiêm ngặt với những tiêu chuẩn cao về phẩm chất, đạo đức, năng lực và uy tín để có thể đáp ứng yêu cầu công việc, gánh vác trọng trách xây dựng, phát triển đất nước. Các quy trình được thực hiện qua rất nhiều khâu, rà soát lại nhiều lần; hoàn toàn không phải là một sự “sắp xếp hình thức”, “thanh trừng, đấu đá nội bộ” như sự suy đoán vô căn cứ, xuyên tạc của số đối tượng phản động, cơ hội chính trị…
Trước sự chống phá ngày càng ráo riết của các thế lực thù địch, đặc biệt là với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi hơn, đòi hỏi mỗi người dân cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo để không bị mắc bẫy khi chia sẻ, lan truyền những thông tin xấu, bịa đặt, xuyên tạc trên các trang mạng xã hội.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thủ tướng Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Thủ tướng Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát (congthuong.vn)
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 1243/QĐ-TTg ngày 22/10 thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban chỉ đạo.
Các Phó Trưởng ban gồm: Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung (Phó Trưởng ban kiêm Thường trực Ban Chỉ đạo).
Ban Chỉ đạo là tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành liên quan đến triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước.
Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ, quyền hạn: Tham mưu, đề xuất các phương án, giải pháp, cách làm cụ thể, hiệu quả để đến hết ngày 31/12/2025 hoàn thành mục tiêu xoá nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước, bao gồm cả 3 chương trình: Hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng; hỗ trợ nhà ở theo các Chương trình mục tiêu quốc gia; xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người dân. Đồng thời, chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương liên quan phối hợp chặt chẽ, tập trung giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
![]() |
Thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước. (Ảnh: baochinhphu.vn) |
Ban Chỉ đạo làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, đề cao trách nhiệm cá nhân, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo do Trưởng Ban Chỉ đạo ban hành.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo, xây dựng Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo trình Trưởng Ban Chỉ đạo ký ban hành; sử dụng bộ máy hiện có để tổ chức thực hiện nhiệm vụ được Ban Chỉ đạo giao, bảo đảm không tăng biên chế của Bộ được cơ quan có thẩm quyền giao.
Các cơ quan có thành viên tham gia Ban Chỉ đạo sử dụng bộ máy hiện có của mình để thực hiện nhiệm vụ giúp việc cho Ban Chỉ đạo, hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm.
Ban Chỉ đạo tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Trước đó, triển khai chủ trương của Đảng, ngày 13/4 vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động Phong trào thi đua "Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025", phấn đấu hoàn thành mục tiêu trước 5 năm so với Nghị quyết của Đảng đề ra.
Phong trào đã được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, cá nhân tích cực hưởng ứng và triển khai mạnh mẽ. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ, đến nay nhiều ngôi nhà mới đáp ứng tiêu chuẩn "3 cứng": Nền cứng, khung - tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 20 năm trở lên/đã hoàn thành.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thủ tướng nêu '3 thông điệp, 5 thúc đẩy' đưa Việt Nam trở thành điểm đến của ngành Halal toàn cầu
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Thủ tướng nêu "3 thông điệp, 5 thúc đẩy" đưa Việt Nam trở thành điểm đến của ngành Halal toàn cầu
Thủ tướng cho biết, Việt Nam định hướng phát triển ngành Halal là ngành thế mạnh, trở thành một điểm đến không thể thiếu trong bản đồ Halal toàn cầu.
Chiều ngày 22/10/2024, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đến dự Hội nghị “Phát huy nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế để đẩy mạnh phát triển ngành Halal Việt Nam”. Hội nghị được tổ chức nhằm tạo chuyển biến thực chất và triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”.
![]() |
Thủ tướng khẳng định Việt Nam định hướng phát triển ngành Halal Việt Nam trở thành một ngành thế mạnh. Ảnh: Nhật Bắc |
Đây là sự kiện đầu tiên có quy mô toàn quốc, lớn nhất về Halal với sự tham dự của nhiều lãnh đạo các Bộ, ban, ngành, tỉnh, thành phố cùng 600 đại biểu tham dự trực tiếp và trực tuyến, trong đó có hơn 50 đoàn khách quốc tế đại diện cho các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức quốc tế, trung tâm chứng nhận và các doanh nghiệp Halal uy tín trên thế giới, đại diện ngoại giao của các tổ chức quốc tế, các quốc gia và thị trường Halal tiêu biểu.
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá cao sáng kiến của Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị, qua đó góp phần định hướng cho chiến lược phát triển ngành Halal Việt Nam, mở ra các cơ hội kinh doanh - đầu tư mới.
Thủ tướng đánh giá cao ý nghĩa quan trọng của Hội nghị góp phần thúc đẩy kết nối kinh tế, văn hóa, con người giữa Việt Nam với các nước trên thế giới thông qua sản phẩm, dịch vụ Halal.
Nhấn mạnh tiềm năng của thị trường Halal toàn cầu, Thủ tướng khẳng định Việt Nam định hướng phát triển ngành Halal Việt Nam trở thành một ngành thế mạnh, đưa Việt Nam trở thành một điểm đến không thể thiếu trong bản đồ Halal toàn cầu, một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng các sản phẩm, dịch vụ Halal trên thế giới.
Thủ tướng đánh giá Việt Nam có ba cơ sở quan trọng để phát triển ngành Halal:
Thứ nhất, Việt Nam có tình hình chính trị, xã hội ổn định, tiềm lực và quy mô nền kinh tế, dân số ngày càng lớn mạnh, đứng thứ 34 về quy mô kinh tế, thuộc nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại hàng đầu và đang ở giai đoạn dân số vàng với 100 triệu người...
Thứ hai, Việt Nam có quan hệ đối ngoại và liên kết kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng, có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 32 nước, tham gia hơn 70 tổ chức khu vực, quốc tế quan trọng và có quan hệ hợp tác tốt đẹp với cộng đồng các quốc gia Hồi giáo trên thế giới.
Thứ ba, Việt Nam có các lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi để tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng sản phẩm, dịch vụ Halal nhờ kinh nghiệm và đóng góp về bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu, có nhiều sản phẩm nông nghiệp có thể đáp ứng các tiêu chuẩn về Halal, cũng như lợi thế trong phát triển du lịch, trong đó có du lịch Halal với đường bờ biển dài, hệ sinh thái đa dạng...
Thủ tướng cũng khẳng định ba thông điệp của Việt Nam trong phát triển ngành Halal:
Một là, Việt Nam mong muốn đưa Halal thành “nội hàm hợp tác kinh tế quan trọng, trụ cột mới, động lực mới” trong phát triển quan hệ với các nước.
Hai là, Việt Nam coi Halal là “cơ hội vàng” để doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất và tham gia hiệu quả vào thị trường Halal toàn cầu.
Ba là, Việt Nam chủ trương phát triển ngành Halal trên cơ sở tôn trọng các giá trị văn hóa, nhất là văn hóa con người, giá trị về chung sống hòa bình, thể hiện sự đóng góp, trách nhiệm của Việt Nam để cùng xây dựng thế giới hòa bình, đa dạng, hài hòa và cùng phát triển.
Để Việt Nam phát huy nội lực và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về Halal, Thủ tướng đề nghị cần thực hiện năm thúc đẩy gồm thúc đẩy hợp tác chia sẻ thông tin, kinh nghiệm; thúc đẩy đàm phán, ký kết các thỏa thuận, hiệp định, bản ghi nhớ hợp tác, các thỏa thuận công nhận và thừa nhận lẫn nhau về chứng nhận Halal; thúc đẩy các đối tác khu vực, quốc tế đến đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam; thúc đẩy quảng bá, xúc tiến sản phẩm, dịch vụ và thương hiệu Halal Việt Nam và mở cửa các thị trường; thúc đẩy giao lưu nhân dân, hợp tác trao đổi văn hóa, tăng cường hiểu biết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Phát biểu tại phiên toàn thể Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, Việt Nam có nền tảng vững chắc về khoa học và công nghệ để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm Halal chất lượng cao, cam kết tiếp tục phối hợp với các đối tác quốc tế để đẩy mạnh tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất và nâng cao năng lực chứng nhận Halal của Việt Nam nhằm nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế.
Tại Hội nghị, các đại biểu trong nước và quốc tế đánh giá cao các tiềm năng, thế mạnh và chiến lược của Việt Nam trong việc tích cực tham gia vào thị trường Halal toàn cầu. Chủ tịch Cơ quan Halal Ấn Độ Mohamed Jinna đánh giá Việt Nam đang đứng trước “tương lai tươi sáng” khi tiếp cận một thị trường Halal toàn cầu “đang rộng mở”, trong đó chứng nhận Halal sẽ là “cánh cửa” để Việt Nam tiếp cận một thị trường trải dài trên nhiều ngành công nghiệp khác nhau như thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thời trang, du lịch...
Tổng Thư ký Viện Tiêu chuẩn và Đo lường các quốc gia Hồi giáo (SMIIC) Ihsan Ovut đánh giá cao sự phát triển kinh tế năng động của Việt Nam, tiềm năng của Việt Nam trong phát triển ngành du lịch Halal, thực phẩm, mỹ phẩm và dược phẩm Halal. Chủ tịch Trung tâm Chứng nhận Halal Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) Moteb Al-Mezani cho rằng, chứng nhận sản phẩm nói chung, trong đó có chứng nhận Halal, là sự thể hiện cao nhất của niềm tin đối với chất lượng sản phẩm, chủ trương phát triển ngành Halal của Việt Nam phù hợp với lợi ích, định hướng phát triển quan hệ hợp tác của các nước vùng Vịnh.
Các đại biểu tin tưởng nỗ lực của Việt Nam trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế sẽ đạt kết quả tích cực trong thời gian tới, tiếu tục đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, sự phát triển chung của ngành Halal thế giới.
Cũng trong khuôn khổ Hội nghị, các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam đánh giá cao việc tổ chức Hội nghị Halal quy mô lớn, mang tầm quốc tế đã tạo cơ hội kết nối các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác tiềm năng trong thị trường Halal toàn cầu.
Phó Chủ tịch thường trực tỉnh Bến Tre Nguyễn Trúc Sơn nhấn mạnh, thông qua việc tăng cường hợp tác quốc tế về Halal, các doanh nghiệp của tỉnh đã được tiếp cận thông tin về thị trường, hiểu rõ hơn về cách thức phát triển sản phẩm Halal và kết nối với các đối tác Halal toàn cầu.
Các đại biểu tham gia Hội nghị đều có chung nhận định, để thâm nhập, tham gia hiệu quả vào thị trường Halal toàn cầu trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung vào một số nhóm biện pháp chính gồm hỗ trợ kết nối địa phương, doanh nghiệp với các đối tác, thị trường Halal toàn cầu trong các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, du lịch, dệt may, dược và mỹ phẩm; đẩy mạnh thu hút đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách quản lý nhà nước về Halal, tối ưu hóa quy trình chứng nhận, thúc đẩy thừa nhận, công nhận lẫn nhau về chứng nhận Halal; đẩy mạnh giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các quốc gia, cộng đồng Hồi giáo trên toàn thế giới.
Trong khuôn khổ Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu đã chứng kiến giới thiệu Trung tâm chứng nhận Halal quốc gia Việt Nam (HALCERT), Bộ Tiêu chuẩn Halal Việt Nam, lễ ra mắt “Góc Halal” trên Báo Thế giới và Việt Nam, và lễ trao 5 văn kiện hợp tác giữa Trung tâm chứng nhận GCC, Cơ quan Halal Hàn Quốc, Trung tâm chứng nhận Halal châu Âu, Học viện Halal thuộc Công ty TNHH GAE (Malaysia) và Hiệp hội Du lịch tỉnh Quảng Ninh với các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam về tiêu chuẩn và Halal.
Hội nghị đã truyền tải được thông điệp về một Việt Nam sẵn sàng “cùng hợp tác và cùng phát triển”, kết hợp hài hòa giữa “nội lực” từ các tiềm năng, thế mạnh trong nước với “ngoại lực” đến từ việc phát huy hiệu quả hợp tác quốc tế để phục vụ phát triển ngành, hệ sinh thái Halal Việt Nam toàn diện và bền vững, từng bước khẳng định vị thế vững chắc trên bản đồ Halal toàn cầu.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thắt chặt tình đoàn kết quốc phòng Việt Nam - Lào qua giao lưu hữu nghị biên giới
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Thắt chặt tình đoàn kết quốc phòng Việt Nam - Lào qua giao lưu hữu nghị biên giới
Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đã hội đàm với Đại tướng Chansamone Chanyalath, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào.
Trong khuôn khổ Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào lần thứ hai, chiều 22/10, tại huyện Mộc Châu (tỉnh Sơn La), Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đã hội đàm với Đại tướng Chansamone Chanyalath, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào.
![]() |
Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Chansamone Chanyalath tại buổi hội đàm. Ảnh: Quân đội nhân dân |
Tại hội đàm, Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, năm 2024 chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, hai Quân đội, tiêu biểu như: Cuộc gặp cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước; các hoạt động chào mừng kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Lào, 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, sắp tới là 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam...
Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định, qua 5 năm triển khai Nghị định thư về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2020-2024, hai bên đã đạt nhiều kết quả quan trọng, thực chất, nhiều lĩnh vực vượt chỉ tiêu đề ra.
Tin cậy chính trị, chiến lược cao hơn, quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa Quân đội hai nước ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Hai bên phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn, cơ chế đa phương và các sự kiện quốc tế do mỗi bên tổ chức, nhất là trong Năm Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam và Năm Chủ tịch ASEAN 2024 của Lào.
Các hình thức, cơ chế hợp tác ngày càng phong phú hơn, lan tỏa sâu rộng hơn. Nhiều sự kiện đối ngoại quốc phòng có tính lịch sử và lần đầu tiên được tổ chức như: Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào lần thứ nhất (năm 2021), Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ nhất (năm 2023)... Cơ chế Đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng đã phát huy vai trò quan trọng trong trao đổi, chia sẻ quan điểm về các vấn đề chiến lược, kịp thời định hướng các ưu tiên, trọng tâm hợp tác. An ninh, trật tự khu vực biên giới hai nước ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Hợp tác đào tạo nguồn nhân lực ngày càng được coi trọng. Hợp tác công nghiệp quốc phòng, kinh tế quốc phòng ngày càng có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả hơn...
Về phần mình, Đại tướng Chansamone Chanyalath đánh giá cao công tác chuẩn bị Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào lần thứ hai; nhấn mạnh giao lưu lần này tiếp tục khẳng định là mô hình hợp tác hiệu quả, đặc sắc giữa hai nước, đồng thời là hoạt động mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, Quân đội, các địa phương và nhất là nhân dân và lực lượng bảo vệ biên giới của hai nước Việt Nam - Lào trong việc tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, thúc đẩy hợp tác thực chất cùng nhau xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, vì sự phồn vinh của mỗi nước, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.
Tại hội đàm, hai Bộ trưởng thống nhất thời gian tới tập trung vào một số nội dung hợp tác trọng tâm. Trước hết, tăng cường hợp tác công tác Đảng, công tác chính trị, trong đó tập trung tuyên truyền, giáo dục hiệu quả về lịch sử, ý nghĩa, tầm quan trọng của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, nhất là các sự kiện lớn của hai đất nước, hai Quân đội.
Cùng với đó, duy trì hiệu quả các cơ chế hợp tác hiện có, như trao đổi đoàn cấp cao thường niên, Đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng, hợp tác thường xuyên giữa các cơ quan, đơn vị hai bên. Đồng thời, tăng cường hợp tác hiệu quả công tác quân sự, quốc phòng, nhất là ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; hợp tác quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới; hợp tác đào tạo nguồn nhân lực; nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ lẫn nhau, trong đó Chính phủ và Bộ Quốc phòng Lào tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi trong tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào trong các thời kỳ chiến tranh.
Kết thúc hội đàm, Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Chansamone Chanyalath đã ký Nghị định thư về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2025-2029 và Kế hoạch hợp tác năm 2025.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Ra mắt chuyên trang Thương hiệu quốc gia: Nâng tầm vị thế thương hiệu Việt
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
https://congthuong.vn/ra-mat-chuyen-trang-thuong-hieu-quoc-gia-nang-tam-vi-the-thuong-hieu-viet-354075.html
Sự ra mắt của chuyên trang Thương hiệu quốc gia của Báo Nhân Dân nhằm phát triển các thương hiệu Việt, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia có uy tín về hàng hóa và dịch vụ
Chiều 22/10/2024, tại Hà Nội, Báo Nhân Dân phối hợp với Bộ Công Thương khai trương chuyên trang Thương hiệu quốc gia (tại địachỉ http://thuonghieuquocgia.nhandan.vn). Lần đầu tiên, Việt Nam sẽ có một chuyên trang cung cấp hệ thống dữ liệu toàn diện, chính thống, được trình bày hiện đại, trực quan về các thương hiệu sản phẩm, doanh nghiệp hàng đầu quốc gia.
Đồng chí Lê Quốc Minh - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam - cho biết, hiện nay, nhiều thương hiệu Việt Nam đã mang tầm vóc thế giới như Viettel, Vinamilk... Tuy nhiên, xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu vẫn là điểm yếu của các doanh nghiệp trong nước. Chuyên trang Thương hiệu quốc gia trên Báo Nhân Dân - cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời là một trong 6 cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện của đất nước - với những thông tin toàn diện, minh bạch về từng doanh nghiệp, sản phẩm sẽ là kênh tra cứu rất uy tín trong và ngoài nước.
![]() |
Các đại biểu nhấn nút khai trương chuyên trang Thương hiệu quốc gia. Ảnh: Cấn Dũng |
Chuyên trang Thương hiệu quốc gia gồm 4 chuyên mục chính: Thương hiệu, Doanh nghiệp, Tin tức, Multimedia. Bạn đọc có thể tra cứu, tìm hiểu chi tiết các thương hiệu sản phẩm doanh nghiệp theo từng ngành nghề, lĩnh vực, năm đạt thương hiệu quốc gia...; các chùm ảnh, video đặc biệt về quy trình sản xuất, xây dựng các sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia. Chuyên trang cũng có những nội dung, chuyên đề nhằm bảo vệ các thương hiệu, xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia có uy tín về hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao.
Điểm nhấn của trang Thương hiệu quốc gia là mỗi doanh nghiệp có sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia sẽ có một trang riêng, được thiết kế hiện đại, có tính tương tác cao. Trang riêng của mỗi doanh nghiệp bao gồm: (1) Thông tin doanh nghiệp: giới thiệu logo, thông tin chi tiết về doanh nghiệp/sản phẩm (2) Tin tức: các tin, bài liên quan đến doanh nghiệp/sản phẩm trên Báo Nhân Dân và một số cơ quan báo chí chính thống liên quan đến doanh nghiệp/sản phẩm, (3) Thông cáo cáo chí: doanh nghiệp đăng tải các thông cáo báo chí về doanh nghiệp/sản phẩm, (4) Multimedia: đăng tải ảnh, infographic, video về doanh nghiệp, sản phẩm.
“Sau khi ra mắt chuyên trang tiếng Việt, thời gian tới, Báo Nhân Dân và Bộ Công Thương sẽ phối hợp xây dựng phiên bản tiếng Anh. Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác, đồng hành của quý cơ quan, doanh nghiệp để chuyên trang ngày càng hoàn thiện, góp phần quảng bá, phát triển các thương hiệu Việt, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, đồng chí Lê Quốc Minh cho biết.
Nâng tầm vị thế thương hiệu Việt
Phát biểu tại lễ khai trương, đồng chí Nguyễn Hồng Diên - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, Chủ tịch Hội đồng Thương hiệu quốc gia Việt Nam - cho biết, chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam là chương trình xúc tiến thương mại đặc thù, dài hạn và duy nhất, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện từ năm 2003, với mục tiêu xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia thông qua thương hiệu sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng tầm vị thế thương hiệu Việt và thúc đẩy phát triển ngoại thương.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, sau 21 năm triển khai thực hiện, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc tích cực, hiệu quả của các Ban, bộ, ngành, Đoàn thể Trung ương, các địa phương; sự nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp với khát vọng vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, thu hút được sự quan tâm đặc biệt và tạo được uy tín lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp, cũng như người tiêu dùng trong và ngoài nước, trở thành bệ phóng vững chắc cho các doanh nghiệp Việt vươn lên, kiến tạo những giá trị, sức mạnh mới cho đất nước.
"Với vai trò là cơ quan thường trực chương trình, những năm qua, Bộ Công Thương đã và đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, các cơ quan Trung ương, địa phương; các tổ chức chính trị xã hội, hiệp hội ngành hàng và các đối tác quốc tế triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung trọng tâm của chương trình; trong đó nội dung về tuyên truyền, quảng bá cho chương trình gắn với quảng bá sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam được đặc biệt chú trọng" - Bộ trưởng Bộ Công Thương nhấn mạnh.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thông tin, tuyên truyền đối với công tác quảng bá, phát triển và bảo vệ các thương hiệu Việt, nhất là trên các nền tảng truyền thông lớn, đa phương tiện, có uy tín và ảnh hưởng lớn đối với hệ thống báo chí trong nước và quốc tế thời gian qua, Bộ Công Thương đã tích cực phối hợp với Báo Nhân dân triển khai xây dựng chuyên trang Thương hiệu quốc gia Việt Nam trên Báo Nhân dân điện tử nhằm cung cấp một hệ thống thông tin, dữ liệu, bảo đảm toàn diện, chính thống về chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam và các doanh nghiệp, sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia.
"Sau 1 năm triển khai thực hiện, với sự nỗ lực của các bên, đến nay chuyên trang Thương hiệu quốc gia Việt Nam đã hoàn thành, chính thức đi vào hoạt động" - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chia sẻ.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu sự hình thành kênh cung cấp thông tin chính thống về các hoạt động nổi bật của chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam và các doanh nghiệp, sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia, cũng như giới thiệu, quảng bá về các thương hiệu, nhãn hiệu hàng đầu quốc gia, qua đó nâng cao nhận thức xã hội về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp; đồng thời, xây dựng, quảng bá hình ảnh Việt Nam là một đất nước có uy tín về hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và tăng thêm niềm tự hào, sức hấp dẫn của mảnh đất, con người Việt Nam.
"Trong thời gian tới, Bộ Công Thương mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn nữa của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, để chương trình Thương hiệu quốc gia đạt kết quả như mong đợi, góp phần xây dựng, củng cố, phát triển thương hiệu Việt ở cả trong nước và quốc tế" - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nói.
Bộ Công Thương cam kết sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Báo Nhân Dân và các cơ quan, đơn vị liên quan để thực hiện thật tốt việc vận hành và duy trì chuyên trang Thương hiệu quốc gia Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng trong nước và quốc tế.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.