Bài 1: Trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ 6:09

Bài 1: Trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ

“Trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề Bài viết 1 của tác giả Thế Duy, nhân chuỗi sự kiện 80 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam - Hành trình vươn mình cùng đất nước, trong chuyên mục Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn. Sau đây là nội dung bài viết, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Trong suốt 80 năm, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ghi dấu ấn đậm nét với những chiến công lẫy lừng và tinh thần chiến đấu quả cảm vì độc lập, tự do của dân tộc.
Trong hành trình lịch sử dài 80 năm, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã ghi dấu ấn đậm nét với những chiến công lẫy lừng và tinh thần chiến đấu quả cảm vì độc lập, tự do của dân tộc. Được thành lập vào ngày 22/12/1944, QĐNDVN không chỉ là lực lượng vũ trang chủ lực mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, sự kiên cường và trí tuệ Việt Nam. Từ một tổ chức với 34 chiến sĩ ban đầu, lực lượng đã phát triển thành một quân đội hùng mạnh và hiện đại, luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.

Quân đội trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và chống Mỹ (1954 - 1975)

Bắt đầu với chỉ 34 chiến sĩ cùng trang bị vũ khí đơn sơ, nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, QĐNDVN đã dần lớn mạnh và trở thành lực lượng quân sự quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là minh chứng rõ nét cho sự trưởng thành của QĐNDVN, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc và trở thành niềm tự hào không chỉ của người Việt Nam mà còn của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam thời kỳ đó. Trong quá trình chuẩn bị và triển khai chiến dịch, QĐNDVN đã thể hiện sự sáng tạo và linh hoạt trong chiến lược. Điều này đã khiến quân đội Pháp và cả thế giới phải ngỡ ngàng về một dân tộc nhỏ bé nhưng có tinh thần quật cường, ý chí sắt đá.
Sau khi chiến thắng Pháp, Việt Nam tiếp tục đối mặt với một kẻ thù mới - đế quốc Mỹ. Trong suốt hai mươi năm sau đó, QĐNDVN đã phải chiến đấu trong một cuộc chiến tranh quy mô lớn và phức tạp, không chỉ đòi hỏi sức mạnh quân sự mà còn cả khả năng tư duy chiến lược và sự linh hoạt trong mọi tình huống. Trong thời gian này, QĐNDVN đã triển khai hàng loạt chiến dịch lớn như Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971 và đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước.

Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, QĐNDVN tiếp tục đối mặt với hai cuộc chiến đấu quan trọng nhằm bảo vệ chủ quyền và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Trước hành động xâm lược của quân Pol Pot trên biên giới Tây Nam, đáp lời kêu gọi từ Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã phát động cuộc phản công quyết liệt. Đỉnh cao là chiến thắng ngày 7/1/1979, giải phóng Thủ đô Phnom Penh và toàn bộ đất nước Campuchia khỏi chế độ diệt chủng tàn bạo. Trong suốt 10 năm (1979 - 1989), quân tình nguyện Việt Nam sát cánh cùng Campuchia truy quét tàn quân, củng cố chính quyền cách mạng và hồi sinh quốc gia này.

undefined
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng). Ảnh: Tư liệu

Cũng trong năm 1979, quân và dân Việt Nam đã kiên cường bảo vệ biên giới phía Bắc trước sự tấn công xâm lược. Dù thời gian chiến sự trực tiếp ngắn (17/2 - 6/3/1979) nhưng căng thẳng biên giới kéo dài đến cuối thập niên 80. Qua những trận chiến cam go, lực lượng vũ trang đã giữ vững chủ quyền lãnh thổ.
Thắng lợi trên cả hai mặt trận không chỉ bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ mà còn tạo nền tảng hòa bình cho phát triển đất nước, khẳng định tình đoàn kết quốc tế cao cả của dân tộc Việt Nam.
Các chiến dịch trong giai đoạn này không chỉ là những cuộc giao tranh quyết liệt mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của QĐNDVN. Bên cạnh đó, quân đội còn nhận được sự ủng hộ lớn lao từ nhân dân trong cả nước, với tinh thần “hậu phương vững chắc”, đóng góp nhân lực, vật lực để cung cấp cho tiền tuyến. Chiến thắng 30/4/1975 là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh đoàn kết toàn dân và là biểu tượng của sự thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì chính nghĩa.
Giai đoạn đổi mới và hội nhập (từ năm 1986 đến nay)
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, vai trò của QĐNDVN không chỉ giới hạn trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, QĐNDVN đã không ngừng cải tiến và hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ quân sự và huấn luyện. Các nhiệm vụ quân sự thường xuyên, đặc biệt là công tác huấn luyện và nâng cao năng lực sẵn sàng chiến đấu, luôn được quân đội duy trì và phát triển.
QĐNDVN hiện nay đang tập trung vào quá trình hiện đại hóa để trở thành một lực lượng quân sự tinh nhuệ và chuyên nghiệp. Với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, QĐNDVN đang dần tiếp cận với những trang bị, vũ khí tiên tiến từ các nước có nền công nghiệp quốc phòng phát triển. Các hoạt động diễn tập, huấn luyện thường xuyên được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo, qua đó tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ lãnh thổ.
Việc xây dựng quân đội hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế còn nhằm mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước trước những thách thức an ninh khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, QĐNDVN cũng chú trọng phát triển các lực lượng phòng thủ an ninh mạng và khả năng phòng vệ trước các thách thức an ninh phi truyền thống, nhằm đảm bảo sự ổn định của đất nước.
Những thách thức và định hướng phát triển trong tương lai
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, QĐNDVN đối diện với những thách thức trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và đối phó với những nguy cơ an ninh phi truyền thống như tội phạm mạng, buôn lậu, và thảm họa môi trường. Để ứng phó với các thách thức này, QĐNDVN đã có những định hướng phát triển cụ thể, bao gồm việc đầu tư vào công nghệ quốc phòng hiện đại, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ và cải thiện khả năng tác chiến.
Việc hiện đại hóa quân đội không chỉ dừng lại ở mua sắm trang bị mới mà còn chú trọng vào việc xây dựng đội ngũ quân nhân có kiến thức, có phẩm chất đạo đức và khả năng ứng phó với các tình huống khó khăn.
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, QĐNDVN đã thể hiện vai trò to lớn và quan trọng không chỉ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc mà còn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ những chiến thắng vang dội trong cuộc chiến giành độc lập đến những đóng góp thiết thực trong thời bình, QĐNDVN luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Với những thách thức hiện tại và trong tương lai, quân đội sẽ không ngừng phấn đấu và phát triển, tiếp tục là trụ cột vững chắc của đất nước trong mọi thời kỳ.
(Tài liệu tham khảo - Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12/1944 - 22/12/2024) và 35 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024)


Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 5 - Xây dựng nguồn nhân lực tự chủ - cách nào? 9:05

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 5 - Xây dựng nguồn nhân lực tự chủ - cách nào?

“Bài 5 - Xây dựng nguồn nhân lực tự chủ - cách nào?” - Kính thưa quý vị, tiếp nối hai kỳ trước theo tuyến bài với chủ đề - Đánh thức giấc mơ "ngủ đông” điện hạt nhân, trên đây là nhan đề bài viết của PGS.TS Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực và tác giả Trần Lê An, được đăng tải trên Báo Công Thương điện tử trong mục Ngành Công Thương và kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Để đánh thức giấc mơ điện hạt nhân, việc đào tạo nguồn nhân lực vẫn là vấn đề hàng đầu. Các chuyên gia khuyến nghị gì?

Xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu thực tiễn

Ngày 5/12 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khảo sát địa điểm xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện để tái khởi động dự án điện hạt nhân. Trước đó một ngày, tại phiên họp chuyên đề pháp luật, Chính phủ cũng đã xem xét đề nghị xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Có thể nói, Việt Nam đã bước qua được những e dè trước đó và thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trong báo cáo trước Tổng Bí thư và trả lời các ý kiến của tỉnh Ninh Thuận về lộ trình tái khởi động dự án điện hạt nhân cũng đề cập rất rõ vấn đề đào tạo nguồn nhân lực.

Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), sự phát triển điện hạt nhân tại các quốc gia trên thế giới rất khác nhau. Trên cơ sở, bài học kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển như Mỹ, Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc..., Việt Nam cần tham khảo, học hỏi và thực hiện nghiên cứu chi tiết, vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tiễn của mình.

Trong đó, một bài học cần lưu ý là kết hợp vốn kiến thức và kinh nghiệm của các quốc gia có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển với việc đảm bảo nguồn nhân lực trong nước có khả năng thực hiện thành công chương trình điện hạt nhân. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên nên theo hình thức "chìa khóa trao tay" và dần dần tăng cường vai trò của công nghiệp nội địa dưới dạng làm nhà thầu phụ cho nhà thầu chính nước ngoài, tiếp cận quá trình chuyển giao công nghệ.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm quan sát vị trí quy hoạch Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Ảnh: Nguyễn Cường

Mặt khác, cần có chiến lược nhằm đảm bảo nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo hạt nhân quốc gia Chiến lược phát triển nguồn nhân lực bao gồm ngắn hạn và dài hạn. Theo đó, chiến lược ngắn hạn nhằm đảm bảo nhân lực ban đầu chất lượng cao cho dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Chiến lược dài hạn nhằm đảm bảo nhân lực cho cả chương trình hạt nhân quốc gia trong tương lai.

"Việc phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển các giai đoạn của dự án nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam và cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của chương trình điện hạt nhân của Việt Nam. Trước đây, ngày 18/8/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1558/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Trong trường hợp có định hướng phát triển điện hạt nhân, cần thiết rà soát lại chương trình phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử để đảm bảo đầy đủ nhân lực xây dựng, vận hành nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam" - Viện Năng lượng đánh giá.

Trong 7 giải pháp đề xuất, Viện Năng lượng đề cập vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở vị trí thứ 4: "Về giải pháp về phát triển nguồn nhân lực: Rà soát, xây dựng kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực điện hạt nhân. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào tạo về năng lượng hạt nhân đi đôi với đào tạo nâng cao".
Vườn ươm nhân lực điện hạt nhân thuần Việt

Với truyền thống lâu đời trong đào tạo nhân lực thuộc lĩnh vực năng lượng, Trường Đại học Điện lực là một trong 5 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực điện hạt nhân. Nhà trường đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú, có thể áp dụng linh hoạt vào việc đào tạo ngành điện hạt nhân. Nhà trường đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân và an toàn bức xạ. Đồng thời, sở hữu chương trình đào tạo ngành công nghệ kỹ thuật hạt nhân theo quyết định số 221/QĐ- ĐHĐL ngày 9/2/2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực, với chuyên ngành điện hạt nhân đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng.

Trong các kỳ tuyển sinh năm 2014, ngành điện hạt nhân tại Trường Đại học Điện lực có mức điểm trúng tuyển là 19, nằm trong Top 3 ngành có mức điểm chuẩn cao nhất của trường. Thí sinh dự thi vào ngành này được đánh giá là có chất lượng tốt, đồng đều. Ngành điện hạt nhân "hút" sinh viên là do khi theo học ngành này, sinh viên sẽ được nhận nhiều ưu đãi, học bổng giá trị. Đồng thời, các em có nhiều cơ hội để du học, hay tham gia các chương trình giao lưu đào tạo tại Nga, Nhật Bản…

Theo thống kê, từ năm 2011 đến năm 2021, Trường Đại học Điện lực đã đào tạo các thế hệ kỹ sư điện hạt nhân, đóng góp tích cực vào sự chuẩn bị cho dự án. Nhà trường đã tuyển sinh và đào tạo chuyên ngành điện hạt nhân từ khóa D5 (lớp D5DHN) đến D11 (lớp D11DHN) với khoảng gần 200 sinh viên. Tuy nhiên, do dự án điện hạt nhân Ninh Thuận tạm dừng vào năm 2016 nên hoạt động đào tạo cũng tạm dừng.

Đại diện Khoa Năng lượng mới (Trường Đại học Điện lực) cho biết, nhà trường đã và đang chủ động thiết lập các mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với những đơn vị đầu ngành về năng lượng nguyên tử như: Viện Khoa học và Công nghệ hạt nhân, Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, Trung tâm Đào tạo hạt nhân và Bệnh viện 108. Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường thường xuyên mời các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này đến giảng dạy và chia sẻ kinh nghiệm.

Nền tảng hợp tác với nhiều cường quốc năng lượng hạt nhân

Với bề dày lịch sử đào tạo nhân lực cho các nhà máy điện trên cả nước, nhà trường đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú, có thể áp dụng linh hoạt vào việc đào tạo ngành điện hạt nhân. Nhà trường đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại, đồng thời sở hữu chương trình đào tạo chuyên sâu và đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực vật lý hạt nhân và năng lượng nguyên tử.
Bên cạnh đó, nhiều hệ thống trong nhà máy điện hạt nhân có cấu trúc tương tự các nhà máy nhiệt điện, giúp nhà trường tận dụng đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm từ các ngành nhiệt điện, hệ thống điện, điều khiển tự động để giảng dạy các môn học liên quan. Nhà trường hiện có hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ cho các ngành điện, nhiệt điện, thủy điện... có thể được tận dụng để đào tạo thực hành cho sinh viên ngành điện hạt nhân.

Một điểm lợi thế nữa, Trường Đại học Điện lực đã và đang duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các đối tác quốc tế uy tín như Viện Nghiên cứu hạt nhân - Đại học Fukui (Nhật Bản), Đại học Công nghệ Nagaoka (Nhật Bản), Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi, Hitachi (Nhật Bản), Trường Đại học Năng lượng Moscow (Nga), Trường Đại học Saclay - Paris (Pháp)... Qua đó, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.

Tuy nhiên, hiện tại, nhà trường cũng gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất. Để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị liên quan đến ngành kỹ thuật hạt nhân, cần nguồn vốn lớn hơn nhiều so với các ngành nghề khác. Ngoài ra, hiện nay, giáo trình và bài giảng còn nặng về lý thuyết, chủ yếu dạy nguyên lý, kỹ năng thực hành, năng lực ứng dụng còn rất hạn chế, đặc biệt là chưa được tiếp cận với công nghệ mới đang diễn ra ở các nước tiên tiến trên thế giới, đòi hỏi phải cập nhật chương trình đào tạo.

Trên cơ sở những lợi thế sẵn có, khắc phục khó khăn, Trường Đại học Điện lực cũng cam kết tiếp tục đào tạo ngành điện hạt nhân. Trong đó, chú trọng Chương trình luôn được cập nhật theo các nội dung đào tạo thịnh hành trên thế giới và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Đồng thời, chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy nhằm đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về số lượng và chất lượng nhân lực chất lượng cao cho dự án điện hạt nhân sắp tới.

Tiềm năng từ đội ngũ nhân lực điện hạt nhân Việt Nam

Để đảm bảo sự ổn định từ giai đoạn tái khởi động cho đến khi nhà máy điện hạt nhân đi vào vận hành, nguồn nhân lực phục vụ nhà máy là yếu tố mang tính chiến lược, đặc biệt quan trọng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố then chốt, quyết định thành công của chương trình điện hạt nhân quốc gia. Đặc biệt, trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, yêu cầu về kỹ thuật và an toàn rất khắt khe, đòi hỏi một chiến lược dài hạn và toàn diện để xây dựng đội ngũ nhân lực có đủ năng lực đáp ứng mọi yêu cầu trong các giai đoạn phát triển nhà máy điện hạt nhân.

Thực tế, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1558/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án "Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử". Đây là bước đầu quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho chương trình điện hạt nhân. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho việc tái khởi động các dự án điện hạt nhân, Việt Nam cần rà soát và điều chỉnh Chương trình đào tạo nhân lực để đáp ứng nhu cầu thực tế dựa trên các hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) và kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển.

Chương trình đào tạo cần tập trung cho các chủ thể chính trong Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, bao gồm: Chủ đầu tư/tổ chức vận hành nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và Cơ quan pháp quy hạt nhân để quản lý toàn bộ các hoạt động của dự án gồm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm và pháp quy, tổ chức phê duyệt địa điểm, thiết kế, cấp phép xây dựng, cấp phép vận hành và tổ chức hoạt động thanh tra trong các quá trình triển khai dự án. Đồng thời, xây dựng năng lực đào tạo cho các cơ sở trong nước để phục vụ việc triển khai các dự án tiếp theo trong chương trình điện hạt nhân dài hạn của quốc gia.

Về vấn đề nguồn nhân lực, PGS.TS Vương Hữu Tấn - nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, người có nhiều ý kiến mang tính xây dựng, tích cực về lĩnh vực điện hạt nhân Việt Nam - cho biết: "Không có một quốc gia nào phải đào tạo đủ đội ngũ cán bộ mới bắt đầu triển khai dự án điện hạt nhân".

Vì vậy, để xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng, Việt Nam không thể chỉ dựa vào nguồn lực trong nước mà cần mở rộng hợp tác quốc tế. Các chương trình hợp tác với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và các quốc gia có nền điện hạt nhân phát triển là cần thiết. Việc cử cán bộ, kỹ sư sang học tập và thực hành tại các trung tâm đào tạo và nhà máy điện hạt nhân của các nước có nền công nghiệp hạt nhân tiên tiến sẽ giúp chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn.

PGS.TS Vương Hữu Tấn thông tin, Việt Nam đã đào tạo hơn 300 người phục vụ cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận thông qua các chương trình hợp tác với Nga và Nhật Bản trong khuôn khổ Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Ông cũng khẳng định rằng, nước ta cũng đã đào tạo khá nhiều cán bộ cho Cơ quan pháp quy hạt nhân và các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật thông qua hợp tác với IAEA, Liên minh châu Âu và các nước công nghiệp điện hạt nhân.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt!

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 4 - Viện Năng lượng khuyến nghị gì? 14:02

Đánh thức giấc mơ 'ngủ đông' điện hạt nhân: Bài 4 - Viện Năng lượng khuyến nghị gì?

“Viện Năng lượng khuyến nghị gì?” - Kính thưa quý vị, tiếp nối hai kỳ trước theo tuyến bài với chủ đề - Đánh thức giấc mơ "ngủ đông” điện hạt nhân, trên đây là nhan đề bài viết 4 của tác giả Trần Đình - Thế Duy được đăng tải trên báo Công Thương điện tử trong mục Ngành Công Thương và kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Những 'bước đi' năng động, sáng tạo, có lộ trình sẽ góp phần thành công khi tái khởi động chương trình điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng.
Sau gần một thập kỷ tạm hoãn, chương trình phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam đang đứng trước cơ hội được tái khởi động trong bối cảnh năng lượng sạch trở thành ưu tiên toàn cầu.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa tham vọng này, cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng và đồng bộ từ nhiều phía. Từ xây dựng sự đồng thuận xã hội, phát triển nguồn nhân lực, củng cố cơ sở hạ tầng đến hoàn thiện khung pháp lý. Những hành động ngay từ bây giờ sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào kỷ nguyên điện hạt nhân với niềm tin và sự ủng hộ rộng rãi từ toàn xã hội.

Tiếp nhận kinh nghiệm quốc tế

Trong những năm gần đây, xu thế phát triển điện hạt nhân vẫn được duy trì ở các thị trường hàng đầu, đặc biệt trong bối cảnh chống biến đổi khí hậu, gia tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, thay thế các nguồn điện có phát thải lớn. Nhóm các quốc gia tiếp tục coi trọng điện hạt nhân trong chính sách năng lượng của mình bao gồm Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Một số quốc gia có sự thay đổi chính sách đối với điện hạt nhân như Đức, Thụy Điển. Bên cạnh đó, một số quốc gia mới nổi, lần đầu tiên xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân như UAE, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh. Một số quốc gia quan tâm đến điện hạt nhân ở khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan.
Điển hình, trong nhóm các quốc gia tiếp tục coi trọng điện hạt nhân, Mỹ là nước có số tổ máy điện hạt nhân nhiều nhất thế giới, 94 tổ máy đang vận hành với tổng công suất khoảng 96,9 GWe, đóng góp khoảng 20% tổng sản lượng điện hàng năm. Tuy là quốc gia dẫn đầu về điện hạt nhân, nhưng việc phát triển xây dựng điện hạt nhân đã chững lại sau tai nạn hạt nhân đảo Three Mile (1979, Pennsylvania). Gần đây, Mỹ bắt đầu xây dựng các lò mới tiên tiến thế hệ III+ là AP1000 tại Vogtle và VC Summer, trong đó, tổ máy số 3 Vogtle bắt đầu vận hành từ tháng 7/2023.
Về Liên bang Nga, Liên Xô (cũ) là quốc gia vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào ngày 27/6/1954 (năm nay Nga kỷ niệm 70 năm nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới). Hiện nay, Nga đang vận hành 36 tổ máy với tổng công suất 26,8 GWe, chiếm 19,6% sản lượng điện quốc gia. Nga hiện có ngành công nghiệp hạt nhân toàn diện từ khai thác, chế tạo nhiên liệu, thiết kế xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong nước cũng như xuất khẩu điện hạt nhân ra nước ngoài. Thiết kế VVER của Nga an toàn và hiệu quả đã được chứng minh mấy chục năm nay, đặc biệt thiết kế VVER-1200 (thế hệ III+) đáp ứng các yêu cầu an toàn hậu sự cố Fukushima. Cho đến nay, chính phủ Nga thực hiện chiến lược giảm nhiên liệu hoá thạch, tăng tỷ lệ năng lượng hạt nhân từ 20% hiện nay lên 37% trong tương lai gần, nhằm đảm bảo phát thải carbon thấp hơn châu Âu vào năm 2050.
Tại châu Á, sau sự cố Fukushima, hiện nay Nhật Bản đang cố gắng tái khởi động các tổ máy điện hạt nhân sau khi nâng cấp các hạng mục theo yêu cầu của cơ quan pháp qui. Hai lò phản ứng đầu tiên đã khởi động lại vào tháng 8 và tháng 10/2015, với 10 lò phản ứng khác đã khởi động lại kể từ đó.
Kế hoạch năng lượng cơ bản lần thứ 5 được phê duyệt vào tháng 7/2018 duy trì tỷ lệ điện giống như đã thỏa thuận vào giữa năm 2015. Vào tháng 10/2021, kế hoạch sản xuất điện đến năm 2030 được phê duyệt tại Nhật Bản. Mục tiêu hạt nhân cho năm 2030 là 20-22%, không thay đổi so với mục tiêu trong kế hoạch năm 2015 nhưng năng lượng tái tạo tăng đáng kể lên 36-38%, bao gồm địa nhiệt và thủy điện. Hydro và amoniac được đưa vào ở mức 1%. Kế hoạch sẽ yêu cầu khởi động lại 10 lò phản ứng khác.

undefined
Một nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản. Ảnh: Nippon

Hay như Trung Quốc khởi động chương trình điện hạt nhân vào năm 1970. Khi đó, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc dưới 70 USD/người, điện tiêu thụ trên đầu người cũng chỉ 126 kWh/năm (năm 2007 điện bình quân đầu người của Trung Quốc là 2483 kWh/năm). Quốc gia này khá giàu tài nguyên năng lượng, nhất là than đá.
Một trong những nguyên nhân để Trung Quốc xây dựng điện hạt nhân là tài nguyên than tập trung phần lớn ở khu vực Tây Bắc, trong khi khu vực năng động phát triển kinh tế lại phân bố ở miền Nam và Đông Nam, rất xa các vùng mỏ than. Hiện nay, Trung Quốc đã tự phát triển được công nghệ lò nước nhẹ tiên tiến thế hệ III+ (Hualong One), đang được Cơ quan Pháp quy hạt nhân của Anh (ONR) đánh giá để cấp phép an toàn.
Tiếp đến, trong nhóm quốc gia có sự thay đổi chính sách đối với điện hạt nhân, Đức là một ví dụ điển hình. Mặc dù đến năm 2009, Chính phủ nước này tuyên bố thực hiện chính sách không xây dựng mới nhà máy điện và dự kiến 20 năm sau, đến 2022 nhà máy điện hạt nhân cuối cùng sẽ ngừng hoạt động. Tuy nhiên, Đức vẫn tiếp tục cộng tác với Pháp để nghiên cứu các loại lò phản ứng tiên tiến có độ an toàn cao hơn. Vấn đề tuyên bố dừng phát triển điện hạt nhân của Đức cũng mang yếu tố chính trị. Mặt khác, Đức hiện nhập khẩu điện từ các nhà máy điện hạt nhân của Pháp dễ dàng để đáp ứng nhu cầu của nước mình. Nguyên nhân chính dừng phát triển điện hạt nhân ở Đức là do Đảng Xanh lúc đó đang thắng thế, và Đức đẩy mạnh chương trình phát triển năng lượng tái tạo: điện gió, điện mặt trời.
Tuy nhiên, vào tháng 10/2022, Thủ tướng Đức đã quyết định 3 lò phản ứng điện hạt nhân còn lại của Đức sẽ tiếp tục hoạt động để bù đắp cho nguồn cung cấp khí đốt giảm từ Nga cho đến tháng 4/2023.
Về một số quốc gia mới nổi, lần đầu tiên xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, UAE đã xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Barakah đầu tiên với 4 tổ máy APR1400 của Công ty Điện lực Hàn Quốc (Kepco). Tổ máy 1 được hòa lưới vào năm 2020, tiếp theo là tổ máy 2 vào năm 2021 và tổ máy 3 vào năm 2022. Tổ máy 1 bắt đầu vận hành thương mại vào tháng 4/2021, tổ máy 2 vào năm 2022 và tổ máy 3 vào năm 2023. Khi cả 4 tổ máy đều hoạt động hết công suất, Nhà máy Barakah sẽ tạo ra 40 TWh điện mỗi năm và cung cấp tới 25% lượng điện của UAE, đóng góp tới 25% đóng góp do quốc gia tự quyết định của UAE cho Net Zero và là nguồn cung cấp điện sạch lớn nhất.
Đáng chú ý, nhiều quốc gia tại Đông Nam Á cũng đang quan tâm tới điện hạt nhân. Tại Philippines, vào tháng 3/2022, cựu Tổng thống Rodrigo Duterte đã ký sắc lệnh đưa điện hạt nhân vào cơ cấu năng lượng của nước này. Tiếp đó, sau khi đắc cử vào tháng 5/2022, Tổng thống Ferdinand Marcos Junior đã tuyên bố có kế hoạch mở cửa trở lại Nhà máy điện hạt nhân Bataan (dự án điện hạt nhân đầu tiên tại Đông Nam Á) đã hoàn thành vào năm 1984 nhưng chưa được đưa vào hoạt động.
Tại Singapore, mặc dù quy mô lưới điện khá nhỏ, tháng 3/2022 cũng tuyên bố đã xác định điện hạt nhân là nguồn năng lượng tiềm năng vào năm 2050. Thái Lan cũng đã đưa điện hạt nhân vào quy hoạch điện quốc gia từ những năm 2000, nhưng kế hoạch xây dựng lò phản ứng đã bị hoãn lại do sự cố Fukushima. Tại Diễn đàn APEC ở Bangkok tháng 11/2022, Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris thông báo Chính phủ Mỹ sẽ hỗ trợ cho Thái Lan triển khai công nghệ lò SMR.
Những thông tin đã đề cập cho thấy, xu hướng phát triển điện hạt nhân là tất yếu trên thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển điện hạt nhân tại các quốc gia trên thế giới rất khác nhau. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhận định rằng Việt Nam cần tham khảo, học hỏi và thực hiện nghiên cứu một cách chi tiết, vận dụng một cách linh hoạt vào điều kiện thực tiễn của mình, để có thể phát triển nhà máy điện hạt nhân. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm phát triển nhà máy điện hạt nhân của các quốc gia trên thế giới có thể được rút ra như sau:
Một là, có sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về việc phát triển điện hạt nhân vì mục đích hoà bình. Việc thực hiện một chương trình điện hạt nhân quốc gia đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ của các tổ chức trong nước và quốc tế.
Hai là, có sự phối hợp giữa chương trình điện hạt nhân và chương trình phát triển quốc gia. Chương trình điện hạt nhân cần được coi là một phần trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia, việc nội địa hóa công nghệ điện hạt nhân khó thành công nếu không có cơ sở nền tảng của công nghiệp nặng như cơ khí, hóa chất...
Ba là, kết hợp vốn kiến thức và kinh nghiệm của các quốc gia có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển với việc đảm bảo nguồn nhân lực trong nước có khả năng thực hiện thành công chương trình điện hạt nhân.
Bốn là, công tác tuyên truyền điện hạt nhân cần phải tiến hành với cách thức về cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Năm là, đầu tư liên tục cho phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. Việc phát triển dự án điện hạt nhân không chỉ phục vụ mục đích phát điện để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ của quốc gia, phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật quốc gia trên tất cả các lĩnh vực.
Sáu là, cần phải chủ động sớm có lộ trình xây dựng khuôn khổ hệ thống pháp quy về an toàn hạt nhân trong cả nước, để kiểm soát an toàn hạt nhân một cách chặt chẽ. Cần chủ động xây dựng hệ thống kiểm soát an toàn hạt nhân, sớm xây dựng một khuôn khổ pháp quy về an toàn hạt nhân cho điện hạt nhân.
Bảy là, có chiến lược nhằm đảm bảo nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo hạt nhân quốc gia. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực bao gồm ngắn hạn và dài hạn; chiến lược ngắn hạn nhằm đảm bảo nhân lực ban đầu chất lượng cao cho dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, chiến lược dài hạn là nhằm đảm bảo nhân lực cho cả chương trình hạt nhân quốc gia trong dài hạn.
Tám là, hợp tác quốc tế tích cực kết hợp với việc tiếp thu ý kiến phản hồi, đánh giá của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia cần tuân thủ hướng dẫn của IAEA cũng như xây dựng tiêu chuẩn theo đặc thù của quốc gia. Vì thế, hợp tác quốc tế chặt chẽ và nghiên cứu công nghệ thế giới nhằm đảm bảo an toàn là rất quan trọng, nhất là khi bắt đầu khởi động chương trình điện hạt nhân.

Đẩy mạnh sự đồng thuận xã hội

Một trong những "rào cản" lớn nhất đối với điện hạt nhân là tâm lý e ngại của công chúng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự đồng thuận của xã hội đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chương trình điện hạt nhân.
Về vấn đề này, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết rằng, với lịch sử hơn 70 năm phát triển, ngành năng lượng hạt nhân đã có những đóng góp to lớn tới nền kinh tế quốc dân nhiều nước. Nhưng bên cạnh đó, năng lượng hạt nhân có những đặc thù riêng có ảnh hưởng tâm lý của công chúng nên không ít các quốc gia đã phát triển điện hạt nhân khó đẩy mạnh phát triển điện hạt nhân, cũng như các nước mới bắt đầu điện hạt nhân cũng gặp không ít khó khăn.
Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhận định, thông tin tuyên truyền đại chúng là những thông tin được cung cấp phải dễ hiểu, tổng hợp và phù hợp với tuỳ từng đối tượng. Công tác thông tin tuyên truyền phải được tiến hành đem lại cho công chúng một cái nhìn công bằng với ngành hạt nhân, không nên thái quá đưa tin một chiều, hoặc ngược lại che đậy các sự thật, sẽ gây ra mất lòng tin, dẫn tới sự phản đối việc phát triển điện hạt nhân.

Nâng tầm chất lượng kỹ thuật

Việc phát triển cơ sở hạ tầng hạt nhân tại Việt Nam cần thực hiện theo ba giai đoạn, kéo dài từ 10 đến 15 năm, dựa trên hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Hiện tại, Việt Nam phải rà soát lại toàn bộ các tiêu chí liên quan đến cơ sở hạ tầng hạt nhân, đặc biệt chú trọng đến 19 yếu tố then chốt, trong đó có các cơ sở hạ tầng về an toàn và an ninh hạt nhân theo hướng dẫn của IAEA (NG-G-3.1 và SSG-16). Các cơ sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm, và cơ sở đào tạo phải được đầu tư xây dựng đồng bộ, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển ngành năng lượng hạt nhân tại Việt Nam.
An toàn cho nhà máy điện hạt nhân cũng là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với các quốc gia sở hữu công nghệ này mà còn đối với cộng đồng quốc tế. Theo các nguyên tắc quốc tế, các nhà máy điện hạt nhân phải được bảo vệ khỏi các cuộc tấn công trong thời gian chiến tranh và chống lại các mối đe dọa khủng bố.
Trong bối cảnh thế giới căng thẳng về địa chính trị như hiện nay, PGS.TS Vương Hữu Tấn, nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam cho rằng, an toàn tuyệt đối là không thể có trong bất kỳ lĩnh vực nào, nhưng có thể thiết lập những tiêu chuẩn an toàn chấp nhận được. Chính vì vậy, các công nghệ mới trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân ngày nay đã được cải tiến để ngăn ngừa các sự cố nghiêm trọng như nóng chảy vùng hoạt của lò phản ứng mà vẫn không gây phát tán phóng xạ.
Về việc làm chủ công nghệ nhà máy điện hạt nhân, ông Vương Hữu Tấn khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ công nghệ này. Dù có sự khác biệt giữa điện hạt nhân và các loại nhiệt điện truyền thống, Việt Nam đã có kinh nghiệm trong việc quản lý và vận hành các nhà máy nhiệt điện, đặc biệt là nhiệt điện khí. Với đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm từ việc vận hành các lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, Việt Nam có thể nhanh chóng làm chủ công nghệ điều khiển các nhà máy điện hạt nhân, như đã chứng minh trong quá trình vận hành lò phản ứng Đà Lạt.
Ngoài ra, để thúc đẩy phát triển ngành điện hạt nhân, cần triển khai các giải pháp chiến lược và quy hoạch đồng bộ. Cụ thể, việc lập Quy hoạch phát triển điện hạt nhân sẽ làm rõ tiềm năng của các loại hình nhà máy điện hạt nhân, bao gồm quy mô lớn, quy mô nhỏ (SMR) và siêu nhỏ (mSMR). Đồng thời, cần xác định các vị trí tiềm năng và khả thi để xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Một bước quan trọng nữa là cập nhật và điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, nhằm xác định rõ quy mô và thời điểm triển khai các tổ máy điện hạt nhân, cũng như các quy hoạch liên quan. Những nỗ lực này sẽ là nền tảng quan trọng trong việc phát triển bền vững nguồn năng lượng hạt nhân tại Việt Nam.
Củng cố khung pháp lý

Theo thông tin từ Viện Năng lượng, cơ quan pháp quy hiện nay đang được hiểu là Cục an toàn bức xạ và hạt nhân (VARANS) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, để trở thành Cơ quan Pháp quy hạt nhân cũng cần phải kiện toàn bộ máy, nhiều quốc gia có điện hạt nhân đã xây dựng Cơ quan pháp quy hạt nhân độc lập, không trực thuộc bộ nào, đảm bảo tính khách quan.
Việt Nam đã có Luật Năng lượng nguyên tử (ban hành năm 2008) và đã xây dựng được hệ thống 5 nghị định và 30 thông tư hướng dẫn. Tiếp đó, các văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh xây dựng phục vụ giai đoạn chuẩn bị Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1-2. Tuy nhiên, sau khi có chủ trương dừng dự án, các hoạt động liên quan đến xây dựng văn bản pháp luật đã không được ưu tiên. Trong trường hợp khởi động lại phát triển điện hạt nhân, cần ưu tiên rà soát, cập nhật, xây dựng các văn bản pháp luật liên quan nhà máy điện hạt nhân.
Hiện nay, đang có nhiều ý kiến liên quan đến lò nhỏ SMR, nhưng lại thiếu vắng những tài liệu hướng dẫn, quy định về yêu cầu địa điểm đối với lò SMR. Như vây, việc lựa chọn địa điểm cho điện hạt nhân SMR vẫn cần tuân thủ Thông tư số 13/2009/TT-BKHCN hướng dẫn đánh giá sơ bộ về an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân trong giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư, Thông tư số 28/2011/TT-BKHCN quy định yêu cầu về an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân. Cơ quan hữu quan nên nghiên cứu sớm ban hành thông tư, quy định về lựa chọn địa điểm cho lò SMR.
Các nhà máy điện hạt nhân nổi cũng đang chưa có các Công ước quốc tế về di chuyển qua biên giới quốc tế, quá cảnh qua vùng biển nước thứ 3. Do đó, cần sớm nghiên cứu phối hợp với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) trong trường hợp phát triển điện hạt nhân nổi.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt!

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam 19:04

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam

“Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị tướng huyền thoại, “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của Đại úy, Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Toán - Viện Lịch sử Quân sự, được đăng tải trên báo Nhân Dân điện tử tại trang web nhandan.vn. Trong tháng 12 này là dịp đặc biệt có ý nghĩa Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), thêm một lần nữa chúng ta cũng nhắc nhớ và hồi ức lại những câu chuyện về vị tướng huyền thoại của dân tộc Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - với tấm lòng trân trọng và biết ơn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, được nhân dân yêu mến, kính trọng, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ và là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Vị tướng huyền thoại của Việt Nam và thế giới; dù không trải qua trường lớp quân sự nào, nhưng dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh; đồng chí Võ Nguyên Giáp đã cùng Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy xây dựng Quân đội từ “con số không” nhanh chóng phát triển lực lượng, trình độ tổ chức, tác chiến, nâng cao sức mạnh chiến đấu, đánh bại nhiều viên tướng nổi tiếng của các quân đội đế quốc thực dân hùng mạnh trên thế giới, làm thay đổi dòng chảy lịch sử dân tộc và nhân loại.

undefined
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch họp bàn kế hoạch tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ảnh tư liệu

Tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử dân tộc, vị tướng lừng danh trong lịch sử thế giới, góp phần làm phong phú nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần vào việc hình thành và phát triển học thuyết quân sự - đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Ông cũng là Tổng Tư lệnh đầu tiên và duy nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam - Đại tướng đầu tiên, cũng là đại tướng đánh bại nhiều đại tướng nhất.

Tiểu sử Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, tại xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho giàu lòng yêu nước. Ông đã dấn thân vào con đường cách mạng từ khi tuổi đời còn rất trẻ dưới sự dìu dắt của các bậc đàn anh và những người thầy ở Trường Quốc học Huế, tham gia các tổ chức yêu nước và cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, trở thành Ủy viên Trung ương dự bị, phụ trách tuyên huấn và giao thông liên lạc của Tổng bộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Võ Nguyên Giáp đã góp phần to lớn thúc đẩy tổ chức Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn - là một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã bị thực dân Pháp kết án 2 năm tù vì tham gia ủng hộ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tháng 4/1940 đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Võ Nguyên Giáp, ông và đồng chí Phạm Văn Đồng được đồng chí Hoàng Văn Thụ - Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp giao nhiệm vụ sang miền Nam Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu tháng 6/1940, tại Thúy Hồ - Côn Minh - Vân Nam (Trung Quốc), hai ông được gặp đồng chí Vương (tức lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc). Từ đây, Võ Nguyên Giáp được gần gũi, trở thành người học trò xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Nhận thấy ở Võ Nguyên Giáp có tài năng thiên bẩm về quân sự, cho nên sau thời gian thử thách, rèn luyện, tháng 12/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giao cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kể từ đây, Võ Nguyên Giáp giữ vai trò người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đội quân từ 34 chiến sĩ trở thành một đội quân cách mạng ngày càng lớn mạnh, từng bước đánh bại những quân đội nhà nghề, sừng sỏ, được trang bị những vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại thời bấy giờ, giành và giữ nền độc lập, tự do cho dân tộc, vẹn toàn lãnh thổ cho Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trên cương vị Bí thư Trung ương Quân ủy, Tổng Chính ủy, Bí thư Tổng Quân ủy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước lớn mạnh, trưởng thành, phát huy vai trò của quân đội cách mạng, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, từng bước đánh bại các kế hoạch quân sự của địch. Đại tướng đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng, đánh dấu sự phát triển của cuộc kháng chiến như Biên Giới, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào... Đặc biệt trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với tư duy quân sự sắc bén, với nhãn quan chiến lược sâu sắc, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đưa Đại tướng vào hàng danh tướng của thế giới.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Phó Thủ tướng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng chỉ đạo quân, dân trên cả hai miền Nam, Bắc lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh những cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ, ngụy, lập nên những chiến công vang dội, như thắng lợi trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và mùa khô 1966 - 1967, Chiến dịch đường 9 - Nam Lào năm 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, làm nên “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội vào tháng 12/1972. Đặc biệt đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã lập nên mốc son chói lọi, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, giành lại trọn vẹn độc lập cho dân tộc, thống nhất cho non sông.

Đất nước hòa bình, thống nhất, Đại tướng đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Năm 1991, Đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80.

Với những công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam suy tôn ông là người “Anh Cả” của quân đội. Bộ đội do ông lãnh đạo, chỉ huy được nhân dân yêu mến gọi là “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là niềm tự hào, là sự kiêu hãnh mà không phải quân đội nào trên thế giới cũng có được.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp với những chiến công hiển hách

Đổi mục tiêu đánh Cao Bằng sang Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới năm 1950.

Trong Chiến dịch Biên giới 1950, trên cương vị là Bí thư Đảng ủy Mặt trận Biên giới, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những đóng góp quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch, tạo bước ngoặt căn bản trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Theo kế hoạch tác chiến ban đầu vạch ra, quân ta sẽ bắt đầu chiến dịch bằng tập trung ưu thế binh lực, tiến công tiêu diệt địch trong thị xã Cao Bằng. Sau khi giải quyết xong Cao Bằng, sẽ chuyển xuống tiêu diệt địch ở Đông Khê, rồi tùy tình hình để định hướng phát triển tiếp theo của chiến dịch.

Nhưng trước khi lên đường đi chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để báo cáo tình hình và được Người căn dặn: Chiến dịch này quan trọng, chỉ được thắng, không được thua. Lời căn dặn đó, khiến đồng chí Tổng Tư lệnh trăn trở, suy nghĩ nhiều về tầm quan trọng của chiến dịch. Vậy, mục tiêu đặt ra cho chiến dịch có vượt quá sức của bộ đội hay không? Lấy thị xã Cao Bằng là điểm đột phá mở đầu chiến dịch có đúng không? Liệu ta có thể huy động đủ lương thực cho lực lượng lớn bộ đội, dân công trong chiến dịch dài ngày không?

Từ những trăn trở đó, đầu tháng 8 năm 1950, Bộ Chỉ huy Chiến dịch tổ chức trinh sát thực địa Cao Bằng. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, để thực hiện quyết tâm bảo đảm đánh chắc thắng trận đầu, trận đánh then chốt mở màn cho chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của Quân đội ta. Tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận ngày 16 tháng 8 năm 1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Chiến dịch kết luận: Đánh Cao Bằng trước, “ta chưa có thể nói chắc chắn bảo đảm thắng lợi”. Do vậy, đồng chí đưa ra phương án tác chiến mới, đó là đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch.

Bởi:

Nếu đánh Cao Bằng trước, ta sẽ gặp một số khó khăn như vấn đề tổ chức vượt sông, vấn đề đối phó với quân nhảy dù tăng viện lúc chiến đấu... Nếu đánh Cao Bằng không thắng lợi sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của bộ đội. Ngược lại, tiến công Đông Khê phù hợp với nguyên tắc bảo đảm chắc thắng trận đầu trong tác chiến chiến dịch, phù hợp với cách đánh của ta (đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính), thuận tiện cho ta triển khai binh, hoả lực, phù hợp với khả năng chiến đấu của bộ đội, có khả năng bảo đảm chắc thắng và có cơ hội đánh viện binh địch.

Hơn nữa, lực lượng địch ở Đông Khê yếu hơn so với các mục tiêu khác - là nơi địch tương đối sơ hở nhưng lại là nơi hiểm yếu, nếu Đông Khê bị đột phá, toàn bộ thế trận của địch sẽ bị chia cắt và uy hiếp. Do vị trí quân sự quan trọng của Đông Khê, là mắt xích quan trọng nối với thị xã Cao Bằng với thị trấn Thất Khê. Nếu mất Đông Khê, tuyến phòng thủ đường số 4 sẽ bị chia cắt, thị xã Cao Bằng trở nên cô lập, buộc địch phải đưa quân đến ứng cứu Đông Khê, hoặc rút quân từ Cao Bằng về hỗ trợ.

Phương án này, ngay sau đó, được báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh và được nhất trí thông qua.

Diễn biến của chiến dịch đúng như Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp dự đoán. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 16 tháng 9 năm 1950, quân ta nổ súng tiến công Đông Khê, đến sáng 18 tháng 9, quân địch rút chạy, ta làm chủ trận địa. Địch buộc phải điều lực lượng ứng cứu: Binh đoàn Lepager nhận lệnh tiến theo đường số 4 lên đón binh đoàn của Charton từ Cao Bằng rút về cùng hợp điểm tại Đông Khê. Sau đó, ta đã khéo léo “dụ” được hai binh đoàn thiện chiến nhất của quân Pháp rời bỏ những nơi đồn trú kiên cố, cô lập chúng không cho hợp điểm và buộc chúng cuối cùng phải sa vào thế trận “thiên la, địa võng” do ta bày sẵn ở Cốc Xá - Ðiểm cao 477 để tiêu diệt. Thắng lợi đó thể hiện tài năng thao lược thiên bẩm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh sang “Đánh chắc, tiến chắc” trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.

Sau khi Điện Biên Phủ được chọn làm điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và thực dân Pháp, ngày 14 tháng 01 năm 1954, tại Sở Chỉ huy chiến dịch ở Thẩm Púa, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch mở Hội nghị Cán bộ phổ biến Kế hoạch tác chiến chiến dịch theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” đã xác định và giao nhiệm vụ cho các đơn vị tiến hành công tác chuẩn bị đánh theo Quyết nghị của hội nghị. Nhưng với nhãn quan quân sự nhạy cảm, sắc bén, Đại tướng nhanh chóng phát hiện những điểm yếu của phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Bởi, “tình hình địch đã thay đổi nhiều. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc chưa từng có”, quan trọng hơn, những khó khăn đó chưa tìm được cách khắc phục. Mặc dù, “pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong”, nhưng với tinh thần kỷ luật cùng thái độ trách nhiệm trước Đảng, quân và dân, Đại tướng quyết định “Phải cho các đơn vị rút khỏi trận địa để nghiên cứu một cách đánh khác dù bộ đội có thắc mắc. Phải chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thời gian chuẩn bị sẽ kéo dài.

Từ kinh nghiệm thực tiễn chiến trường những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và thiên bẩm quân sự, Đại tướng đã trình bày quan điểm về phương án tác chiến tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm, phân tích những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau Hội nghị Thẩm Púa, cùng những khó khăn chưa thể khắc phục của ta. Từ đó, Đại tướng khẳng định: Phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” không thể đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”. Đại tướng quả quyết ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đối cách đánh và phương châm tác chiến. Sau thời gian thảo luận nghiêm túc, thay mặt Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Mặt trận, Đại tướng kết luận: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới”.

Quyết định hoãn cuộc tiến công, thay đổi phương châm tác chiến là một quyết định quyết đoán, dũng cảm, thể hiện tầm cao trí tuệ, bản lĩnh chính trị của Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận trước Đảng, nhân dân và Quân đội. Quyết định đó kịp thời tránh được nguy cơ tổn thất cho quân và dân ta mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”.

Thực tiễn diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh quyết định của Đại tướng vào thời điểm lịch sử đó là hoàn toàn đúng đắn. Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ức có kể lại đó là “một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình

Ra mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa…’ trong trận đại thắng mùa xuân 1975

Với “hai đòn chiến lược gối đầu nhau” là Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi, ta đã loại khỏi vòng chiến một nửa lực lượng địch, giải phóng một vùng rộng lớn suốt từ Quảng Trị đến Khánh Hòa, tạo đột biến về cục diện chiến tranh, khiến địch hoang mang, hoảng loạn, tìm cách co cụm để giữ Sài Gòn...

Nắm bắt thời cơ chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp mở rộng bàn về đòn chiến lược thứ ba tiến công Sài Gòn, đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến giải phóng Sài Gòn - Gia Định theo hướng bao vây chiến lược ở phía đông và phía tây Sài Gòn, sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch.

Ngày 1/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trên cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương điện cho Trung ương Cục miền Nam, xác định thời gian tiến công Sài Gòn, trong đó nêu rõ: “Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều. Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ... Thời gian hiện nay phải tính từng ngày. Phải thần tốc, thần tốc, toàn thắng, nhất định toàn thắng”.

Được sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Chính trị, quán triệt tinh thần tiến quân “thần tốc”, trên hướng Đường số 1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chính trị ký quyết định thành lập cánh quân Duyên hải (còn gọi là cánh quân phía Đông, 5/4/1975) và trực tiếp giao nhiệm vụ phải chọc thủng các phòng tuyến của địch từ Nha Trang trở vào Sài Gòn. Tổng Tư lệnh đặt ra yêu cầu đối với cánh quân phía Đông là phải tìm mọi phương án nâng cao tốc độ hành quân để kịp thời gian tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn; quá trình hành quân phải là quá trình bổ sung, sáp nhập và hiệp đồng chiến đấu liên tục, “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.

Đôn đốc, thúc giục các binh đoàn, lực lượng trên toàn mặt trận, ngày 7/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã tự tay thảo bức Điện số 157/ĐK, ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”

Cùng với việc chỉ đạo các cánh quân “thần tốc” giải phóng lãnh thổ trên đất liền, ngày 2/4, Đại tướng trực tiếp chỉ thị cho đồng chí Lê Trọng Tấn: Ngoài nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh cho Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân, tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Ngày 4/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký bức bức “mật điện” số 990B/TK “chỉ cán bộ có trách nhiệm biết”, sau đó tốc chuyển đến đồng chí Võ Chí Công - Chính ủy Quân khu 5 và đồng chí Chu Huy Mân - Tư Lệnh Quân khu 5: giao nhiệm vụ cho Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Khu V, Bộ Tư lệnh Hải quân khẩn trương nghiên cứu kế hoạch tác chiến và tiến hành mọi công tác chuẩn bị để khi có thời cơ kịp thời giải phóng Quần đảo Trường Sa, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng.

Mệnh lệnh được thi hành ngay tức khắc. Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân triển khai kế hoạch tác chiến. Sau khi Quân khu 5 báo cáo kế hoạch đánh chiếm các đảo, ngày 13/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện cho đồng chí Chu Huy Mân nêu ý kiến về thời cơ đánh chiếm các đảo. Ngày hôm sau, nhận được tin quân địch chuẩn bị rút khỏi Trường Sa, Đại tướng chỉ thị cho Quân khu 5: Thời cơ đánh chiếm các đảo lúc này rất thuận lợi. Các anh ra lệnh đánh chiếm ngay. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ và thường xuyên báo cáo về Bộ.

Ngày 28/4, quân ta hoàn thành giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa. Đến ngày 30/4 lá cờ giải phóng tung bay trước Dinh Độc lập báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, một thời khắc thiêng liêng của triệu triệu người Việt Nam khi đất nước được giải phóng, non sông thu về một mối.

Như vậy, suốt ba mươi năm chỉ đạo, điều hành cuộc chiến tranh cách mạng (1945-1975), trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Hình ảnh và những cống hiến đặc biệt xuất sắc của Đại tướng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc luôn sống mãi với non sông, đất nước, trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, đúng như khẳng định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta suy tôn đồng chí là Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của đồng chí in đậm trong lòng nhân dân, là vị tướng của nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc.

Những đánh giá về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các vị tướng ấy (tức tướng Pháp ở Đông Dương) cầm quân đánh trận ở Việt Nam đều thua ông Giáp thì ông Giáp phải trên họ một bậc”

Tổng bí thư Lê Khả Phiêu: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng văn, võ song toàn. Vừa võ vừa văn, cả hai lĩnh vực ấy quyện vào, hỗ trợ cho nhau, đều hay, đều giỏi: quân sự - chính trị - kinh tế - văn hóa; văn hóa – chính trị - kinh tế - quân sự”

Tướng De Castrier: “Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp chúng tôi là một đội quân nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Sự kiện tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông [...] tôi thừa nhận tướng Giáp rất sành sỏi binh nghiệp và khôn ngoan hơn tôi đã đành, mà còn hơn cả tướng Cônhi và Đại tướng Navarre. Tôi hân hạnh làm đối thủ của tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như tướng Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”.

60 năm những người hùng châu Á, bình chọn của tạp chí Time, 2006: “Ngày nay, vẫn chỉnh tề trong bộ quân phục, tướng Giáp khiêm tốn từ chối nhận định rằng những chiến thắng quân sự đã khiến ông trở thành một người anh hùng. Ông khẳng định, chúng tôi đơn giản là bằng chứng rằng “nhân dân Việt Nam, với tinh thần yêu nước, có thể làm nên những điều phi thường”. Đúng vậy. Nhưng tướng Giáp đã chỉ cho họ con đường ấy

Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc Phòng Mỹ 1993: “Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao… Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử”

Bách Khoa toàn thư Pháp: “Là người tổ chức Quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết mácxít, kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh”

Những phát ngôn làm nên tên tuổi vị Đại tướng huyền thoại

Cuộc gặp đầu tiên của Đại tướng với cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mcnamara tháng 11/1995: “Từ lo sợ không có trong tư duy của chúng tôi. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Chúng tôi quyết đánh Mỹ và chúng tôi luôn tin tưởng là sẽ chiến thắng.”

Cuộc gặp lần thứ 2 - cũng là lần cuối cùng của cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mcnamara tháng 6/1997: “Vị tướng dù có công lao đến đâu cũng là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam mới là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ mình bình đẳng với những người lính của mình”

Chiến lược của tôi là chiến lược hòa bình, nhưng hòa bình trong độc lập, tự do” - Trả lời câu hỏi của cố vấn an ninh của Tổng thống Algieria

“Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” - Đại tướng nói khi được chúc mừng nhân dịp bước sang tuổi 100.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình 9:54

Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình

"Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình" - Bài viết của tác giả Quang Lộc được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 3: Tái khởi động để đất nước vươn mình

Quyết định tái khởi động điện hạt nhân là bằng chứng mạnh mẽ cho quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước để tạo những tiền đề cần thiết cho kỷ nguyên mới.

Từ quyết định tạm dừng hai dự án nhà máy điện hạt nhân 8 năm trước…

Cách đây đúng 10 năm, trên một bản tin điện tử xuất hiện bài báo với cái tít đầy hy vọng: “Năm 2023, Việt Nam sẽ có nhà máy điện hạt nhân”. Khi đó nhiều người đã bày tỏ kỳ vọng vào bước đột phá mới trong không gian năng lượng của đất nước, nhưng cũng có người, tuy không nói ra nhưng đã cho thấy những khía cạnh còn phân vân, thậm chí là lo lắng.

Câu chuyện phát triển điện hạt nhân thời điểm đó không còn là câu chuyện mới mẻ và đã được cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước là Quốc hội ra quyết sách. Theo đó, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 41/2009/QH12, ngày 25/11/2009, xác định quy hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam và nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải.

Đó là thời điểm cách sự cố hạt nhân Chernobyl của Liên Xô đã 23 năm nhưng sau đó 2 năm là sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima của Nhật Bản.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm và đoàn công tác Trung ương thị sát địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận.

Quyết định triển khai các dự án điện hạt nhân tại Việt Nam khi đó là kết quả của những khảo sát, tham vấn hết sức kỹ lưỡng về địa điểm, về công nghệ của loại hình lò phản ứng. Các đối tác của Việt Nam cũng là các cường quốc về điện hạt nhân khi đó cũng đã khẳng định sẵn sàng chung tay với Việt Nam để dòng điện từ những nhà máy dự định xây dựng tại Ninh Thuận hòa lưới điện quốc gia, góp phần đem lại một hình ảnh mới cho năng lượng của Việt Nam.

Ai cũng biết những lợi ích to lớn về môi trường, về kinh tế mà điện hạt nhân đem lại cho phát triển năng lượng, phát triển quốc gia. Nhưng điện hạt nhân là một dạng thức năng lượng không giống như các dạng thức năng lượng khác, đòi hỏi những công nghệ hết sức khe khắt, đội ngũ vận hành là những nhân lực trình độ cao. Còn có cả những đòi hỏi cao về sự đồng thuận, thấu hiểu của người dân, của cộng đồng.

Chương trình phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam được manh nha vào những năm 1970, nhưng tới giai đoạn 1996-2009, loại năng lượng này mới được nghiên cứu một cách nghiêm túc, sau khi cấp có thẩm quyền cho chủ trương, với mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và nhu cầu điện rất cao.

Trong quá trình triển khai cụ thể quyết sách của Quốc hội về phát triển điện hạt nhân, những yếu tố cần thiết được đẩy nhanh như kết cấu hạ tầng, lựa chọn nhân lực quản lý, lựa chọn công nghệ được đặc biệt quan tâm. Còn những gì cần thận trọng như loại hình công nghệ, phương thức vận hành, nhân lực quản lý, cơ chế huy động vốn để xây dựng nhà máy cũng được tiến hành ở mức cao nhất trong điều kiện Việt Nam.

Cho đến tháng 11/2016, cân nhắc tất cả các điều kiện, Quốc hội đã ra quyết định dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Giải thích việc dừng khi đó, Chính phủ cho biết không phải do vấn đề công nghệ, an toàn mà điều kiện phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều thay đổi so với lúc quyết định đầu tư dự án. Khi đó, Việt Nam cũng cần nguồn vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng, các dự án trọng điểm tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội...

Nghĩa là phương án như dự định ban đầu đã không còn tính khả thi. Nhưng chỉ là dừng chứ không phải là nói lời tạm biệt với loại hình năng lượng tiên tiến này. Và tỉnh Ninh Thuận, một địa phương tràn đầy nắng gió thay vì là nơi đặt các nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam, vẫn là một trung tâm năng lượng của Việt Nam với các loại hình năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời.

Ninh Thuận vẫn giữ lời hẹn với điện hạt nhân như Quyết định số 1319/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tại quyết định này có nêu: “Giữ các vị trí đã quy hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận (vị trí Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2) làm đất dự trữ chiến lược lâu dài cho năng lượng, đảm bảo thuận lợi để thu hồi sau này khi có yêu cầu thực hiện các dự án quan trọng quốc gia. Quy hoạch để khai thác, sử dụng đất dự trữ chiến lược này hiệu quả, phù hợp quy định pháp luật và đảm bảo lợi ích của người dân... quan tâm đầu tư nâng cấp, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, cấp bách phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân trong vùng quy hoạch địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân”.

… đến việc tái khởi động ở thời điểm “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”

Sau đúng 8 năm tạm dừng, sau khi Trung ương Đảng quyết định chủ trương tái khởi động, tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV, việc quyết định "đánh thức" dự án điện hạt nhân đã được Quốc hội ra nghị quyết để làm cơ sở cho việc đẩy nhanh dự án.

8 năm là một giai đoạn không dài trong lộ trình phát triển đất nước nhưng không khó để nhận ra trong thời gian đó, tiềm năng, thế và lực của đất nước đã tiến rất nhanh. Đặc biệt đất nước đang ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của cả dân tộc, hướng tới những mục tiêu của các thời điểm 100 thành lập Đảng, 100 năm thành lập nước. Nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phát triển một nước Việt Nam hùng cường từ nội lực kết hợp với cơ hội của thời đại đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi mới về không gian cho năng lượng.

Điện đã tạm đủ, nhưng đó là chuyện của ngắn hạn và nhiều thách thức. Yêu cầu phát triển không thể chỉ bằng lòng với những gì có trước mắt mà còn không thể không tính kế lâu dài. Với các yếu tố phát triển tư duy đó đã là cần thiết, với năng lượng, trong đó có điện hạt nhân lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta không tự cho phép mình bỏ lỡ các cơ hội phát triển khi các điều kiện về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cho kỷ nguyên mới của dân tộc, của đất nước đã hội đủ, đã chín muồi.

Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị đã đặt việc phát triển năng lượng hạt nhân trong tổng thể phát triển năng lượng của đất nước trong vài chục năm tới. Theo Quy hoạch điện VIII, tổng công suất hệ thống điện hiện nay vào khoảng 80 GW sẽ phải tăng lên 150 GW vào năm 2030 và lên đến khoảng 570 GW vào năm 2050. Tuy nhiên, các nguồn năng lượng tái tạo và các nguồn điện nền hiện nay đang không ổn định và đang gặp khó. Về cơ bản, nguồn điện than sẽ hạn chế không phát triển với lý do là giảm phát thải. Nguồn điện khí chúng ta sẽ phát triển quy mô phù hợp. Tuy nhiên, điện khí chúng ta phải nhập khẩu từ quốc tế.

Bởi vậy, quyết định tái khởi động dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và nói rộng hơn là triển khai chương trình điện hạt nhân là một chủ trương đúng đắn và hết sức cần thiết nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững. Đây cũng là yếu tố rất quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài với các nguồn vốn tỷ USD vào Việt Nam.

Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, điện hạt nhân chính là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Trong lịch sử có một số sự cố về các nhà máy điện hạt nhân nhưng xét về xác suất là vô cùng thấp. Hơn nữa, những công nghệ hạt nhân hiện nay đã tiến bộ rất xa, trải qua rất nhiều thế hệ mới so với những công nghệ cũ trước đây.

“Việc phát triển nguồn điện hạt nhân sẽ đa dạng nguồn cung, bảo đảm an ninh năng lượng và chuyển dịch năng lượng xanh, giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào 2050 theo cam kết tại COP26. Bên cạnh đó, làm dự án điện hạt nhân còn là cơ hội để nước ta phát triển nhân lực chất lượng cao, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, tham gia vào chuỗi cung ứng công nghiệp điện hạt nhân toàn cầu”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Phát triển điện hạt nhân: Bác bỏ những luận điệu sai trái

Thực tiễn đã chỉ ra, vẫn còn có những thế lực thù địch không muốn thấy một đất nước Việt Nam phát triển bền vững, hùng cường. Chúng không ngừng tung ra những luận điệu xuyên tạc, thậm chí không từ một thủ đoạn, một cơ hội nào để cố tính bôi nhọ, đánh tráo khái niệm để mưu cầu việc chống phá việc phát triển.

Lĩnh vực năng lượng cũng nằm trong số các lĩnh vực mà các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, bôi nhọ. Xuyên tạc tác động môi trường của các dự án thủy điện, chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo gây ngộ nhận, hiểu nhầm phát triển điện gió dưới danh nghĩa tác động đến đời sống địa phương, cộng đồng, tạo dựng hình ảnh tiêu cực của các dự án điện than, dĩ nhiên là trong các luận điệu sai trái thù địch đó, không thể thiếu việc chống đối các dự án năng lượng hạt nhân với “lý do an toàn”

Luận điệu thường thấy của các thế lực phản động là ra sức tuyên truyền rằng “năng lượng hạt nhân là không an toàn” trong khi cố tình gắn với câu chuyện xảy ra với nhà máy điện hạt nhân Fukushima của Nhật Bản. Rồi rằng, “điện hạt nhân là ngoài tầm với của Việt Nam”, là “xài sang khi dân còn đói khổ”.

Tuy nhiên, khi tung ra các luận điệu này, các thế lực thù địch đã cố tình bất chấp một thực tế là công nghệ hạt nhân đã có những tiến bộ đáng kể những năm qua trong việc đảm bảo an toàn và hiệu quả năng lượng, đặc biệt là với thiết kế của các lò phản ứng thế hệ mới cũng như xử lý rác thải hạt nhân.

Để phản bác các quan điểm sai trái và thù địch liên quan đến chính sách năng lượng quốc gia có hiệu quả, cần thiết phải áp dụng một chiến lược đa diện, kết hợp giữa giáo dục, truyền thông và pháp luật. Mục tiêu là không chỉ minh bạch hóa thông tin mà còn tăng cường sự hiểu biết và đồng thuận trong cộng đồng về tầm quan trọng của các chính sách năng lượng.

Cần khẳng định, việc phát triển điện hạt nhân là mối quan tâm không chỉ của các quốc gia phát triển mà còn cả của các quốc gia đang phát triển. Công nghệ hạt nhân hiện đại đã cho phép rút ngắn khoảng cách tiếp cận về công nghệ, về khả năng huy động vốn cũng như trình độ quản lý.

Việt Nam phát triển điện hạt nhân hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn không chỉ cả trước mắt mà lâu dài. Phát triển điện hạt nhân là để tạo ra những bảo đảm cho an ninh năng lượng, an ninh quốc gia, đây là điều mà bất cứ một quốc gia nào cũng phải tính đến.

Những thông tin về quá trình triển khai các dự án điện hạt nhân đều được lan tỏa tới cộng đồng để tạo sự hòa quyện ý Đảng, lòng dân, tạo sự đồng thuận thống nhất cao trong triển khai.

Việc các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, tung các luận điệu sai trái về phát triển điện hạt nhân nói riêng và chính sách năng lượng nói chung đã cho thấy bộ mặt thật đáng lên án của những kẻ tự tách mình ra khỏi dòng chảy phát triển chung của dân tộc, của đất nước. Cùng với thời gian, những luận điệu đó đã không còn thuyết phục được ai, không còn có sức nặng, có chỗ đứng trong tâm tưởng, ý thức và hành động ở một đất nước mà ở đó trình độ nhận thức của người dân, của cộng đồng ngày càng cao như Việt Nam.

(Còn nữa)

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Hà Nội: Nhiều cây cổ thụ bị chặt hạ để làm dự án nhưng địa phương 'không biết' 2:54

Hà Nội: Nhiều cây cổ thụ bị chặt hạ để làm dự án nhưng địa phương 'không biết'

Tại khu tập thể Thành Công, quận Ba Đình, đơn vị thi công dự án làm đường ngăn sân A4 - A5 đã chặt hạ nhiều cây xanh. Theo ghi nhận, việc thi công này đã khiến nhiều cây xanh có tuổi đời hàng chục năm bị cưa đổ. Chỉ trong vòng một ngày, 6 cây xanh tại khu vực này đã bị cưa cắt để nhường chỗ cho các công trình ngổn ngang. Nhiều người dân bày tỏ sự lo ngại sâu sắc về số phận còn lại của những gốc cây cổ thụ xung quanh khu tập thể này.

undefined
Nhiều cây cổ thụ ở phường Thành Công, quận Ba Đình đã bị chặt hạ dù chưa được cấp phép cho hoạt động này theo quy định

Nhiều cây cổ thụ ở phường Thành Công, quận Ba Đình đã bị chặt hạ dù chưa được cấp phép cho hoạt động này theo quy định

Dù nhiều cây cổ thụ đã bị chặt hạ nhưng đại diện chủ đầu tư dự án lại cho biết, đơn vị chưa nắm rõ thông tin về việc chặt hạ cây xanh. Theo ông Lê Trí Dũng, Phó Giám đốc Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng quận Ba Đình, quy trình chặt hạ cây xanh phải có sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền, nhưng tại phường Thành Công, việc đốn hạ cây xanh lại không được thực hiện đúng quy trình này.

Theo UBND phường Thành Công, việc mở con đường này ngăn này là để giải quyết tình trạng lấn chiếm sân chung để làm nơi đậu xe và buôn bán. Tuy nhiên nhiều cư dân cho rằng con đường này không mang lại hiệu quả như mong đợi. Đường trong khu tập thể vốn đã dài, không bị tắc nghẽn nên việc mở thêm đường ngăn sân khu tập thể chỉ khiến cho khu vực này trở nên chật chội hơn.

Cũng theo người dân, những gốc cây xanh này mới được UBND phường Thành Công thi công hạng mục bó vỉa, lát đá. Chưa đầy 1 tháng sau, các hạng mục này đã bị đào lên để thi công một dự án khác, gây lãng phí ngân sách của nhà nước.

Được biết, dự án thi công đường ngăn sân tập thể là một phần trong gói thầu cải tạo hạ tầng kỹ thuật tại một số phường thuộc quận Ba Đình, với tổng mức đầu tư gần 8 tỷ đồng. Người dân cho rằng cơ quan chức năng cần xem xét kỹ lưỡng việc chặt hạ cây xanh, đầu tư có hiệu quả và hạn chế lãng phí nguồn lực của nhà nước.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư 15:09

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư. Bài viết của tác giả Nguyên Minh - Nguyễn Cường được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân: Bài 2: Chuyến thị sát đặc biệt của Tổng Bí thư

Chiều 5/12/2024, ngay sau buổi làm việc với tỉnh Ninh Thuận, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới thị sát địa điểm làm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Chuyến thăm sau một thập kỷ

Buổi chiều cuối năm nắng nhẹ, biển Phước Dinh xanh ngắt một màu trước những cánh đồng điện gió chong chóng quay tít. Nhịp sống thường nhật ở thủ phủ năng lượng miền Nam bây giờ là vậy. Ít người biết có một điều đặc biệt, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới trực tiếp thị sát nơi được chọn xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 tại thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.

undefined
Tổng Bí thư Tô Lâm thị sát địa điểm khảo sát xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1

Điều đó phần nào cho thấy sự quan tâm, sâu sát của người lãnh đạo cao nhất trước một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta.

Buổi sáng khi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắc đến chi tiết tròn 10 năm sau chuyến thăm Ninh Thuận của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông mới trở lại Ninh Thuận và rất xúc động trước những đổi thay ở vùng đất “vượt lên nghịch cảnh này”.

Một trong những điều mà Tổng Bí thư quan tâm nhất là lắng nghe tâm tư nguyện vọng của Ninh Thuận, triển khai chủ trương lớn, tạo đột phá phát triển nhưng an toàn cho dân vẫn phải đặt lên hàng đầu. Có lẽ vì thế trong phát biểu của mình, Tổng Bí thư nhiều lần đề cập vấn đề này. Ông khẳng định, điện hạt nhân là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Trong lịch sử có một số sự cố về các nhà máy điện hạt nhân nhưng xét về xác suất là vô cùng thấp. Hơn nữa, những công nghệ hạt nhân hiện nay đã tiến bộ rất xa, trải qua rất nhiều thế hệ mới so với những công nghệ cũ trước đây.

Ý Đảng lòng dân thống nhất

Tổng Bí thư Tô Lâm cũng rất quan tâm tới cuộc sống người dân vùng dự án khi nêu rõ, người dân Ninh Thuận và các địa phương lân cận chia sẻ, dành nguồn lực (đất đai, tài nguyên) để phát triển dự án năng lượng phục vụ sự phát triển cho cả nước, chắc chắn sẽ phải được tái phân phối, thụ hưởng những thành quả xứng đáng của sự phát triển. “Đảng và Nhà nước sẽ phải đảm bảo lựa chọn những công nghệ hạt nhân tốt nhất, chọn những đối tác tư vấn tốt nhất, đào tạo nhân lực quản lý tốt nhất để bảo đảm vận hành an toàn và hiệu quả dự án năng lượng này của quốc gia, không chỉ vì thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ con cháu mai sau” - Tổng Bí thư khẳng định.

Đứng hồi lâu ngắm khu vực ven bờ biển Phước Dinh đẹp như một bức tranh, Tổng Bí thư chăm chú lắng nghe báo cáo của ông Trịnh Minh Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận về dự án. Dõi theo đường chỉ của ông Hoàng trên bản đồ về tuyến đường kết nối ven biển, về triển vọng các khu công nghiệp, dịch vụ, trung tâm năng lượng và đổi mới sáng tạo tương lai, các khu tái định cư cho người dân không xa gần đó, Tổng Bí thư gật đầu hài lòng.

"Nếu làm sớm, làm tốt thì cả vùng biển này sẽ cất cánh. Không chỉ điện hạt nhân mà công nghiệp, dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản lân cận đây vẫn phát huy rất tốt"- Tổng Bí thư nói.

Tại buổi làm việc trước đó, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận báo cáo với Tổng Bí thư Tô Lâm sự đồng thuận cao của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.

Trước đó, trả lời báo chí, ông Trần Quốc Nam – Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận khẳng định, cùng với người dân cả nước, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Ninh Thuận đồng thuận cao về việc xây dựng dự án điện hạt nhân.

Nói về chủ trương tái khởi động điện hạt nhân, ông Trần Quốc Nam nhấn mạnh Ninh Thuận rất vinh dự được gánh một trọng trách quan trọng, là nơi đảm bảo an ninh năng lượng trong kỷ nguyên mới của đất nước.

Đối với tâm tư của người dân tại xã Phước Dinh (huyện Thuận Nam) và xã Vĩnh Hải (huyện Ninh Hải) – nơi từng quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, ông Trần Quốc Nam cho biết bà con mong muốn ổn định đời sống sản xuất, sinh hoạt.

“Ổn định ở đây có nghĩa là không phải bà con ổn định tại vị trí quy hoạch nhà máy điện hạt nhân cũ, mà hiểu là nếu bà con được về nơi tái định cư, nơi di dời mới để nhà nước làm nhà máy, phải là tốt nhất”.

Thật ra sự đồng thuận của người dân đã rõ từ hơn 10 năm trước, khi dự án đang chuẩn bị. Các phóng viên Báo Công Thương ngày ấy từng nhiều lần về vùng biển này ghi nhận ý kiến người dân. Báo Công Thương số ra ngày 29/10/2010 đăng bài “Lòng dân đã thuận” thuật lại chuyện đoàn đại diện nhân dân địa phương đi thăm nhà máy điện hạt nhân ở Nhật Bản. Ông Nguyễn Thành Du - trưởng thôn Vĩnh Trường, huyện Thuận Nam khi ấy kể: “Ở bển nhà máy sạch lắm, ít người làm. Tôi được đi cạnh các lò “hạt nhân” đang hoạt động mà có làm sao. Giáp nhà máy dân vẫn ở sinh hoạt bình thường. Được đi thăm quan, nhìn tận nơi, hiểu cặn kẽ tui về tuyên truyền trong xóm, bà con vui, quyết tâm ủng hộ chủ trương xây dựng nhà máy của Đảng và Chính phủ. Chỉ mong dự án sớm triển khai thôi”.

Trong xóm của ông Du, được đi Nhật còn có già làng Nguyễn Văn Lậy khen nhà máy họ đẹp, nhiều khách du lịch tham quan nên dân quanh vùng sống khỏe. Khi phóng viên hỏi vui: Thế nhà máy xây dựng xong, bác sẽ làm gì? Ông trả lời ngay: Tôi sẽ làm dịch vụ cho khách”.

Báo Nhân Dân số ra ngày 14/11/2010 cũng trích lời già làng Nguyễn Văn Lậy: “Hồi đầu, khi mới nghe tin xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dân trong thôn cũng hoang mang lắm. Nhưng rồi, sau nhiều cuộc hội thảo, nhiều cuộc tiếp xúc với cán bộ Ban chuẩn bị đầu tư dự án và các cán bộ của huyện, tỉnh, nhất là sáu người của thôn được đi tham quan thực tế nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản cuối tháng 7, đầu tháng 8 vừa qua thì bây giờ dân đã thông hết rồi. Ðược giới thiệu đồ án di dân tái định cư rộng 85 ha chỉ cách nơi ở cũ có 5 đến 7 km, đầy đủ các khu chức năng để có thể chuyển đổi nghề, có trường học cho con em, rồi trạm y tế, khu vui chơi... do Sở Xây dựng lập, bà con đều thấy ưng ý lắm”.

10 việc cần làm ngay, thời gian không chờ đợi

Phát biểu tại khu vực Tổng Bí thư thị sát, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên báo cáo với Tổng Bí thư, mọi việc được đồng thuận, Bộ Công Thương sẽ vào cuộc nhanh nhất, tốt nhất có thể để những chỉ đạo của Tổng Bí thư sớm thành hiện thực.

Trước đó, tại cuộc làm việc buổi sáng, Bộ trưởng đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm chắc vấn đề, trình bày rõ 10 “việc cần làm ngay” để giải đáp ý kiến, kiến nghị của địa phương đề nghị làm rõ lộ trình triển khai tái khởi động các dự án điện hạt nhân, gồm:

Thứ nhất, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các địa phương, EVN để rà soát và bổ sung quy hoạch liên quan đến 2 dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận vào Quy hoạch điện VIII. Dự án này dự kiến sẽ được khởi động lại từ tháng 1/2025 và chúng ta cần hoàn thành các công đoạn này trước tháng 3/2025, dự kiến phát điện trước 2035. Đây là một công việc rất quan trọng, bởi trước đó dự án đã bị đóng băng do nhiều lý do, nhưng việc tái khởi động là hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.

Thứ hai, Bộ Công Thương sẽ chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tham mưu xây dựng và ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Điện lực sửa đổi theo qui trình rút gọn, có hiệu lực cùng với hiệu lực của Luật Điện lực sửa đổi (1/1/2025) kèm theo đó là các cơ chế, chính sách cụ thể cho các dự án điện lực.

"Điều đáng mừng là Luật Điện lực sửa đổi đã có các chương quy định về điện hạt nhân, trong đó có các cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư và khuyến khích đầu tư", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Thứ ba, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo, rà soát các công việc và triển khai để giao EVN làm chủ đầu tư các dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Việc này sẽ làm và phải hoàn thành xong trước ngày 1/2/2025 để trùng với thời điểm các quy định có hiệu lực.

Thứ tư, Chính phủ báo cáo cấp có thẩm quyền để xin chủ trương tái đàm phán, ký Hiệp định với Nga hoặc Nhật Bản theo cam kết cũ là vừa hỗ trợ về mặt kỹ thuật, vừa hỗ trợ về tài chính, ưu đãi. Hiện nay công nghệ đã thay đổi, chúng ta cũng cần rà soát đàm phán lại để xem áp dụng công nghệ nào? Vốn vay ra sao? Lộ trình thực hiện thế nào? Công nghệ hiện nay rất tốt, rất rẻ và rất an toàn. Việc này muộn nhất trong quý I/2025, khi có chủ trương là lên đường đàm phán ngay.

Thứ năm, chủ đầu tư (EVN) phải khẩn trương thuê tư vấn để rà soát, cập nhật các thông tin, điều chỉnh dự án để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt lại chủ trương đầu tư hoàn chỉnh dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Theo quy chế các dự án đầu tư lớn 10 tỷ USD phải đưa ra Quốc hội phê chuẩn. Dự kiến sẽ trình Quốc hội muộn nhất là vào đầu quý II/2025.

Thứ sáu, sau khi có chủ trương đầu tư dự án mới theo quyết định của cấp có thẩm quyền, chủ đầu tư sẽ chọn tư vấn xây dựng dự án để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt FS. Dự kiến muộn nhất là đầu quý III/2025.

Thứ bảy, chủ đầu tư EVN rà soát lại nguồn nhân lực đã được đào tạo. Nếu còn điều kiện và có nguyện vọng tiếp tục phối hợp với các đối tác đào tạo lại; đồng thời lập kế hoạch đào tạo mới, chú trọng các đối tác có hỗ trợ về mặt kỹ thuật, công nghệ. Việc này hoàn thành trong quý II/2025.

Thứ tám, EVN khẩn trương rà soát, điều chỉnh, bổ sung (nếu cần) và tiếp tục triển khai xây dựng các dự án hạ tầng điện, nước, khu quản lý vận hành, khu chuyên gia, nhà điều hành… Tất cả những gì chuẩn bị cho dự án này là phải triển khai ngay, không chần chừ, không chờ đợi, không có bất kỳ sự trì hoãn nào.

Thứ chín, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục triển khai dự án di dân tái định cư. Vướng việc gì cần báo cáo Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan hỗ trợ;

Thứ mười, phải làm thật tốt công tác truyền thông để tạo sự đồng thuận trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, 7 nội dung đầu tiên sẽ hoàn thành theo lộ trình đã báo cáo. 3 nội dung cuối là phải triển khai luôn.

Chăm chú lắng nghe phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Tổng Bí thư Tô Lâm rất tâm đắc. Ông nói: "Nếu giải quyết tốt vấn đề năng lượng thì đời sống của nhân dân Ninh Thuận sẽ rất tốt. Đối với điện hạt nhân thì không phải ở đâu cũng làm được, vì vậy, Bộ Công Thương cần phải tham mưu cụ thể về vấn đề truyền tải điện. Chúng ta không sợ dư thừa, phải huy động mọi nguồn lực, thậm chí cả tư nhân để phát huy hết tiềm năng, lợi thế của Ninh Thuận. Điện hạt nhân thì phải là điện công nghệ số, biến đây trở thành trung tâm. Tương lai ở đây là rất sáng, phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương rất ủng hộ việc phát triển này” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Tổng Bí thư đánh giá cao phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên. Những nội dung đó theo Tổng Bí thư là sát thực tiễn và gợi mở nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế, xã hội. “Những ý kiến, kiến nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương rất hay, rất sáng”- Tổng Bí thư Tô Lâm nói.

Hành trình 30 năm đi tìm ‘vùng đất hứa’

Tình cờ bên bờ biển Phước Dinh, chúng tôi gặp TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, người đã gắn bó với hành trình hơn 30 năm hiện thực hoá ước mơ điện hạt nhân.

Anh tâm sự: Chương trình phát triển điện hạt nhân được ấp ủ vào những năm 1970, nhưng tới giai đoạn 1996-2009 mới được nghiên cứu một cách nghiêm túc, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và nhu cầu điện rất cao.

Tại thời điểm 2008 khi lập đề án, Chính phủ tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế được dự báo tăng 9-10%, kéo theo nhu cầu tăng trưởng điện 17-20%, tương tự như hiện nay.

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Vinatom), Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chuẩn bị nguồn chuyên gia kỹ thuật, gần 100 người được Viện cử đi học thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài thông qua xin học bổng, sang Liên bang Nga, Nhật, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ. Ngoài nhóm này, còn có khoảng 450 sinh viên, kỹ sư đi học ở Nga và Nhật Bản theo chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đào tạo chuyên của EVN, gồm đào tạo đại học về điện hạt nhân, nâng cao trình độ, đào tạo cán bộ chủ chốt về công nghệ và an toàn nhà máy điện hạt nhân...

Trở lại với vấn đề tìm nơi đặt nhà máy điện hạt nhân, để hỗ trợ các nước thành viên trong công tác lựa chọn địa điểm, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đã xây dựng và ban hành một Quy trình chặt chẽ về tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn địa điểm xây dựng với 3 công đoạn sau:

Công đoạn 1: Thăm dò địa điểm.

Công đoạn 2: Đánh giá địa điểm.

Công đoạn 3: Nghiên cứu bổ sung trước và sau khi vận hành.

Trong giai đoạn 1996-2000, dự án "Nghiên cứu tổng quan phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam" triển khai và giai đoạn 2001-2007, tiếp tục dự án "Nghiên cứu tiền khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam".

Trong giai đoạn 2011-2015, các đối tác là ROSATOM (Liên bang Nga) và Jined (Nhật Bản) triển khai thực hiện trong dự án "Nghiên cứu khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam".

Ban đầu, các nghiên cứu tìm ra được 20 địa điểm tiềm năng xây dựng nhà máy trên hàng chục tỉnh, thành. Trên cơ sở 20 địa điểm tiềm năng này, lựa chọn ra được 10 địa điểm có xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận và Xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

Mười địa điểm tiềm năng này đã được đưa vào "Báo cáo quy hoạch địa điểm xây dựng các dự án nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam" và trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.

Tại Quyết định số 906/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chinh phủ về quy hoạch định hướng phát triển điện hạt nhân, sau khi xem xét và đánh giá, chỉ có 8 địa điểm được đưa vào quy hoạch.

Như vậy, quá trình tìm kiếm địa điểm để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam đã được triển khai từ gần 30 năm trước. Quá trình nghiên cứu tìm kiếm, phân loại, đánh giá địa điểm đã được triển khai công phu, bài bản trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và xuyên suốt thời gian dài theo đúng các quy định, hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và kinh nghiệm của các nước là đối tác của Việt Nam và cũng đã tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng.

Với các phương án khác nhau, địa điểm Phước Dinh luôn đứng đầu, có điểm cách biệt và thực sự đã được lịch sử lựa chọn cho tới hôm nay.

Điều đất nước cần trong kỷ nguyên vươn mình

Trong câu chuyện chia sẻ với chúng tôi về điều Tổng Bí thư Tô Lâm tâm huyết, sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân, TS. Trần Chí Thành kể về lần tham dự lễ kỷ niệm 70 năm Nhà máy điện hạt nhân Obninsk (LB Nga) gần đây. Năm nay thế giới kỷ niệm 70 năm điện hạt nhân ra đời và nhà máy này nay đã trở thành một bảo tàng, một chứng tích lịch sử về sự phát triển vĩ đại và an toàn của điện hạt nhân trong thế giới đương đại.

Obninsk ngày nay là một thành phố khá thịnh vượng của nước Nga, với nhiều tiềm lực công nghệ và các nhà máy của Công ty Máy tính Kraftway, Công ty Xây dựng Kỹ thuật Luyện kim Rautaruukki, Công ty Dược phẩm Hemofarm, Công ty Lotte Confectionery… Nhưng vào những năm 1940, khi nhà máy mới ra đời và cả sau này vào đầu những năm 1950, không chỉ nỗi nghi ngờ xuất hiện khắp nơi nơi, khiến các chuyên gia cũng thận trọng trước hạt nhân.

Khi Liên Xô tổ chức họp báo, công bố về nhà máy điện hạt nhân, ngay cả Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) cũng rất ngạc nhiên, không nghĩ Nhà máy Obninsk có thể nối lưới điện.

Suốt mấy chục năm, trong quá trình vận hành của mình, Obninsk chưa khi nào gây ra những sự cố rò rỉ ảnh hưởng đến môi trường và người dân sống ở thành phố này. Cả một hệ sinh thái khoa học đã được xây dựng ở Thành phố, với 12 cơ sở nghiên cứu gồm: Viện Kỹ thuật Điện hạt nhân Obninsk, Viện Nghiên cứu Phóng xạ Nông nghiệp và Thú y Nga, Viện Nghiên cứu Khí tượng Nông nghiệp Nga, cùng chi nhánh của các viện nghiên cứu liên bang. Nhà máy không chỉ để cung cấp thêm những hiểu biết hỗ trợ Obninsk và cả ngành năng lượng hạt nhân Nga, mà còn phục vụ nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội thiết yếu (như y học, khí tượng khí hậu, nông nghiệp…).

Tạm biệt biển Phước Dinh với niềm tin và khí thế mới có thể giúp dự án điện hạt nhân đang tăng tốc “một ngày bằng nhiều năm”, tôi ấn tượng mãi với câu nói Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhắc đi nhắc lại trong buổi làm việc tại Ninh Thuận: “Thời gian không chờ đợi ai!”. Tôi cũng suy ngẫm và liên hệ tới bài học từ bảo tàng điện hạt nhân, nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới mà TS Trần Chí Thành chia sẻ.

Khi nhìn lại thành công của nền khoa học hạt nhân cho chúng ta rất nhiều bài học quý giá. Nó khiến mọi người thấy rằng, một nhà máy điện hạt nhân như ở Obninsk hay Phước Dinh có nhiều vai trò lớn đối với một quốc gia, không chỉ là việc cung cấp nguồn điện ổn định và tin cậy mà hơn thế là bước lên những tầm cao hơn của khoa học, công nghệ và quản lý cùng những năng lực khác mà đất nước rất cần trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam!

(Còn nữa)

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng 10:16

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng

“Đánh thức 'giấc mơ ngủ đông' điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng”- bài viết của nhóm tác giả Nguyên Minh - Nguyễn Cường được đăng tải trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Đánh thức "giấc mơ ngủ đông" điện hạt nhân - Bài 1: Giấc mơ lớn qua 3 kỳ Đại hội Đảng

Phát triển điện hạt nhân là con đường tất yếu để đất nước đủ điện cho tăng trưởng GDP hai con số. Thế nhưng giấc mơ này đã "ngủ đông" qua 3 kỳ Đại hội Đảng.

Tổng Bí thư nói về điện hạt nhân trên diễn đàn Quốc hội

undefined
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu trước Quốc hội về Luật Điện lực (sửa đổi) trong đó có vấn đề liên quan đến điện hạt nhân ngày 23/11/2024

Sáng 3/12, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tới Hải Phòng rất sớm để dự chương trình tiếp xúc cử tri tại thành phố năng động và công nghiệp rất phát triển này.

Trước giờ vào hội nghị, đã có nhiều ý kiến cử tri, lãnh đạo thành phố mong muốn được nghe những “câu chuyện mới”, triển vọng mới từ kỳ họp có nhiều quyết sách lịch sử. Với niềm vui xen lẫn hào hứng và xúc động, Bộ trưởng đã chia sẻ về việc Luật Điện lực (sửa đổi) được thông qua trong một kỳ họp, đó thật sự là một kỳ tích, một dấu ấn ngoạn mục mang tính lịch sử để mở đường cho phát triển.

Quyết sách lớn được thông qua có vai trò chỉ đạo sát sao và mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm ngay tại kỳ họp và một trong những điều Bộ trưởng thấy bất ngờ, xúc động nhất chính là những phát biểu, chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về điện hạt nhân. Chính điều này đã cởi bỏ được mối lo luôn canh cánh trong lòng người đứng đầu ngành Công Thương là phải lãnh đạo, điều hành như thế nào để đủ điện cho phát triển.

Đây quả là một bài toán khó, quá khó. Tạp chí Năng lượng, nơi hội tụ nhiều chuyên gia hàng đầu về điện từng có rất nhiều bài viết cảnh báo, khuyến nghị, coi bảo đảm đủ điện cho tăng trưởng kinh tế gần như một nhiệm vụ bất khả thi nếu Việt Nam không có giải pháp mạnh mẽ hơn về điện và hướng tới điện hạt nhân.

Chiều 26/10/2024, một ngày giữa thu tiết trời rất đẹp, lại nhằm ngày thứ bảy cuối tuần đã diễn ra thảo luận ở tổ, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. Tại tổ có Tổng Bí thư Tô Lâm dự, các phóng viên cũng không được thông tin trước là Tổng Bí thư có phát biểu hay không. Vậy mà bất ngờ, Tổng Bí thư phát biểu, dành hẳn thời lượng hàng chục phút cho vấn đề sửa đổi Luật Điện lực, cho những định hướng làm sao đủ điện cho phát triển. Và Tổng Bí thư đã nhắc đến điện hạt nhân với nhiều trăn trở. Ông nhấn mạnh: “Yêu cầu đòi hỏi về hạ tầng năng lượng là một trong những vấn đề dẫn dắt, trụ cột, là một trong những cái điểm đột phá. Bây giờ chúng ta đang đứng thách thức thiếu điện trầm trọng. Vừa qua có một số nhà đầu tư đã tính trước rồi, nếu Việt Nam phát triển như thế này thì độ vài năm nữa là thiếu điện, thôi không đầu tư vào đấy".

Làm thế nào để đáp ứng đủ lực nguồn năng lượng để cho phát triển"?, Tổng Bí thư nêu câu hỏi và nhắc tới mốc năm 2045: “Bây giờ phải điện hạt nhân, thế giới người ta cũng đang làm như thế. Trước đây ta có chủ trương rồi nhưng đấy vì lý do này rút ra, chúng ta tạm dừng lại thì vừa rồi hội nghị Trung ương 10, nhất trí là phải khởi động lại, phải có chủ trương nghiên cứu về vấn đề này để xin ý kiến Quốc hội. Bây giờ có chủ trương ít nhất chục năm nữa mới có nhà máy điện hạt nhân. Phải rất chủ động. Không thể chờ mấy năm định hướng, mấy năm khảo sát, mấy năm mặt bằng, mấy năm tìm công nghệ. Thời gian không cho phép như thế. Chúng ta phải làm rất nhanh, làm đồng bộ các khâu” - Tổng Bí thư chỉ đạo.

Hôm ấy, nghe những chỉ đạo của Tổng Bí thư, Bộ trưởng rất mừng nhưng cũng rất lo lắng vì nhiệm vụ bảo đảm điện cho phát triển ngày càng cao.

Chỉ ba ngày sau, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì cuộc họp với các đơn vị và tập đoàn năng lượng toàn ngành Công Thương để “lên kịch bản”, phân giao nhiệm vụ cung ứng điện năm 2025. Tinh thần “chỉ bàn làm không bàn lùi” được Bộ trưởng nhấn mạnh khi nhắc đến tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp với tiểu ban chuẩn bị dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Tổng Bí thư nêu thông điệp về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, muốn vươn mình phải phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn, tăng trưởng GDP bình quân phải 2 con số. Mà đối với ngành điện, cứ mỗi %GDP tăng trưởng, điện phải phát triển 1,8-2%. Như vậy trong kỷ nguyên vươn mình, điện phải luôn tăng trưởng trên 20%/năm. Đó là một nhiệm vụ, một bài toán cực khó nhưng không thể không hoàn thành.

Bộ trưởng và kỷ niệm đăng đàn bất ngờ

Cùng với Luật Điện lực được sửa đổi kịp thời, một dấu mốc lịch sử nữa của Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XV chính là việc thông qua chủ trương tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

Khoảnh khắc lịch sử quan trọng ấy khiến Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên bồi hồi xúc động nhớ lại kỳ họp Quốc hội cách đây 2 năm. Ông từng bất ngờ được Đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận hỏi quan điểm, giải pháp về điện hạt nhân.

Hôm ấy là chiều 30/5/2022, Quốc hội tiến hành giám sát tối cao “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành đến nay”. Không ai nghĩ sẽ có một câu hỏi liên quan đến Bộ Công Thương hay điện hạt nhân thì bất ngờ đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận phát biểu cho biết: Quốc hội khóa XIV đã có chủ trương dừng thực hiện, đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận vào năm 2016. Thế nhưng gần 14 năm qua, các vấn đề về quy hoạch làm ảnh hưởng tới đời sống, kinh tế của người dân vẫn chưa được giải quyết, gây bức xúc, làm ảnh hưởng tới thu hút đầu tư và phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, người dân mòn mỏi chờ đợi.

Bà Hương kiến nghị Trung ương sớm xem xét, cho ý kiến chính thức về chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Quốc hội, Chính phủ sớm sơ kết việc thực hiện các nghị quyết, giải quyết các vấn đề, vướng mắc và giải quyết kiến nghị của Bộ Công Thương về địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận…

Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa (Đoàn TP. Hồ Chí Minh) đề nghị Quốc hội giải quyết dứt điểm việc này, xóa bỏ quy hoạch dự án phát triển nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.

Trước ý kiến của các đại biểu về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên khá bất ngờ khi được chỉ định phát biểu giải đáp. Vấn đề này cũng đã khá lâu không được đề cập tới. Vậy nên nói thế nào?

Không né tránh, bằng đánh giá phân tích khách quan của người đứng đầu ngành Công Thương, luôn phải lo giải bài toán đủ điện cho phát triển, ông đi thẳng vào vấn đề, nói rõ nghị quyết của Quốc hội là tạm dừng dự án xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, không phải huỷ bỏ. Do vậy, về nguyên tắc không có cơ sở về việc bỏ hoàn toàn dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. "Ninh Thuận là địa điểm đã được các đối tác cũng như các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu rất kỹ lưỡng trong thời gian dài và đã khẳng định đây là địa điểm phù hợp nhất để phát triển điện hạt nhân”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Ở góc độ ngành, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết Bộ Công Thương đã tham mưu Chính phủ về việc cần thiết phải phát triển điện hạt nhân. Bởi lẽ, tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) vừa qua, các quốc gia cam kết về việc phát triển năng lượng sạch (điện mặt trời, điện gió). Nhưng để khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo này nhất thiết phải có một nguồn điện nền ổn định.

“Điện nền hiện nay chỉ có nhiệt điện than hoặc thuỷ điện. Nhưng điện than chúng ta đã không còn điều kiện để phát triển và thủy điện cũng đã hết dư địa. Trong khi đó, chúng ta cần phải thực hiện những gì đã cam kết ở COP26 và phát triển điện hạt nhân cũng là xu hướng tất yếu các quốc gia trên thế giới đang thực hiện”, Bộ trưởng phân tích.

Bộ trưởng cũng chia sẻ thêm, 3 năm trước, Hoa Kỳ và Đức là hai quốc gia đã giảm điện hạt nhân nhưng đến nay đã phải xây dựng lộ trình để phát triển mạnh hơn loại hình này, làm cơ sở khai thác và phát triển năng lượng tái tạo.

Do vậy, Bộ trưởng cho hay, “chúng tôi đã phải kiên trì kiến nghị với Chính phủ và Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về quy hoạch địa điểm phát triển điện hạt nhân ở Ninh Thuận, chờ đến khi cấp có thẩm quyền quyết định tiếp tục hay không tiếp tục..."; "Không có địa điểm nào phù hợp hơn phát triển ở đây", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Giấc mơ lớn ‘ngủ đông’ cần đánh thức

Năm nay thế giới kỷ niệm 70 năm điện hạt nhân ra đời. Thế giới hiện nay có rất nhiều nước quan tâm phát triển điện hạt nhân. Nhóm các quốc gia tiếp tục coi trọng điện hạt nhân trong chính sách năng lượng của mình như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Một số quốc gia có sự thay đổi chính sách đối với điện hạt nhân như Đức, Thụy Điển, Ấn Độ. Một số quốc gia mới nổi, lần đầu tiên xây dựng và vận hành Nhà máy điện hạt nhân như UAE, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh. Một số quốc gia quan tâm đến điện hạt nhân ở khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan…

Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), tại hội nghị khí hậu COP28 kết thúc vào tháng 12 năm 2023, hơn 20 quốc gia đã ký một tuyên bố chung để tăng gấp ba lần công suất năng lượng hạt nhân đến năm 2050. Châu Á vẫn là động lực chính của sự tăng trưởng trong năng lượng hạt nhân, với tỷ lệ của khu vực này trong sản xuất điện hạt nhân toàn cầu dự kiến sẽ đạt 30% vào năm 2026. Châu Á dự kiến sẽ vượt qua Bắc Mỹ trở thành khu vực có công suất hạt nhân lắp đặt lớn nhất vào cuối năm 2026.

Nhưng ở Việt Nam, giấc mơ điện hạt nhân vẫn dang dở dù được khởi động từ hơn 30 năm trước

Nhiều người nhớ mốc lịch sử ngày 25/11/2009, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 41/2009/GH12 về chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận với tổng mức đầu tư dự toán khoảng 200 nghìn tỷ đồng (theo thời giá lập dự toán năm 2008). Theo đó, Việt Nam dự định xây dựng 2 nhà máy có tổng công suất trên 4.000 MW sử dụng công nghệ lò nước nhẹ cải tiến, thế hệ lò hiện đại nhất đã được kiểm chứng, dự định sẽ đưa tổ máy thứ nhất vận hành vào năm 2020. Công nghệ dự định xây dựng và sử dụng cho hai nhà máy điện hạt nhân được chuyển giao từ Nga và Nhật Bản, hai quốc gia hàng đầu về công nghệ điện hạt nhân.

Tuy nhiên, sau đó, dự án xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận đã được Quốc hội bỏ phiếu thông qua Nghị quyết dừng vào năm 2016 trên cơ sở xem xét, cân nhắc rất kỹ lưỡng điều kiện kinh tế của Việt Nam tại thời điểm đó. Cụ thể theo Văn phòng Chính phủ, tình hình phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam tại thời điểm năm 2016 có nhiều thay đổi so với thời điểm quyết định chủ trương đầu tư dự án năm 2009. Do đó, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ là xem xét lại các dự án ưu tiên để quyết định, triển khai cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội là tập trung dồn nguồn lực để triển khai các dự án trọng điểm quốc gia, chú trọng đầu tư phát triển các dự án cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại có mức độ ưu tiên.

Sau thời gian dài “ngủ đông”, điện hạt nhân hầu như ít được nhắc đến nếu không có sự kiện hai kỳ họp Quốc hội mà chúng tôi nêu ở trên.

Đúng như Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhiều lần phát biểu về quan điểm nhất quán, tại dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (dự thảo Quy hoạch điện VIII), Bộ Công Thương chủ động đề cập tái khởi động dự án điện hạt nhân để xem xét cho giai đoạn sau năm 2030.

Đó là một mốc thời gian phù hợp nhưng giấc mơ điện hạt nhân hẳn sẽ vẫn còn ngủ đông, sẽ khó đột phá nếu không có tầm nhìn xa của những người đứng đầu.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân 12:17

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân

“Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân”- Bài viết của nhóm PV Báo Công Thương được đăng tải tại trang web congthuong.vn là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với tỉnh Ninh Thuận, nhấn mạnh tái khởi động điện hạt nhân

Ngày 5/12, Tổng Bí thư Tô Lâm cùng Đoàn công tác Trung ương đã thăm, làm việc với Tỉnh ủy Ninh Thuận về kinh tế, xã hội và phát triển dự án điện hạt nhân

Tham gia buổi làm việc của Tổng Bí thư còn có Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Nguyễn Duy Ngọc, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt và lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương. Về phía Ninh Thuận có Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Thanh và các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

undefined
Lãnh đạo một số Bộ, ngành phát biểu giải đáp những kiến nghị của Ninh Thuận

Phát triển điện hạt nhân: Chậm là lãng phí

Phát biểu định hướng tại buổi làm việc, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá cao sự phát triển vươn mình đầy vượt bậc của tỉnh Ninh Thuận và ghi nhận sự nỗ lực cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh trong thời gian qua. Tổng Bí thư nhấn mạnh, kết quả đạt được là đáng mừng, song cũng còn nhiều điểm nghẽn, rào cản, khó khăn, vướng mắc yêu cầu Ninh Thuận phải nhận diện đầy đủ, từ đó tập trung thúc đẩy những lĩnh vực đột phá, mũi nhọn.

Đứng trước những thời cơ, thách thức mới, Tổng Bí thư tin tưởng vào sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ hơn nữa của Ninh Thuận trong việc thực hiện đạt những mục tiêu 2025-2030 và những mục tiêu ở tầm cao hơn. Tổng Bí thư lưu ý năm 2025 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và là năm khởi đầu cho nhiệm kỳ mới 2025-2030 của Đảng bộ tỉnh, do đó cần chú ý cho nhiệm vụ tổ chức đại hội, kế đó là khẩn trương, không được chậm rãi, từ từ chờ Đại hội toàn quốc của Đảng mà nhất định phải đưa nghị quyết của tỉnh vào triển khai ngay, quá trình triển khai vừa tiếp thu, vừa bổ sung, điều chỉnh để Nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và lợi ích mhân dân, để Ninh Thuận phát triển nhanh nhất, bền vững nhất.

Chính vì vậy, thông qua buổi làm việc này, Tổng Bí thư muốn lắng nghe Ninh Thuận đưa ra những phương hướng, giải pháp về phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cùng với đó nhận diện được những khó khăn, thách thức cũng như lĩnh vực quan tâm đột phá.

Với tinh thần “cùng gánh vác, cùng tháo gỡ”, Tổng Bí thư đề nghị các Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Thuận thẳng thắn nêu lên những khó khăn, kiến nghị những vấn đề vượt tầm giải quyết của tỉnh để đoàn công tác Trung ương giải đáp cũng như trao đổi, tiếp thu nghiên cứu đề xuất Bộ Chính trị, Quốc hội chỉ đạo, tháo gỡ những vấn đề cụ thể… Thông qua đó, Ninh Thuận có thể tiếp thu, đề xuất những vấn đề với Trung ương. Những khó khăn này phải được tháo gỡ ngay “như đoàn xe đang đi nhưng vướng hòn đá thì phải xuống xe khênh đi, không thể đứng lại chờ đợi mà phải đi luôn. Một việc bé nhưng không tháo thì sẽ gây ra ùn tắc. Làm nhanh, làm tốt, xong việc này để làm ngay các việc khác” – Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Tổng Bí thư cũng cho biết, vừa qua, Trung ương, Quốc hội đã thống nhất khởi động lại Nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Thông qua buổi làm việc này, Tổng Bí thư muốn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, mong muốn gì của nhân dân Ninh Thuận. “Chủ trương đã có, nhân dân đồng tình thì phải bắt tay vào làm, xây dựng kế hoạch chuẩn bị triển khai đạt hiệu quả, chậm là lãng phí. Nhân dân đã đồng lòng ủng hộ cao thì phải tập trung giải quyết dứt điểm mối bận tâm của nhân dân để khơi thông nhanh cho dự án. Mong muốn sao Ninh Thuận phát triển nhanh nhất, đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước” – Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Báo cáo với Tổng Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận Nguyễn Đức Thanh cho biết: Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV trong bối cảnh có những thuận lợi, thách thức đan xen. Qua 5 năm thực hiện, ước thực hiện hoàn thành 16 /18 chỉ tiêu đề ra, kinh tế-xã hội của tỉnh duy trì ổn định và tăng trưởng khá, quy mô nền kinh tế được mở rộng đáng kể, tăng hơn 1,7 lần so với đầu nhiệm kỳ, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt gần 9% thuộc top đầu cả nước (riêng năm 2024, kinh tế tăng trưởng khá, đạt 8,74%, xếp vị thứ 4/14 tỉnh khu vực; 16/63 tỉnh thành phố). GRDP bình quân đầu người đến cuối năm 2023 đạt 88,2 triệu đồng/người, thu hẹp nhanh khoảng cách chênh lệch so với cả nước và trong vùng, đứng thứ 24/63 tỉnh, thành và đứng thứ 3/14 vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung , đưa Ninh Thuận từ tỉnh khó khăn của cả nước lên tỉnh có thu nhập trung bình. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp; khai thác hiệu quả được nhiều tiềm năng thế mạnh. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển khá toàn diện. Dịch vụ, du lịch phục hồi, lượng khách du lịch đến tỉnh tăng mạnh, đến cuối năm 2024 đạt 3,4 triệu lượt, gấp gần 3 lần so với năm 2020. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện tích cực; năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được cải thiện đáng kể, huy động nguồn lực đầu tư đạt kết quả tích cực. Kết cấu hạ tầng thiết yếu liên vùng, kết nối, liên thông đa mục tiêu được tập trung đầu tư.

Về dự án phát triển điện hạt nhân, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận cho biết: Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 41/2009/QH12, ngày 25/11/2009, xác định quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam và Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải. Tổng diện tích quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, 2 là 1.642,22 ha, ảnh hưởng, tác động đến gần 4.000 người/1.100 hộ.

Sau khi công bố quy hoạch địa điểm, Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh Ninh Thuận đã tập trung tuyên truyền vận động. Vì vậy, đa số nhân dân vùng dự án đã chấp hành nghiêm túc chủ trương của Đảng và Nhà nước, đồng lòng tự nguyện chấp thuận di dời, bàn giao mặt bằng. Tỉnh chỉ đạo hoàn thành công tác đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường tại địa điểm Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, các khu tái định canh, định cư, khu nghĩa trang, với tổng diện tích 479 ha/1.029 ha; đồng thời triển khai 10 dự án thành phần phục vụ tái định cư. Đồng thời, tỉnh Ninh Thuận cũng cử 88 học sinh, sinh viên tham gia học tập ngành công nghệ hạt nhân tại Liên Bang Nga. Đến nay có 44 em về nước được Tập đoàn Điện lực Việt Nam giới thiệu việc làm; 29 em tự tìm việc làm; 15 em chưa về nước.

Đối với việc thực hiện dừng chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận nêu rõ: Ngày 26/11/2016, Quốc hội ban hành Nghị quyết 31/2016/QH14 dừng thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; chủ trương này đã làm thay đổi các kịch bản tăng trưởng và phát triển của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và các công trình phúc lợi công cộng trên địa bàn 02 xã Phước Dinh và xã Vĩnh Hải và vùng lân cận bị xuống cấp do không được đầu tư chờ bàn giao chuyển đi nơi ở mới. Nhân dân trong vùng dự án gặp nhiều khó khăn, trải qua thời gian dài chờ đợi, mong mỏi sớm được về nơi ở mới, ổn định đời sống-sản xuất. Tỉnh đã tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân, tuyên truyền đến cán bộ, công chức, đảng viên, các hội đoàn thể chính trị và nhân dân hiểu rõ hơn về chủ trương dừng thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận của Quốc hội. Thông qua đó đã giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc của người dân, tạo đồng thuận cao với chủ trương của Nhà nước.

Để hỗ trợ đời sống nhân dân và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh do tác động chủ trương dừng đầu tư 2 nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP ngày 31/8/2018 thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh Ninh Thuận phát triển kinh tế-xã hội, ổn định sản xuất, đời sống nhân dân giai đoạn 2018-2023. Qua 5 năm thực hiện, kết quả triển khai một số chính sách đóng góp tích cực, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Trung ương hỗ trợ nhiều nguồn lực hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu như giao thông ven biển, hạ tầng đô thị, thuỷ lợi, hạ tầng để phục vụ hỗ trợ khôi phục sản xuất, đời sống nhân dân hai vùng dự án.

Chủ trương xây dựng Ninh Thuận trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước đã tạo động lực mới đột phá, phát triển kinh tế của tỉnh, đến cuối năm 2024 đã đưa vào vận hành thương mại (COD) 57 dự án với tổng công suất 3.749,942 MW, cao nhất cả nước, chiếm 18% tổng công suất toàn quốc; tỷ trọng ngành năng lượng chiếm 24,6% GRDP của tỉnh, đóng góp trên 25% tổng thu ngân sách tỉnh, giải quyết việc làm khoảng 4.150 lao động” – Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận cho biết.

Song song với đó, tiềm năng, vị thế của Ninh Thuận được cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao. Hạ tầng kinh tế-xã hội được đầu tư ngày càng động bộ, liên thông, cơ bản đáp ứng cho yêu cầu phát triển. Ninh Thuận đã phê duyệt Đề án ổn định sản xuất, đời sống nhân dân và phát triển khu dân cư đối với các vị trí trước đây quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, quy hoạch chuyển đổi đất đai, tạo điều kiện ổn định sản xuất nhưng vẫn bảo đảm chủ trương giữ vị trí đã quy hoạch bảo đảm thuận lợi để thu hồi khi tái khởi động nhà máy Điện hạt nhân trong tương lai.

Để dự án điện hạt nhân nhanh chóng triển khai, tỉnh Ninh Thuận kiến nghị Trung ương sớm xác định lộ trình xây dựng nhà máy Điện hạt nhân; điều chỉnh đồng bộ Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch điện VIII, các Quy hoạch ngành quốc gia về phát triển Điện hạt nhân; hoàn thiện hệ thống pháp luật về điện hạt nhân như: (i) Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) để đồng bộ với Luật chuyên ngành về xây dựng, điện lực, bảo vệ môi trường; (ii) Hệ thống các tiêu chí, quy chuẩn kỹ thuật về đầu tư điện hạt nhân để có cơ sở pháp lý triển khai các công việc tiếp theo.

Cùng với đó, Ninh Thuận cũng đề nghị Trung ương cho chủ trương để tỉnh sớm điều chỉnh Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bổ sung định hướng phát triển Nhà máy điện hạt nhân; lựa chọn phương án phát triển các ngành, lĩnh vực; bố trí lại không gian, phân bổ, khoanh vùng đất đai; tính toán lại kịch bản phát triển; đồng thời điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng vùng phát triển Điện hạt nhân để bảo đảm điều kiện triển khai.

Đồng thời, trên cơ sở lộ trình triển khai dự án các nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận, cho phép tỉnh chủ động tiến hành khảo sát, lấy ý kiến, xác định tâm tư, nguyện vọng Nhân dân vùng dự án; tăng cường công tác tuyên truyền thông tin, vận động tạo đồng thuận Nhân dân khi dự án được triển khai. Tiếp tục đồng ý cho tỉnh xây dựng cơ chế đặc thù phát triển kinh tế-xã hội của địa phương có Nhà máy điện hạt nhân, trong đó ưu tiên cơ chế phát triển nhân lực, hạ tầng trọng điểm.

Với những khó khăn của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đang gặp phải, lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận đề nghị Bộ Chính trị sớm cho ý kiến, có cơ chế xử lý vướng mắc các dự án điện mặt trời, điện gió theo Kết luận 1027/KL-TTCP, ngày 28/4/2023 của Thanh tra Chính phủ, trong đó có dự án điện mặt trời, điện gió của tỉnh Ninh Thuận để tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.

Ninh Thuận hội tụ đủ tiềm năng và lợi thế để trở thành trung tâm năng lượng

Trả lời một số khó khăn, vướng mắc, đề xuất một số giải pháp để Ninh Thuận phát triển nhanh, bền vững như chỉ đạo, định hướng của Tổng Bí thư, đại diện một số bộ, ngành đã có những trả lời cụ thể tại cuộc họp.

Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng dư địa tín dụng tại Ninh Thuận còn rất lớn. Bộ Tài chính ủng hộ việc bổ sung các nguồn vốn cho Ninh Thuận song cần phải đưa ra giải pháp để sử dụng hiệu quả và phát huy vai trò của "đòn bẩy" tài chính. Bên cạnh đó, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã gợi mở giải pháp về hạ tầng, thiếu nước phục vụ cho phát triển công nghiệp của Ninh Thuận.

Trong khi đó, liên quan đến phát triển điện hạt nhân Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết: Trước hết, chúng ta phải tiếp tục hoàn thành hệ thống pháp luật về điện hạt nhân như Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi để đồng bộ với các quy định và nghiên cứu các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn hạt nhân. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đang chủ trì xây dựng, sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử với mục tiêu đồng bộ với các luật chuyên ngành. Về việc cấp phép an toàn, lưu trữ chất thải… của điện hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang xây dựng các quy định liên quan và tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh hợp tác quốc tế.

Đối với kiến nghị về việc đẩy mạnh tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền trong đời sống nhân dân để tạo sự đồng thuận khi dự án triển khai. Bộ rất đồng tình với việc này, hiện Bộ đang phối hợp xây dựng về trung tâm nghiên cứu công nghệ điện hạt nhân, trong đó có truyền thông về lợi ích của điện hạt nhân. Bộ sẵn sàng phối hợp cung cấp thông tin về công dụng của điện hạt nhân tới đông đảo nhân dân. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng chương trình truyền thông về điện hạt nhân.

"Việc phát điện hạt nhân tại Ninh Thuận không chỉ việc phát điện mà còn là cơ hội tốt cho Ninh Thuận ứng dụng công nghệ điện nguyên tử phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội" - Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh.

Phát biểu tại cuộc họp này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cũng đã có báo cáo Tổng Bí thư về tổng quan phát triển năng lượng, trong đó có phát triển điện hạt nhân và khẳng định: Ninh Thuận hoàn toàn có thể phát triển năng lượng tái tạo trong tương lai gần để trở thành trung tâm năng lượng của cả nước.

Báo Công Thương sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về buổi làm việc...

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm 5:26

Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm

“Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm”- Bài viết của tác giả Mạnh Hùng được đăng tải trên báo điện tử Đảng Cộng Sản tại trang web dangcongsan.vn, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Sắp xếp tổ chức bộ máy là việc khó nhưng không thể không làm

Sáng 4/12, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Chính phủ quán triệt, triển khai về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ.

undefined
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Chính phủ quán triệt, triển khai về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW

Hội nghị được Chính phủ tổ chức ngay sau Hội nghị toàn quốc ngày 1/12 quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ trong bối cảnh hiện nay, chúng ta vừa phải hoàn thành các nhiệm vụ năm 2024, vừa rà soát để hoàn thành nhiệm vụ cả nhiệm kỳ, vừa thực hiện tổ chức sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Nhấn mạnh Trung ương đã làm rất bài bản, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai, Thủ tướng cho biết Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và tiến hành phiên họp đầu tiên.

Theo Thủ tướng, sắp xếp tinh gọn bộ máy là việc khó, thậm chí rất khó nhưng không làm không được và khó mấy cũng phải làm, vì hiện bộ máy còn cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, nhiều cấp hành chính, dẫn tới nhiều công việc ách tắc.

Trước nhiệm vụ khó, nặng nề, thời gian ngắn, yêu cầu cao, công việc phức tạp, nhạy cảm, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ trưởng, trưởng ngành phát huy tinh thần trách nhiệm, cùng cấp ủy và các cơ quan thuộc bộ, ngành quán triệt, tổ chức thực hiện thật tốt, bảo đảm khoa học với lộ trình, bước đi phù hợp, hiệu quả.

Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy lần này cần gắn với phát huy trách nhiệm cá nhân của từng thành viên Chính phủ, các bộ trưởng, trưởng ngành, cá nhân lãnh đạo các cơ quan; gắn với việc tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, với việc lựa chọn cán bộ đúng, trúng, phát huy trách nhiệm cá nhân của mỗi người với nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Song song với đó, phải làm tốt công tác tư tưởng, thống nhất ý chí để cùng hành động, cùng làm, "Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, thì chỉ bàn làm, không bàn lùi".

Về thời gian, cách làm, phương pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan quán triệt tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ, khẩn trương thành lập Ban chỉ đạo với tổ giúp việc của bộ, ngành mình để tổ chức thực hiện tổng kết Nghị quyết 18 và phát huy tinh thần chủ động trong sắp xếp theo lộ trình của Trung ương và hướng dẫn chung. Các bộ trưởng dành thời gian, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thật tốt công tác này.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng lưu ý, cần vừa sắp xếp tổ chức Đảng, vừa sắp xếp hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, làm đồng thời theo định hướng của Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ. Quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy vừa phải hoàn thành nhiệm vụ chính trị, vừa tổng kết năm 2024, do đó, phải phân công nhiệm vụ cụ thể của lãnh đạo các bộ, ngành trên tinh thần phát huy tối đa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cá nhân.

Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu căn cứ chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nội vụ lên kế hoạch cụ thể để các bộ, ngành thực hiện. Các bộ, ngành phối hợp với Bộ Nội vụ giải quyết các vấn đề phát sinh, báo cáo ngay các vấn đề vượt thẩm quyền. Các Phó Thủ tướng theo lĩnh vực phân công chủ động làm việc với các bộ, ngành để triển khai và kiểm tra công việc thường xuyên. Ban Chỉ đạo của Chính phủ họp hằng tuần để triển khai công việc, nắm bắt tình hình và xử lý các vướng mắc.

Về phương án sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Thủ tướng yêu cầu bám sát Nghị quyết 18, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương và lưu ý một số nội dung: Mục tiêu chung là hoàn thành sớm việc xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan phù hợp, hiệu quả, tinh gọn, sử dụng đội ngũ cán bộ tinh nhuệ hơn; tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, giảm bớt khâu trung gian, cơ bản kết thúc mô hình tổng cục trực thuộc các Bộ; lựa chọn tên gọi các bộ, cơ quan ngắn gọn, bao quát chức năng, nhiệm vụ, vừa có tính lịch sử, kế thừa, nhất là các bộ hợp nhất.

Với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thì cần tổng kết, phát huy các mô hình thành công đã có, nghiên cứu, lựa chọn mô hình phù hợp để làm tốt việc quản lý vốn, phát triển vốn Nhà nước và tập trung cho đầu tư, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp nhà nước dựa trên hiệu quả tổng thể.

Thủ tướng cũng yêu cầu thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, bảo đảm chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi thực hiện sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật không để khoảng trống pháp lý và xây dựng phương án để khi sắp xếp xong thì bắt tay ngay vào công việc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị các cơ quan truyền thông dành nhiều thời lượng, đẩy mạnh thông tin về những đơn vị làm tốt, các mô hình hay; đẩy mạnh tuyên truyền về các thành tựu, kết quả phát triển đất nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính một lần nữa đề nghị phát huy tinh thần trách nhiệm của các đồng chí Trung ương, bộ trưởng, trưởng ngành, nếu người đứng đầu gương mẫu làm tốt thì cấp dưới sẽ tin tưởng và lan tỏa tinh thần xuống toàn bộ các cơ quan, điều quan trọng nhất là vì lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nêu giải pháp thúc đẩy công nghiệp, thương mại, xuất khẩu vùng Đông Nam Bộ 5:36

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nêu giải pháp thúc đẩy công nghiệp, thương mại, xuất khẩu vùng Đông Nam Bộ

Để tạo động lực mới thúc đẩy Công nghiệp, thương mại, trong đó có xuất khẩu của Vùng, ngoài việc tập trung khắc phục các hạn chế như nêu ở trên, cần quan tâm theo dõi sát tình hình thị trường XK năm 2025, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, được dự báo là gặp nhiều khó khăn do sức cầu phục hồi chậm và các chính sách mang tính bảo hộ cao. Trong bối cảnh đó, dưới góc độ ngành Công Thương, tôi xin đề xuất một số nhóm giải pháp trọng tâm sau:

Một là nhóm giải pháp về thể chế, chính sách, tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng ĐNB đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại QĐ 1325 ngày 04/11/2024 để xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án, cơ chế, chính sách cụ thể, đủ mạnh và khả thi. Đồng thời, mỗi địa phương trong Vùng cần chủ động rà soát, cập nhật và nếu cần thiết, đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung QH tỉnh, thành phố nhằm bảo đảm phù hợp, liên thông với QH tổng thể quốc gia, QH vùng và các QH ngành quốc gia; đồng thời, rà soát, bổ sung QH, KH sử dụng đất của địa phương, phù hợp với QH cấp tỉnh để có đầy đủ cơ sở pháp lý, sẵn sàng tiếp nhận, triển khai các dự án đầu tư, tạo động lực tăng trưởng mới.

Làm tốt công tác quán triệt và triển khai sớm, hiệu quả các chủ trương, chính sách mới, có tính đột phá của Đảng, Nhà nước về phát triển KTXH (có hiệu lực thi hành từ cuối năm 2024 và đầu năm 2025), nhất là các cơ chế đặc thù đối với TP Hồ Chí Minh và các Luật, cơ chế, chính sách mới được ban hành, như: (i) Các luật về đầu tư, tài chính ngân sách, đất đai, Luật điện lực; (ii) Các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; (iii) Đặc biệt là các chính sách đột phá mới ban hành trong lĩnh vực năng lượng như cơ chế mua bán điện trực tiếp, cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản tự tiêu... tạo dư địa phát triển kinh tế Vùng và mỗi địa phương.

Thứ hai là nhóm giải pháp về hạ tầng, sớm hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp và khu công nghiệp chuyên biệt, phát huy thế mạnh công nghiệp khai thác, lọc hóa dầu; phát triển năng lượng tái tạo để đảm bảo ANNL và hỗ trợ XK xanh; công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp bán dẫn, tự động hóa, công nghiệp môi trường, chế biến sâu nông-thủy sản; phát triển mạng lưới logistics, các trung tâm trung chuyển và kho vận hiện đại gắn với cảng hàng không quốc tế Long Thành, trung tâm trung chuyển quốc tế tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. HCM nhằm khai thác triệt để lợi thế về vận tải đa phương thức đồng bộ gồm cả đường biển - hàng không - đường sắt - đường thủy nội địa - đường bộ thúc đẩy giao thương nội vùng, liên vùng và quốc tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu quốc tế tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước.

Thứ ba là nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ các ngành công nghiệp trọng điểm, có thế mạnh của Vùng; ưu tiên phát triển một số trường đại học lớn, đa ngành và trường cao đẳng nghề trọng điểm cấp Vùng và cả nước để nâng cao năng lực đào tạo, nghiên cứu, phát triển KHCN (nhất là các công nghệ cơ bản) và xây dựng các chương trình đào tạo đạt chuẩn khu vực và quốc tế; gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động để hình thành đội ngũ người lao động tinh thông nghiệp vụ, có tay nghề, kỹ năng và tính chuyên nghiệp cao.

Thứ bốn là nhóm giải pháp về thu hút đầu tư, gắn với lợi thế nổi trội của vùng, phù hợp với định hướng tại Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và QH vùng, QH các địa phương và các QH ngành quốc gia đã được TTCP phê duyệt. Trong đó, tập trung phát triển mạnh các ngành CN hiện đại, có lợi thế cạnh tranh (như: CN chế biến, chế tạo, điện tử, CN công nghệ số) và ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, có tính “dẫn đường” (như: Sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp NLTT, vật liệu mới); phát triển thị trường nguyên phụ liệu, CN hỗ trợ. Chú trọng thu hút đầu tư từ các tập đoàn lớn, đa quốc gia có năng lực công nghệ cao, đứng đầu các chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, cần tạo lập cơ chế khuyến khích và ràng buộc để các doanh nghiệp FDI có sự lan tỏa, hỗ trợ DN trong nước cùng phát triển một cách thực chất; đồng thời, tạo điều kiện cho các DN trong nước vươn lên, đủ khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ hiện đại và kỹ năng quản trị tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tự chủ, thích ứng, sức chống chịu cao trước biến động của thị trường.

Thứ năm là nhóm giải pháp về phát triển thương mại, thúc đẩy XK, gắn với xây dựng thương hiệu bền vững, tập trung hoàn thiện hạ tầng thương mại (gồm cả thương mại truyền thống và thương mại hiện đại); tận dụng tối đa cơ hội của các FTA mà nước ta là thành viên (điển hình như Hiệp định thương mại tự do VN-UAE, ngay sau khi TTgCP chứng kiến lễ ký Hiệp định ngày 28/10 vừa qua, Bộ Công Thương đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục để Hiệp định có hiệu lực giúp các DN sớm khai thác ưu đãi, thâm nhập thị trường nhiều tiềm năng ở Trung Đông-Châu Phi và khối thị trường Halal. Nhiều sản phẩm chủ lực của Vùng đều được UAE ưu đãi lớn, cần tập trung khai thác như nông sản (hạt điều, hạt tiêu, mật ong), thủy sản, dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ...). Các địa phương trong Vùng cần tập trung khai thác chú trọng thực hiện Đề án XK chính ngạch, gắn với quy hoạch vùng trồng, vùng nuôi, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kết hợp với việc xây dựng, bảo vệ thương hiệu sản phẩm tại thị trường trong nước và quốc tế, chú trọng phát triển kinh tế biên mậu, kết hợp thương mại-du lịch để thúc đẩy XK tại chỗ.

Quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng 13:48

Quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng

Bài viết của tác giả Thanh Bình được đăng tải trong chuyện mục ngành công Thương trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Báo Công Thương điện tử, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng

Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu nội dung Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII; báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng của năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế.

undefined
Các đại biểu tham dự Hội nghị - Ảnh: Phạm Cường

"Thưa các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng,

Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị tại các điểm cầu toàn quốc,

Hôm nay, mặc dù là ngày Chủ nhật nhưng Bộ Chính trị, Ban Bí thư vẫn quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc để: (1) Quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. (2) Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng của năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025. (3) Các giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế để phát triển, điều này cho thấy tính khẩn trương, cấp bách và tầm quan trọng của những vấn đề nêu trên.

Các đồng chí đã được nghe đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội báo cáo về kết quả Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, nhất là kết quả xây dựng pháp luật, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế phát triển đất nước; đồng chí Lê Minh Hưng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương quán triệt, triển khai các nội dung Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII "về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Báo cáo của ba đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đã đề cập tương đối cụ thể đối với từng vấn đề và tôi cho rằng các đồng chí đã hình dung ra những việc cần phải làm trong thời gian tới tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình.

Thưa các đồng chí,

Từ sau Hội nghị Trung ương 10 ngày 20/9/2024 đến nay, cả hệ thống chính trị đã có những chuyển động mạnh mẽ, vận hành với tinh thần mới, vận tốc mới nhằm tạo ra những động lực mới, hiệu năng mới cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Trong khoảng thời gian trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm việc rất khẩn trương, tiến hành hơn 10 phiên họp cho ý kiến giải quyết gần 100 vấn đề lớn theo thẩm quyền, trong đó tháo gỡ cơ bản những tồn đọng, vướng mắc và giải quyết nhiều vấn đề mới phát sinh. Quốc hội - Chính phủ - Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp triển khai rất quyết liệt, nhịp nhàng để tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt, rào cản gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội, cho cuộc sống, sinh hoạt của người dân... Những việc làm trên bước đầu đã tạo sinh lực mới cho nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, trước mắt là phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch của năm 2024 và năm 2025, tạo đòn bẩy để bứt phá, hoàn thành toàn bộ các mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.

Câu hỏi được đặt ra lúc này là chúng ta đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc hay chưa? Câu trả lời là: Đã đủ.

Hiện nay đã là thời điểm, thời cơ; là sự cấp thiết, là đòi hỏi tất yếu khách quan cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hay chưa? Câu trả lời là: Không thể chậm trễ hơn được nữa.

Tôi nghĩ các phát biểu của Thủ tướng Chính phủ, của Chủ tịch Quốc hội và của Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã làm rõ những điều trên. Tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm 3 vấn đề để các đồng chí nghiên cứu, quán triệt:

1. Về kinh tế - xã hội: Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra, chúng ta phải đổi mới tư duy, phải "cởi trói", phải quyết đoán, phải bứt phá, phải vượt lên chính mình. Để vươn tới mục tiêu thu nhập trung bình cao cho người dân vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phải đạt hai con số liên tục trong những năm tiếp theo. Đây là một bài toán rất khó mà chúng ta phải làm. Chỉ có phép giải rút gọn mới ra đáp số kịp thời gian. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội đang tập trung giải quyết những điểm nghẽn và tạo lập những yếu tố nền tảng để đất nước có thể "cất cánh", nhất là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hạ tầng năng lượng, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, cải cách thể chế phát triển, thủ tục hành chính... Trước mắt cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu tăng trưởng GDP của năm 2024 và năm 2025, trong đó phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng 2 con số ngay từ thời gian này, đây là vấn đề chúng ta hoàn toàn có cơ sở để làm được.

Để đạt mục tiêu này, cần tiếp tục tạo đột phá hơn nữa về thể chế phát triển, tháo gỡ hết các khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn để khơi thông mọi nguồn lực và cải cách hành chính mạnh mẽ, kiến tạo môi trường thuận lợi để phát triển. Tôi ghi nhận Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV vừa qua bước đầu có sự đổi mới tư duy sâu sắc trong xây dựng pháp luật, với 7 luật, 4 nghị quyết được thông qua, trong đó có 1 luật sửa 4 luật, 1 luật sửa 9 luật để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên, đây mới là kết quả bước đầu, phía trước còn rất nhiều việc phải làm để khơi thông "điểm nghẽn của điểm nghẽn này". Cần nhận thức rõ, đổi mới thể chế phát triển không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan xây dựng pháp luật, mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và của từng cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng, thực thi pháp luật. Phải có "liều thuốc đủ mạnh" để trị căn bệnh cán bộ làm việc hành chính, máy móc; tiêu cực, nhũng nhiễu, "hành dân", "hành doanh nghiệp", có lợi ích cá nhân thì mới làm, cố tình làm chậm công việc, xin ý kiến lòng vòng, đổ lỗi cho thể chế, đổ lỗi cho sợ trách nhiệm…

Các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã khá đầy đủ. Bây giờ là lúc phải hành động. Trên cơ sở chủ trương, chính sách chung của Đảng, Nhà nước và sự điều tiết của Trung ương, các địa phương phải trăn trở, suy nghĩ "trên chính mảnh đất của mình", phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo để phát triển; từng cơ quan, đơn vị, địa phương phải đặt ra mục tiêu phấn đấu cụ thể để đóng góp vào hoàn thành mục tiêu chung của đất nước. Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần đặt lợi ích chung lên trên hết, mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, đột phá, dũng cảm hy sinh để đất nước phát triển.

Tôi cho rằng ngoài nỗ lực của Đảng, Chính phủ, Nhà nước thì rất cần sự hưởng ứng, vào cuộc của người dân, phải giải phóng sức lao động, sức sản xuất, phải huy động được nguồn vốn vật chất và tinh thần trong Nhân dân và người dân phải cảm nhận được Nhân dân là người hưởng thụ những thành quả đó thì mọi người sẽ chung sức đồng lòng cùng thực hiện. Phát triển kinh tế cần gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm, nhà dột nát... thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

2. Về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV: Đại hội đảng các cấp từ các chi bộ cơ sở, đến cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và các cơ quan Trung ương phải là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, thảo luận về tầm nhìn và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước vươn mình giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã được Trung ương xây dựng công phu, kỹ càng, khoa học. Dự thảo Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới đã được biên tập nhiều lần, đến nay đã đủ điều kiện để gửi đại hội đảng các cấp đóng góp ý kiến. Dự thảo tóm tắt 4 văn kiện này sẽ được gửi đến cấp cơ sở trước ngày 15/12/2024; Dự thảo đầy đủ sẽ gửi đến cấp huyện, cấp tỉnh và các cơ quan Trung ương trước ngày 31/3/2025. Nhiệm vụ của cấp ủy các cấp là sớm tổ chức cho cán bộ, đảng viên, nghiên cứu, đóng góp ý kiến vào các Văn kiện trên. Điều quan trọng là từ nội dung Dự thảo các Văn kiện của Đại hội XIV, cấp ủy các cấp lấy đó làm cơ sở xây dựng nội dung báo cáo chính trị, phương hướng nhiệm vụ công tác cho các văn kiện của cấp mình; xác định cụ thể những mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương mình, đóng góp vào mục tiêu chung của đất nước trong giai đoạn tới. Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức đảng, các nhà khoa học, nhân sĩ, trí thức, các tầng lớp nhân dân để bổ sung, hoàn thiện các Văn kiện để trình Đại hội XIV với tinh thần Văn kiện phải bám sát hơi thở cuộc sống, phải ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện. Văn kiện phải trở thành "Sách giáo khoa", thành "Từ điển" để khi cần thì "tra" vào đó và sẽ thấy ngay "ánh sáng soi đường". Hạn chế tối đa việc phải tiếp tục ban hành các nghị quyết, chỉ thị tiếp theo để thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV.

Cấp ủy các cấp cần tập trung chuẩn bị nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ mới theo đúng các nội dung đã được hướng dẫn, chuẩn bị thật tốt đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu phát triển mới. Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự học hỏi để "nâng mình lên" để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới của đất nước, nếu không đáp ứng được thì tự nguyện đứng sang một bên để người khác làm. Phải hết sức lưu ý khắc phục những "căn bệnh" của công tác cán bộ trước Đại hội như: Người không tái cử thì giữ an toàn, thủ thế, không dám triển khai cái mới; nhân sự dự kiến tham gia cấp ủy khóa mới thì giữ mình, không muốn va chạm, sợ mất phiếu; tính toán cho người thân, người quen, người "cánh hẩu" với mình vào các vị trí lãnh đạo hoặc dùng "thủ thuật tổ chức" để gạt người mà mình không thích... Công tác tổ chức cán bộ là công tác của Đảng, do vậy các cấp ủy đảng phải thực hiện thật nghiêm túc Điều lệ Đảng cũng như các quy định của Đảng, của pháp luật về công tác cán bộ.

3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị: Như Tôi đã đề cập trong một số bài viết, bài nói, đây là vấn đề rất cấp bách, bắt buộc phải làm, càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước vì đã nhiều Đại hội của Đảng từ các nhiệm kỳ trước từng đặt ra vấn đề này, đặc biệt là từ Đại hội XII đến nay. Điều đó cho thấy Đảng đã nhìn ra và thấy cần phải thực hiện nhưng quá trình triển khai chưa đạt mục tiêu đề ra. Đây thực sự là vấn đề khó, thậm chí rất khó vì khi tiến hành tinh gọn bộ máy sẽ liên quan đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và đụng chạm tới lợi ích của một số cá nhân, tổ chức. Do vậy dù đã được chuẩn bị kỹ, bài bản như báo cáo của đồng chí Lê Minh Hưng và nhiều hướng dẫn thực hiện công tác này đã được gửi tới các đồng chí nhưng chắc chắn việc triển khai tại nhiều đơn vị sẽ gặp khó khăn, thậm chí sẽ có cả những lực cản. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiến hành vì muốn có một cơ thể khỏe mạnh, đôi khi chúng ta phải "uống thuốc đắng", phải chịu đau để "phẫu thuật khối u".

Tôi đề nghị các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở phải xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong thực hiện chủ trương này. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đây không chỉ là vấn đề về quy mô hay số lượng, mà sâu xa hơn là phải tạo sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống chính trị. Các đồng chí cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng"; "Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở"; "Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng". Từng cấp, từng ngành bám sát kế hoạch để tổng kết và đề xuất mô hình cơ quan, đơn vị mình bảo đảm đúng tiến độ (bộ, ngành phải hoàn thành trong tháng 12/2024); hướng tới mục tiêu chung là hoàn thành và báo cáo Trung ương Phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong quý I/2025.

Triển khai thực hiện khẩn trương nhưng bảo đảm thận trọng, chắc chắn, giữ vững nguyên tắc, tiếp thu ý kiến từ tổng kết thực tiễn, các chuyên gia, nhà khoa học, kể cả kinh nghiệm nước ngoài... để đề xuất tinh gọn tổ chức bộ máy tối ưu nhất. Thực hiện nghiêm nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; các cơ quan, tổ chức trước đây đã sắp xếp bước đầu, cũng phải rà soát đề xuất sắp xếp lại bên trong; kiên quyết xóa bỏ các tổ chức trung gian; cải cách tổ chức bộ máy phải gắn với quán triệt, thực hiện có hiệu quả các chủ trương về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phân cấp phân quyền mạnh mẽ cho địa phương, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống lãng phí, chuyển đổi số quốc gia, xã hội hóa các dịch vụ công... Yêu cầu chung là bộ máy mới phải tốt hơn bộ máy cũ và đi vào hoạt động ngay; không để ngắt quãng công việc, không để khoảng trống về thời gian, không để bỏ trống địa bàn, lĩnh vực; không để ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của xã hội, của người dân...

Việc tinh gọn tổ chức bộ máy đi đôi với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Tinh giản không có nghĩa là cắt giảm một cách cơ học, mà là loại bỏ những vị trí không cần thiết, giảm những công việc không hiệu quả, từ đó tập trung nguồn lực cho những lĩnh vực then chốt, những con người thực sự xứng đáng và phù hợp. Không để cơ quan nhà nước là "vùng trú ẩn an toàn" cho cán bộ yếu kém. Với yêu cầu cao hơn khi triển khai tổ chức mới, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại cán bộ trước và sau khi sắp xếp lại tổ chức. Từng cơ quan, đơn vị phải thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng do sắp xếp lại tổ chức, bộ máy; bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, không để phát sinh phức tạp. Bộ Chính trị đã có chủ trương tạm dừng việc bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử giữ chức vụ cao hơn đối với các cơ quan, đơn vị thuộc diện dự kiến phải sắp xếp, tinh gọn (trừ những trường hợp thật sự cần thiết); tạm dừng việc tuyển công chức từ ngày 01/12/2024 cho đến khi hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy theo định hướng của Trung ương. Đề nghị cấp ủy các cấp quán triệt, thực hiện tốt nội dung này.

Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng dư luận, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và toàn hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong Nhân dân về chủ trương, yêu cầu, nhiệm vụ tinh gọn tổ chức bộ máy trong tình hình mới. Đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc việc thực hiện chủ trương này; xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng việc sắp xếp tổ chức, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và cơ quan, tổ chức.

Thưa toàn thể các đồng chí,

Công việc phía trước rất bộn bề, khẩn trương. Thời gian không chờ đợi chúng ta. Đất nước đang đứng trước cánh cửa lịch sử bước vào kỷ nguyên vươn mình. Những công việc chúng ta làm hôm nay, sẽ quyết định tương lai. Chậm trễ là có lỗi với Nhân dân. Tôi đề nghị các đồng chí từ Trung ương đến cơ sở có mặt tại Hội nghị hôm nay phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao nhất để hoàn thành sớm việc tinh gọn tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị; góp phần tăng tốc, bứt phá vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2024, 2025 và cả nhiệm kỳ Đại hội XIII; chuẩn bị thật tốt đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng.

Chúc các đồng chí mạnh khỏe và thành công.

Xin trân trọng cảm ơn."

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast -Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử, tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình 12:41

Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử, tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình

Bài viết của tác giả Nguyên Đình được đăng tải trong chuyên mục ngành Công Thương trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Báo Công Thương điện tử, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình: Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử?

Để kế thừa và phát huy sự nghiệp cách mạng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tuyên bố thời điểm tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Từ kinh nghiệm của Việt Nam và thế giới…

Xuyên suốt quá trình sắp xếp bộ máy từ thời kỳ Đổi mới (năm 1986) đến nay, việc sáp nhập những cơ quan trung ương, bao gồm bộ ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lặp đã nhiều lần được thực hiện. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử, bộ máy Chính phủ đều được sắp xếp để phù hợp với thực tiễn.

Chính phủ từng có 36 bộ, ngành trong giai đoạn 1992-1997, sau đó tăng lên 48 đầu mối vào nhiệm kỳ 1997-2002. Sang giai đoạn 2002-2007, số lượng giảm xuống còn 38 đầu mối, gồm 26 bộ và 12 cơ quan thuộc Chính phủ.

undefined
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit

Nhìn lại quá trình lịch sử, Bộ Công Thương cũng là một trong những ví dụ điển hình về tinh thần sắp xếp bộ máy chính trị để tạo động lực phát triển. Cụ thể, Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Quốc dân Kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương) phụ trách các Sở Kinh tế, các Nha chuyên môn: Nha Thường vụ, Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế...

Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit

Để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Công Thương cũng được chia tách, sáp nhập như Bộ Điện lực, Bộ Mỏ và Than; chia Bộ Lương thực và Thực phẩm thành hai bộ: Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực. Sau đó, các cơ quan thuộc ngành Công Thương hiện nay tiếp tục được tách theo lĩnh vực cụ thể như Bộ Ngoại thương và Uỷ ban Kinh tế đối ngoại; sáp nhập Tổng cục Điện tử và Kỹ thuật tin học vào Bộ Cơ khí và Luyện kim,…

Và đến tháng 7/2007, trong cuộc sắp xếp, sáp nhập bộ, ngành theo hướng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ Công nghiệp sáp nhập với Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương. Sự kiện này được diễn ra sau khi nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu tại Lễ bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư khóa X vào cuối tháng 1/2007: "Đối với tổ chức bộ máy của Chính phủ, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo tinh thần cải cách hành chính, bảo đảm tinh gọn và hợp lý hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ trong giai đoạn mới, phù hợp với cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả".

Cũng vào thời điểm đó, Bộ Văn hóa - Thông tin được tách thành 2 ngành, trong đó ngành văn hóa sáp nhập với Ủy ban Thể dục thể thao và Tổng cục Du lịch tạo nên Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch. Bên cạnh đó, Cục Báo chí, Cục Xuất bản được sáp nhập vào Bộ Bưu chính Viễn thông trở thành Bộ Thông tin và Truyền thông.

Sau nhiều lần sắp xếp, sáp nhập, bộ máy Chính phủ đã được giữ ổn định từ nhiệm kỳ 2007 - 2011 đến nay, với 30 đầu mối gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.

Nhìn sang thế giới, việc tinh gọn bộ máy đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Điển hình, Nhật Bản và Trung Quốc là hai quốc gia có hệ thống chính trị, văn hóa và kinh tế khác biệt, nhưng cả hai đều có những nỗ lực đáng chú ý trong việc tinh gọn bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời đại mới.

Năm 2001, Nhật Bản thực hiện một cuộc cải tổ lớn khi số lượng các bộ và cơ quan trung ương giảm từ 128 cục xuống còn khoảng 90 cục. Các bộ có chức năng tương đồng được sáp nhập để tránh chồng chéo. Chẳng hạn, Bộ Y tế và Bộ Phúc lợi sáp nhập thành Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi. Bộ Giao thông và Bộ Xây dựng sáp nhập thành Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch.

Cùng với đó, Nhật Bản ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai chính phủ điện tử từ những năm 2000, giúp giảm bớt các thủ tục giấy tờ phức tạp và cắt giảm nhân sự không cần thiết. Chính phủ quốc gia này cũng đặt ra giới hạn biên chế, đồng thời áp dụng cơ chế đánh giá năng lực để giảm số lượng công chức, tập trung vào chất lượng. Tinh gọn bộ máy giúp Nhật Bản giảm chi tiêu hành chính và tăng hiệu quả quản lý trong các lĩnh vực như phúc lợi, giáo dục và giao thông.

Về Trung Quốc, để tinh gọn bộ máy, quốc gia này đã thực hiện hàng loạt cải cách kể từ cuối thế kỷ XX. Năm 2018, Quốc vụ viện Trung Quốc quản lý một hệ thống khoảng 40 cơ quan bao gồm các bộ và ủy ban. Tuy nhiên, sau cuộc cải cách, Trung Quốc đã tiến hành sáp nhập và giảm số lượng các cơ quan này xuống chỉ còn 26.

Đồng thời, Chính quyền Trung ương Trung Quốc yêu cầu giảm số lượng cán bộ trong các cơ quan chính phủ, đặc biệt ở cấp địa phương. Điều này khuyến khích xã hội hóa một số dịch vụ công.

Từ những ví dụ trong nước và quốc tế, có thể thấy rằng, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là yêu cầu tất yếu của sự phát triển mà còn trở thành yếu tố then chốt giúp tối ưu hóa hiệu quả quản lý và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại. Đối với Việt Nam, quá trình sắp xếp, sáp nhập các bộ, ngành đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và cải thiện khả năng quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những thành tựu này, cần kiên định với mục tiêu xây dựng một bộ máy tinh gọn, hiệu quả, song song với việc ứng dụng công nghệ số và cải cách hành chính, nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thời đại mới.

Trong khi đó, bài học từ Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy rằng, việc xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tránh chồng chéo và lãng phí nguồn lực là yếu tố "sống còn" trong việc tinh gọn bộ máy. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính mà còn nâng cao tính minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, lấy người dân làm trung tâm luôn là kim chỉ nam trong mọi cải cách, bởi cuối cùng, mục tiêu lớn nhất của bộ máy nhà nước chính là phục vụ nhân dân một cách hiệu quả và thiết thực.

Nhìn về tương lai theo thực tiễn tại Việt Nam, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài để xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch và linh hoạt, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

Đến chỉ đạo mang tính lịch sử

Phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 25/11, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu, xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong triển khai chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng". Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở; quyết tâm hoàn thành việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW và báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị trong quý I/2025.

Như vậy, việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống chính trị lần này được nhận định rằng có tính cấp bách, không thể chậm trễ. Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị sẽ được hoàn thành vào quý I/2025. Mốc thời gian này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi chỉ hơn nửa năm nữa, Đại hội Đảng các cấp cơ sở sẽ bắt đầu diễn ra, tiến tới Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIV dự kiến diễn ra vào năm 2026.

Nếu phương án triển khai muộn, việc sắp xếp công tác nhân sự sẽ trở nên phức tạp, đi ngược với quy luật. Triển khai tinh gọn bộ máy trước khi Đại hội Đảng lần thứ XIV diễn ra góp phần giúp hệ thống chính trị đủ điều kiện để bước vào giai đoạn mới, và như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".

Đáng chú ý, tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng", Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở khi thực hiện tinh gọn hệ thống chính trị không có nghĩa là công cuộc sẽ diễn ra một cách cập rập, khó kiểm soát. Mà ngược lại, hoạt động triển khai tinh gọn gấp rút nhưng vẫn đảm bảo thông suốt từ Trung ương đến địa phương, không cầu toàn mà làm tới đâu rút kinh nghiệm tới đó. Điều đó chứng tỏ tính sáng tạo, tính khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc cách mạng lần này.

Vì vậy, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, quá trình thực hiện cần theo dõi để phát hiện, nhân rộng những cách làm hay, hiệu quả, uốn nắn và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh, đảm bảo việc triển khai theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đã đề ra.

Với quyết tâm chính trị cao, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã có tuyên bố mang tính lịch sử về cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị. Mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị của nước ta từ năm 1945 đến nay gồm ba khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng các tổ chức chính trị xã hội.

Cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vẫn sẽ là nguyên tắc bao trùm khi tinh gọn bộ máy. Tuy nhiên, sau hàng chục năm vận hành, hệ thống chính trị đã xuất hiện những tồn tại, một số vấn đề không còn phù hợp với thực tiễn, dẫn tới việc cần soi xét kỹ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức để có những quyết định chính xác, hiệu quả.

Vì cuộc cách mạng có thể đi kèm với những hy sinh lợi ích cá nhân. Nên Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập, nhiệm vụ sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người trong từng tổ chức. Do đó, đòi hỏi sự đoàn kết, quyết tâm cao, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.

Kế thừa và đột phá trong thực hiện nghị quyết của Đảng

Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, việc tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị sẽ bắt đầu bằng việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017. Đây được nhận định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Chủ trương này chỉ ra rằng việc sắp xếp lại hệ thống chính trị để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không chỉ có tính nhất thời, mà là sự kế thừa và phát huy những di sản của sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.

Nghị quyết số 18/NQ-TW tại Hội nghị lần thứ XI Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII cũng là sự đúc kết tỉ mỉ, nhìn nhận rõ, minh bạch tồn tại của hệ thống chính trị. Nghị quyết nêu rằng, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức còn chồng chéo, trùng lặp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý và đồng bộ. Vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ…

Cùng với đó, mặc dù đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương còn bất cập.

Đặc biệt, tinh thần gấp rút thực hiện tinh gọn bộ máy chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm cũng thể hiện sự nhất quán theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết. Cụ thể, nghị quyết nêu rõ việc sắp xếp bộ máy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.

Nhìn lại lịch sử, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vị lãnh tụ V.I. Lênin cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng tổ chức hệ thống chính trị của chế độ mới. Người đã để lại những chỉ dẫn mang tính lý luận, thực tiễn vẫn còn có giá trị thời sự đến ngày nay về tầm quan trọng, tính cấp bách, nguyên tắc, phương hướng, cách thức tiến hành xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.

Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác ngoài tổ chức. Nhưng V.I.Lênin cũng cảnh báo rằng, lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức; rằng “chính ở chỗ này, ở chỗ làm nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất này, mà chúng ta đã gặp nhiều thất bại nhất và mắc nhiều sai lầm nhất”.

Theo nhà lý luận chính trị V.I Lênin, một hệ thống tổ chức có nhiều bê trễ, thậm chí hư hỏng thì không những không thực hiện được mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà còn làm mất lòng tin của quần chúng. Do đó, điều quan trọng là tổ chức cần chọn những người xứng đáng và phải kiểm tra việc chấp hành thực tiễn. Bởi chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì mới có thể quản lý nhà nước hiệu quả.

Như vậy, có thể kết luận rằng, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì hệ thống chính trị cần đảm bảo các yếu tố: Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả như trong bài viết mới nhất của Tổng Bí thư Tô Lâm được truyền thông trong nước và quốc tế dành nhiều lời ca ngợi.

Hoàn thiện hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua việc thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta sẽ tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, dẫn dắt đất nước đi lên, đảm bảo sự phát triển bền vững và thịnh vượng cho quốc gia và nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của mỗi cá nhân và tổ chức.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Khu thương mại tự do đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc 6:00

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Khu thương mại tự do đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định, khu thương mại tự do sẽ đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Sáng ngày 2/12, Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 đã được khai mạc. Sự kiện do Bộ Công Thương phối hợp với UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức.

Sự kiện có sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh; Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu Phạm Viết Thanh. Cùng với đó là hơn 500 đại biểu gồm lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đông Tây Nam Bộ; đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các hiệp hội, doanh nghiệp dịch vụ logistics, sản xuất và xuất nhập khẩu trong và ngoài nước, các chuyên gia và các cơ quan truyền thông, báo chí trên cả nước.

Phát biểu khai mạc sự kiện, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, logistics là ngành dịch vụ được ví như những “mạch máu”của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức hai con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics. Với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc tích cực, hiệu quả của các ban, bộ, ngành và các địa phương; đặc biệt là nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, ngành dịch vụ logistics nước ta đã có những bước phát triển khá mạnh (tăng bình quân 14-16%/năm), từng bước khẳng định được thương hiệu, vị thế của Ngành trong khu vực và thế giới. Năm 2024, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá, xếp hạng thuộc Top 10 thị trường logistics mới nổi; Top 4 thế giới về Chỉ số cơ hội logistics và Top 43 về Chỉ số hiệu quả logistics.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước; chi phí logistics còn cao, năng lực cạnh tranh thấp; sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thiếu tính kết nối về hạ tầng là những “điểm nghẽn” lớn, kìm hãm sự phát triển của dịch vụ logistics thời gian qua. Bên cạnh đó, những biến đổi về địa chính trị và các xu hướng kinh doanh mới (như dịch chuyển chuỗi cung ứng, thương mại điện tử xuyên biên giới, tiêu chuẩn phát triển xanh và bền vững) cùng với sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và dịch vụ logistics nói riêng.

Tiếp nối thành công của các năm trước, Diễn đàn năm nay được tổ chức với chủ đề "Khu thương mại tự do - Giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics" nhằm phát đi thông điệp mạnh mẽ của Chính phủ về việc thu hút, khuyến khích đầu tư, phát triển các Khu thương mại tự do với những chính sách đủ mạnh, khả thi và cơ chế thông thoáng, hấp dẫn để tạo động lực đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và ngành dịch vụ logistics nói riêng. Bởi, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Khu thương mại tự do là một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng và là công cụ hữu hiệu để các quốc gia tận dụng tối đa lợi ích mà quá trình hội nhập mang lại. Thực tế những năm qua, mô hình Khu thương mại tự do đã được nhiều quốc gia (như Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, UAE…) áp dụng rất thành công, giúp giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm và tối ưu hóa dòng chảy hàng hóa, nâng cao năng lực logistics, thu hút đầu tư nước ngoài.

Với vị trí địa lý chiến lược và tiềm năng, thế mạnh về phát triển hạ tầng cảng biển nước sâu, sân bay quốc tế, các đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các khu thương mại tự do quy mô lớn và hiện đại. Bộ Công Thương, với vai trò đầu mối quản lý nhà nước về dịch vụ logistics, đang trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050 ; theo đó, dự thảo Chiến lược đã đề xuất nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt (trong đó có giải pháp về xây dựng Khu thương mại tự do) nhằm hiện thực hoá mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về logistics, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là những nội dung rất quan trọng, có tính thời sự thiết thực không chỉ đối với sự phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam, mà còn quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các đại biểu từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn ở mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, hãy tập trung trao đổi, thảo luận để làm rõ những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân (nhất là nguyên nhân chủ quan); rút ra các bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ logistics ở nước ta thời gian qua, cũng như nhận diện những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; từ đó, hiến kế, kiến nghị với cấp có thẩm quyền về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp dịch vụ logistics phát huy nội lực, tận dụng cơ hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, đón đầu các xu hướng, chính sách thành lập các Khu thương mại tự do tại Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đề xuất các cơ chế chính sách đủ mạnh, khả thi để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các Khu thương mại tự do, tạo động lực đột phá mới thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu 5:20

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu - Bài viết của phóng viên Lan Phương được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu

undefined
Việc cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu lẫn nhau đã được cơ quan thanh tra kết luận là gây đội chi phí, phát sinh nguồn cung ảo trên thị trường (Ảnh minh hoạ: Cấn Dũng)

Bài viết: Một số ý kiến gần đây đã nhầm lẫn, vì việc kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo do thương nhân phân phối mua bán xăng dầu lòng vòng lẫn nhau.

Vừa qua, trên một số hội, nhóm kênh mạng xã hội và truyền thông đưa thông tin chưa chính xác, chưa đầy đủ về kiến nghị cho phép hay không cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau. Để viện dẫn cho kiến nghị nên để thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau, các ý kiến nêu lập luận: Hiện vấn đề số liệu "ảo" về lượng xăng dầu tiêu thụ trên thị trường đã được giải quyết thông qua việc kết nối dữ liệu về tổng nguồn xăng dầu, tiêu thụ, tồn kho xăng dầu… về hệ thống của Bộ Công Thương.

Tuy nhiên, trên thực tế, cách hiểu này chưa chính xác, cần được hiểu đúng như sau:

Đối với quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán xăng dầu lẫn nhau như dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu được Bộ Công Thương xây dựng trình Chính phủ ban hành, qua các bài báo trước, Báo Công Thương đã phân tích rõ ràng rằng, quy định này xuất phát từ thực tế việc mua bán xăng dầu lẫn nhau của thương nhân phân phối thực hiện thời gian vừa qua đã được thanh tra Chính phủ kết luận là gây mua bán lòng vòng, phát sinh thêm khâu trung gian gây đội chi phí.

Các cơ quan quản lý và cả cơ quan pháp luật đã chỉ ra, nút thắt của vấn đề này là thương nhân phân phối hoàn toàn không thể tạo ra nguồn cung mới mà thực tế, họ phải đi mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối. Như vậy, nếu thương nhân phân phối xăng dầu mua bán xăng dầu lẫn nhau, sẽ làm tăng lên một nấc nữa trong hệ thống phân phối xăng dầu, gây đội chi phí. Theo kết luận của cơ quan thanh tra, việc mua bán lòng vòng qua lại đã làm tăng thêm chi phí trong khâu này là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp, là tình trạng đã xảy ra thời gian vừa qua.

Về thông tin cho rằng, các qui định mới về kết nối dữ liệu nguồn trong dự thảo Nghị định hiện nay đã "hoá giải" được con số ảo về số lượng xăng dầu trên thị trường, theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lập luận này chưa chính xác. Bởi lẽ, việc kết nối dữ liệu nguồn chỉ thực hiện với thương nhân đầu mối. Nếu muốn nắm số liệu từ thương nhân phân phối mà vẫn để thương nhân phân phối mua bán xăng dầu của nhau họ sẽ báo cáo số liệu cả từ đầu mối và từ các thương nhân phân phối khác nên số nguồn sẽ bị trùng.

Cần phải nói thêm rằng, việc mua bán xăng dầu giữa các thương nhân phân phối xăng dầu với nhau trên thực tế khiến cho cùng một lượng xăng dầu đưa ra tiêu thụ trên thị trường nhưng lại nằm trong số liệu báo cáo tiêu thụ xăng dầu của nhiều thương nhân phân phối xăng dầu. Khi thương nhân báo cáo số liệu này về Bộ Công Thương, dù là qua kênh nào, cũng tạo nên con số tiêu thụ "ảo" trên thị trường, gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát nguồn cung, điều tiết thị trường.

Trong bối cảnh đó, nếu như thương nhân phân phối chỉ mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối – thương nhân có nhiệm vụ tạo nguồn, thực hiện tổng nguồn xăng dầu thì thông qua việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương (thương nhân phân phối không phải thực hiện việc kết nối này do không phải đối tượng thực hiện nhiệm vụ tạo nguồn xăng dầu), cơ quan chức năng có công cụ để kiểm tra thực tế con số tổng nguồn này từ báo cáo của thương nhân sản xuất xăng dầu trong nước, từ con số thực tế của cơ quan hải quan đối với xăng dầu nhập khẩu. Qua đó, nắm bắt được con số chính xác để có thể điều tiết được nguồn cung. Vì xét cho cùng, đối với một mặt hàng đặc biệt như xăng dầu, đảm bảo nguồn cung cho nhu cầu sử dụng của người dân là quan trọng nhất.

Thêm nữa, mục tiêu lớn nhất của việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương là phục vụ kiểm soát nguồn cung xăng dầu cho tiêu dùng trong nước. Trong khi đó, quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán lẫn nhau nhằm mục tiêu hạn chế việc tăng chi phí trong khâu trung gian, là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp gây khó khăn cho thương nhân bán lẻ. Đây là hai vấn đề khác nhau.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS.TS Ngô Trí Long – chuyên gia kinh tế cũng nêu quan điểm: “Một số doanh nghiệp phân phối có phản hồi rằng, cơ quan quản lý đề xuất việc không cho phép mua bán xăng dầu lẫn nhau là hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng tôi cho rằng, quan điểm đó là do doanh nghiệp chỉ đứng ở góc độ của mình để nói chứ chưa nhìn một cách tổng thể. Trong trường hợp muốn tự do mua bán xăng dầu, thương nhân phân phối có thể cố gắng đáp ứng được các tiêu chí đã được quy định rõ ràng để trở thành thương nhân đầu mối và xin cấp phép. Lúc đó hoàn toàn có thể mua bán xăng dầu tự do với nhau”.

Từ kết luận của cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra về một số vụ việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh xăng dầu, có thể thấy, thời gian qua, một số thương nhân phân phối xăng dầu sử dụng hợp đồng mua bán xăng dầu để vay vốn ngân hàng rồi sử dụng nguồn vốn đó cho mục tiêu khác như đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán… dẫn tới thua lỗ, gây lãng phí nguồn lực toàn xã hội. Thực tế này cần được chấn chỉnh trong các văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm hạn chế tối đa những rủi ro, lãng phí nguồn lực, đảm bảo nguồn vốn dành cho xăng dầu thực sự phục vụ mục tiêu kinh doanh xăng dầu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân.

Dự thảo Nghị định về kinh doanh xăng dầu đã xây dựng hệ thống phân phối xăng dầu với 3 cấp (phân khúc): Thương nhân đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu - Thương nhân phân phối xăng dầu - Thương nhân bán lẻ xăng dầu, đồng thời, Dự thảo quy định cụ thể về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của thương nhân ở từng phân khúc. Mặt hàng xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, khi tham gia thị trường, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng các điều kiện, thực hiện quyền và nghĩa vụ ở từng phân khúc mà doanh nghiệp tham gia.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh 45:18

Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh

Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong đó, quyền và lợi ích của người tiêu dùng ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ và an toàn cả trong các giao dịch truyền thống lẫn giao dịch hiện đại.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người tiêu dùng có những đặc điểm riêng như trẻ em, học sinh, sinh viên thường xuyên gặp khó khăn, hạn chế trong quá trình tiêu dùng hàng ngày.

Trước thực tiễn đó, từ năm 2021, Bộ Công Thương đã ban hành Đề án “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế giai đoạn 2021 - 2025”. Hơn 4 năm qua, trong khuôn khổ các hoạt động của Đề án, với vai trò là đơn vị được giao nhiệm vụ triển khai, Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia đã phối hợp với nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan như: Báo Công Thương, các trường đại học trên cả nước, các doanh nghiệp,… thực hiện nhiều hoạt động có ý nghĩa và thiết thực nhằm hướng tới các nhóm người tiêu dùng yếu thế khác nhau.

Nhằm tạo diễn đàn để đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia, nhà giáo cùng trao đổi, thảo luận về kết quả bước đầu, cũng như phân tích những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế, hôm nay, Báo Công Thương tổ chức chương trình Chính sách và đối thoại với chủ đề: “Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh”

Chương trình của chúng tôi đang được phát trực tiếp trên Báo Công Thương điện tử tại địa chỉ Congthuong.vn và trên các nền tảng mạng xã hội Fanpage, Youtube, Tik Tok Báo Công Thương.

Tham gia chương trình hôm nay có các diễn giả:

Ông Hồ Tùng Bách - Phó trưởng ban Ban Bảo vệ Người tiêu dùng, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia

- Ông Bùi Thanh Thủy - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội bảo vệ Người tiêu dung Việt Nam

- Luật sư Nguyễn Thanh Hà, CEO Công ty Luật Sb Law

- TS. Nguyễn Ngọc Quyên, Trưởng Bộ môn Pháp luật Cạnh tranh và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh: Người dân vẫn mắc bẫy dù những thủ đoạn lừa đảo cũ

Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh: Người dân vẫn mắc bẫy dù những thủ đoạn lừa đảo cũ

Xin kính chào quý vị khán giả đã đến với chương trình Diễn đàn - Đối thoại của Báo Công Thương, cùng gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng với những câu chuyện lan tỏa, có ý nghĩa trong cộng đồng xã hội.

undefined
Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh chia sẻ những lời khuyên giúp phòng tránh chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng.

Thưa quý vị! Thời gian gần đây, bản thân tôi cũng như nhiều người đã từng mắc phải một chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng với những chiêu trò lừa đảo, khiến nhiều người bị mất tiền bởi nhẹ dạ cả tin, đánh vào thói quen mua sắm của người tiêu dùng, những người hay mua hàng trên các sàn thương mại điện tử.

Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện 4:30

Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện

Thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của tác giả Thu Liễu được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương tại trang web Congthuong.vn, xin được gửi đến quý vị khán thính giả trong mục Podcast – Thời sự ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Mới đây, tổ chức khủng bố Việt Tân đã “ếch ngồi đáy giếng”, đưa ra thông tin xuyên tạc về nhập khẩu điện nhằm mục đích xấu, cố tình gây hiểu lầm trong dư luận.
Việt Tân cố tình xuyên tạc các chính sách của Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo và hợp tác quốc tế trong việc cung cấp điện.

undefined
Việt Nam là một nền kinh tế thị trường thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường

Hai luận điệu chính của tổ chức khủng bố này là việc Việt Nam nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc trong khi điện trong nước dư thừa. Đồng thời tổ chức này còn chỉ trích Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi nhập khẩu điện từ hai nước láng giềng nhưng lại mua điện mặt trời của người dân với “giá 0 đồng”.
Đầu tiên, về vấn đề nhập khẩu điện, Việt Tân cho rằng Việt Nam mua điện từ Lào và Trung Quốc trong khi có tiềm năng điện mặt trời, điện gió và điện gió ngoài khơi dồi dào. Tuy nhiên, sự thật là Việt Nam nhập khẩu một lượng điện rất nhỏ từ các nước láng giềng, chủ yếu là do sự hợp tác giữa các Chính phủ trong khu vực. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường (Việt Nam là một nền kinh tế thị trường) thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường. Việc nhập khẩu điện rẻ hơn chi phí đầu tư tại chỗ sẽ góp phần giảm áp lực cho nguồn tài chính của quốc gia; góp phần giữ vững giá năng lượng trong nước và đương nhiên người dân sẽ không phải chịu chi phí mua điện quá cao, cùng nhiều lợi ích khác…
Về sản lượng điện nhập khẩu, tính trung bình hàng năm khoảng 2% là một con số quá nhỏ. Vào tháng 5/2023, ông Đặng Hoàng An - Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN (Thứ trưởng Bộ Công Thương thời điểm đó) đã có những phân tích rất chi tiết cụ thể về vấn đề này. Theo ông, sản lượng điện nhập khẩu từ Lào chỉ khoảng 7 triệu kWh/ngày, từ Trung Quốc khoảng 4 triệu kWh/ngày, con số này hoàn toàn không đáng kể so với mức tiêu thụ hàng ngày của miền Bắc, khoảng 450 triệu kWh.
Trên thực tế, trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, nguồn điện nhập khẩu hiện nay là phần để mở rộng hợp tác quốc tế và cơ bản dựa trên mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia láng giềng, đây cũng là một phần trong cam kết kết nối mạng lưới điện các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Thậm chí, trong tương lai, xuất nhập khẩu điện của Việt Nam sẽ còn được mở rộng vì tại Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, các nước đã đặt vấn đề kết nối mạng lưới điện liên thông ASEAN.
Hơn nữa, việc mua điện từ các quốc gia láng giềng là một phần trong chiến lược mở rộng hợp tác khu vực và xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng xuyên biên giới. Việt Nam đã thực hiện các thỏa thuận với Lào và Trung Quốc từ nhiều năm nay, và nguồn điện này giúp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt trong các mùa cao điểm hoặc khi có sự cố trong hệ thống điện nội địa. Thậm chí, Việt Nam còn xuất khẩu điện sang Campuchia, cho thấy nguồn cung điện không chỉ phụ thuộc vào nhập khẩu mà còn có khả năng cung cấp cho các nước trong khu vực.
Về cáo buộc mua điện mặt trời từ người dân với giá 0 đồng, đây là một sự xuyên tạc trắng trợn. Thực tế, Chính phủ đã quy định rất rõ về cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ, và việc mua điện dư từ người dân được thực hiện theo các chính sách hợp pháp. Theo Nghị định số 135/2024/NĐ-CP, được chính phủ ban hành và đã có hiệu lực từ ngày 22/10/2024, việc mua bán điện mặt trời giữa EVN và người dân được quy định chặt chẽ với mức giá hợp lý, không phải "0 đồng" như tổ chức Việt Tân cáo buộc. Các chính sách này không chỉ khuyến khích người dân phát triển năng lượng tái tạo mà còn giúp giảm thiểu lãng phí nguồn năng lượng dư thừa.
Điều quan trọng là Nghị định này khuyến khích người dân lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà và cho phép bán lượng điện dư lên lưới quốc gia, với mức giới hạn 20% công suất lắp đặt thực tế. Mức giá mua bán điện được căn cứ theo giá điện thị trường, phù hợp với tình hình phát triển của hệ thống điện quốc gia. EVN là đơn vị mua điện dư này, không phải vì lợi nhuận, mà vì đây là một nhiệm vụ được quy định trong chính sách của Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của năng lượng tái tạo.
Chính sách này thực tế cũng không chỉ đơn thuần khuyến khích lắp đặt điện mặt trời mái nhà mà còn bao gồm các ưu đãi về thuế và giảm thiểu thủ tục hành chính, giúp người dân dễ dàng tham gia vào thị trường năng lượng tái tạo.
Đưa ra những quan điểm sai trái, thiếu hiểu biết kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, Việt Tân đã cố tình dựng lên những câu chuyện sai sự thật, cố tình gây chia rẽ, với mục đích xấu. Thực tế, Bộ Công Thương và EVN đã có những giải pháp phù hợp, kịp thời, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng. Những luận điệu sai trái của Việt Tân không chỉ thiếu cơ sở mà còn đi ngược lại lợi ích của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Bộ Công Thương: Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn 5:54

Bộ trưởng Bộ Công Thương: Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài Podcast - Thời sự được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương của PV Quỳnh Nga. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội thông qua.

Sáng 8/11, tiếp tục Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe Tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi).

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, Luật Hóa chất được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007. Sau 16 năm thi hành, Chính phủ nhận thấy, so với thời điểm ban hành, hệ thống pháp luật hiện nay đã có nhiều thay đổi; Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn liên quan đến lĩnh vực hóa chất; nhiều Luật mới có liên quan cũng đã được Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.

undefined
Bộ trưởng Bộ Công Thương cho hay, xây dựng Luật Hóa chất (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa chất

Cùng với đó, Việt Nam đã gia nhập nhiều hiệp định thương mại tự do và một số Công ước, Điều ước quốc tế mới về quản lý hóa chất. Mặt khác, thực tiễn thi hành luật cũng cho thấy một số quy định của Luật Hóa chất hiện hành đã bộc lộ những bất cập, vướng mắc, không còn phù hợp với tình hình thực tế.

Vì vậy, việc sửa đổi Luật Hóa chất là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng trong lĩnh vực hóa chất và khắc phục một số vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, quốc tế hiện nay và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Về mục đích, quan điểm xây dựng Luật, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho hay, xây dựng Luật Hóa chất (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa chất.
Sửa đổi toàn diện, đồng bộ các quy định của Luật Hóa chất theo hướng vừa bảo đảm kế thừa các quy định “đã chín, đã rõ, được đa số đồng tình và đã được kiểm chứng qua thực tiễn”; bãi bỏ các quy định không còn phù hợp, gây vướng mắc, cản trở; bổ sung, phát triển các quy định mang tính nguyên tắc, nền tảng phù hợp với tình hình mới gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.

Dự thảo Luật này không có nội dung trái Hiến pháp, không có chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; không lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ và bảo đảm tương thích với các điều ước/cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội thông qua, bao gồm: Phát triển bền vững ngành công nghiệp hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại; Quản lý hóa chất đồng bộ trong toàn bộ vòng đời; Quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm; Nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn hóa chất.

Dự thảo Luật gồm 9 chương, 89 điều (giảm 1 chương và tăng 18 điều so với Luật Hóa chất hiện hành). Việc tăng các điều, khoản trong dự thảo Luật chủ yếu và thực chất là các quy định mới về phát triển công nghiệp hóa chất, quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm và phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành về quản lý hóa chất.

Cụ thể như sau: Chương I. Quy định chung, gồm 8 Điều. Nội dung chủ yếu về: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hóa chất.

Chương II. Phát triển công nghiệp hóa chất, gồm 6 Điều. Nội dung chủ yếu về: Chiến lược phát triển công nghiệp hóa chất; Các yêu cầu đặc thù đối với dự án hóa chất; Cơ chế ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với lĩnh vực công nghiệp hóa chất trọng điểm.

Chương III. Quản lý hoạt động hóa chất, gồm 30 Điều, được chia thành 4 Mục. Nội dung chủ yếu về: Quy định chung đối với hoạt động hóa chất; Quy định về Hóa chất có điều kiện; Quy định về Hóa chất cần kiểm soát đặc biệt; Quy định về Hóa chất cấm. Các quy định tại Chương này nhằm quản lý các hoạt động trong toàn bộ vòng đời, từ sản xuất, nhập khẩu đến sử dụng, thải bỏ hóa chất.

Chương IV. Thông tin hóa chất, gồm 11 Điều. Nội dung Chương này cơ bản kế thừa quy định tại Luật Hóa chất hiện hành về: Đăng ký, đánh giá, quản lý hóa chất mới; Thông tin về hóa chất, bảo mật thông tin và Cơ sở dữ liệu hóa chất. Việc áp dụng các quy định nêu trên đã ổn định, phù hợp với thực tiễn và các quy định có liên quan của pháp luật. Dự thảo Luật chỉ quy định cụ thể hơn về trách nhiệm cung cấp, lưu giữ, cập nhật thông tin về phân loại đặc tính nguy hiểm của hóa chất và phiếu an toàn hóa chất.

Chương V. Hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm, gồm 3 Điều. Đây là Chương được bổ sung mới nhằm quy định rõ trách nhiệm của các Bộ quản lý ngành về công bố hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật; Tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm chứa hóa chất nguy hiểm phải xây dựng quy trình quản lý hóa chất; Trách nhiệm công bố thông tin trên Cơ sở dữ liệu hóa chất của các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm chứa hóa chất nguy hiểm. Các quy định trên được xây dựng theo hướng minh bạch thông tin đến công chúng, không phát sinh thủ tục hành chính.

Chương VI. An toàn hóa chất, gồm 13 Điều, chia thành 2 Mục. Nội dung chủ yếu về: Yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động hóa chất và Phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất.

Chương VII. Bảo vệ môi trường và an toàn cho cộng đồng, gồm 5 Điều. Nội dung Chương này cơ bản kế thừa quy định tại Luật Hóa chất hiện hành vì đã thực hiện ổn định, phù hợp với thực tiễn và các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Chương VIII và Chương IX. Các quy định về tổ chức thực hiện, gồm 13 Điều. Nội dung chủ yếu về: Trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực hóa chất và Điều khoản thi hành.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Hóa chất (sửa đổi). Hồ sơ dự án Luật đã đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 này. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát dự thảo Luật với các luật khác, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật.

Sau kỳ họp này, trên cơ sở ý kiến thảo luận của các Đại biểu Quốc hội và kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi), bảo đảm thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng trong lĩnh vực hóa chất; đồng thời rà soát, xử lý các mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập (nếu có) với các luật khác để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, quốc tế hiện nay và tương thích với các điều ước quốc tế và các công ước về hóa chất mà Việt Nam tham gia nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa chất phát triển hiệu quả, bền vững.

Thiết giáp Ukraine bị quét sạch, 60 binh sĩ thiệt mạng

Thiết giáp Ukraine bị quét sạch, 60 binh sĩ thiệt mạng

Trên mặt trận Kursk, quân Ukraine đã phá thế bao vây của Nga nhưng đổi lại là gặp thiệt hại nặng nề.

Tại khu vực Kursk, Nga và Ukraine tiếp tục diễn ra cuộc chiến pháo binh quy mô lớn, đồng thời tiếp tục tranh giành vòng vây. Theo kênh Telegram “Military Chronicles” đưa tin vào ngày 5/11, quân tiếp viện Ukraine trong cuộc phản công từ ngày 4 đến 5/11 đã phá vỡ sự bao vây ba mặt của quân Nga đối với làng Pogrebki.

Quân tiếp viện Ukraine xuất phát từ làng Malaya Loknya, tiến dọc theo đường cao tốc về phía Bắc, mở cuộc phản công mạnh mẽ vào các vị trí của quân Nga ở phía nam Pogrebki và bờ tây sông Malaya Loknya.

Do sông ngăn cách nên lực lượng dự bị của Nga không thể hỗ trợ kịp thời các vị trí ở bờ Tây, buộc quân Nga tại bờ Tây phải từ bỏ trận địa và rút về bờ Đông. Nhờ vậy, quân Ukraine đã mở thông tuyến đường nông thôn từ Malaya Loknya đến Pogrebki.

undefined
Do sông ngăn cách nên lực lượng dự bị của Nga không thể hỗ trợ kịp thời các vị trí ở bờ Tây, buộc quân Nga tại bờ Tây phải từ bỏ trận địa và rút về bờ Đông. Ảnh: Getty Images

Nhìn vào bản đồ, do khoảng cách quá gần, quân Nga ở bờ Đông vẫn có thể sử dụng hỏa lực tầm gần để tấn công trực tiếp vào con đường ở bờ Tây, phong tỏa con đường bằng hỏa lực, khiến quân Ukraine dù đã mở thông đường nhưng không thể sử dụng nó bình thường.

Để đảm bảo an toàn cho con đường, lực lượng tiếp viện của Ukraine đã điều động một trung đội, dưới sự yểm trợ của 3 xe chiến đấu bộ binh, tấn công vào vị trí của quân Nga ở bờ Đông sông.

Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của hỏa lực chống tăng, quân Nga đã phá hủy một trong ba xe chiến đấu bộ binh của Ukraine, buộc hai chiếc còn lại phải rút lui. Bộ binh Ukraine mất đi sự yểm trợ, đã phải rút lui khẩn cấp sau khi 15 binh sĩ bị tiêu diệt và 3 người bị bắt.

Do quân Ukraine đã đạt được đột phá ở tuyến phía Đông của vòng vây, quân Nga bắt đầu tăng cường tấn công tuyến phía Tây của vòng vây, đặc biệt là vào các Novoivanovka và Leonidovo. Quân Nga đã trực tiếp sử dụng máy bay Su-34 để ném bom các ngôi làng này.

Theo kênh Telegram North Wind, quân Ukraine phàn nàn rằng Nga dùng bom không quân tấn công mạnh vào các vị trí của Ukraine trước khi phát động tấn công trên bộ, khiến Ukraine chịu tổn thất lớn và phải liên tục điều động lực lượng dự bị đến khu vực này để củng cố phòng tuyến. Do lực lượng dự bị của Ukraine dồi dào, họ có đủ sức mạnh để giữ vững tuyến phòng thủ.

Theo đoạn video được phóng viên công bố ngày 5/11, Quân đội Nga đã sử dụng hệ thống pháo phản lực phóng loạt Tornado-S để tiêu diệt cụm thiết giáp của Lữ đoàn tấn công đường không số 82 Ukraine, bao gồm hai xe tăng, ba xe chiến đấu bộ binh Bradley, 10 xe bọc thép, pháo tự hành 2S1 “Gvozdika”, một hệ thống phòng không Osa và khoảng 10 xe bán tải đã bị phá hủy.

Video cho thấy máy bay không người lái trinh sát của quân Nga đã thành công tiến sâu 30 km vào khu vực tỉnh Sumy của Ukraine và phát hiện cụm thiết giáp của Ukraine ở vành đai rừng gần làng Kiyanitsa.

Máy bay không người lái của Nga trước tiên đã kiểm tra kỹ lưỡng các trang bị của quân Ukraine, sau đó truyền thông tin thu được về cho lực lượng phóng tên lửa phía sau. Sau khi xác nhận thông tin, quân Nga ở hậu phương đã lập tức sử dụng hệ thống pháo phản lực Tornado-S để bắn một loạt đạn, bao phủ khu vực rừng nơi cụm thiết giáp của Ukraine tập trung.

    Trước         Sau