
Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội
"Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội" - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chạm bạc, đó là nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khá nổi tiếng ở Hà Nội. Vào những năm thuộc thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ trước, khi thị trường Đông Âu còn rộng mở, nghề chạm bạc phát triển thật rấm rộ. Các lớp học nghề liên tục được mở ra đào tạo được hàng trăm thợ chạm mới phục vụ cho các chiến dịch làm hàng xuất khẩu. Nhưng khi những chến dịch ổ ạt ấy qua đi một cách mau chóng, thị trường Đông Âu tan rã, thì hầu hết những người thợ được đào tạo theo lối cấp tốc ấy cứ theo năm tháng mà rơi rụng dần.
Ngô Mai Hương. Cản nhà cũ khuất sâu đường như biệt lập, cách xa sự đông đúc, sầm uất của dãy phố Bạch Mai. Nhưng khách cũng có thể dễ dàng tìm thấy nó nhờ sự dẫn dắt của những âm thanh nhà nghề quen thuộc và đều đặn hàng ngày. Ấy là tiếng đục chạm chí chát, lách cách, rộn rã.
Xưa nay, thế giới của những người thợ chạm bạc có lẽ chỉ quanh quẩn không xa khuôn bàn chạm rộng không đầy một thước vuông. Vậy mà từ đó, cả trời đất, núi non, cỏ hoa, chim thú, Thần Phật, dưới bàn tay người, đã hiển hiện, sống động và trường tồn dường như là vĩnh viễn. Nhìn thì hấp dẫn, nhưng người ngoài nghề khó mà học theo, nói chi đến việc đeo đuổi nghề đến suốt đời. Nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh bộc lộ đôi điều:
- Trong cuộc đời làm nghề hơn năm mươi năm qua, tôi cũng đã góp công đào tạo được vài ba lớp thợ trẻ. Tất cả cũng độ ba bốn chục người. Nhưng mà bây giờ chẳng còn mấy ai đậu lại với nghề.
Các cháu chúng chuyển hết sang nghề hàng vàng hay là một số nghề khác dễ phát tài hơn là nghề thợ chạm bạc. Nghề này ai phải nặng lòng lắm, mới trụ được, tựa như là người nghệ sĩ ấy, cứ say nghề là theo thôi, biết là nghèo mà cũng đành chịu.
Cũng sống trong một con ngõ nhỏ lọt giữa phố Bạch Mai, ngõ Giếng Hậu Khuông, cách không xa ngôi nhà của nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh, người thợ đôi bàn tay vàng Nguyễn Ngọc Nghiên hàng ngày vẫn bình thản và lặng lẽ ngồi bên chiếc bàn nghề cũ kỹ, từ tốn truyền nghề cho đứa con út và một cậu cháu gọi bằng bác. Vẫn là những tràng tiếng đục chạm vang lên rỉ rả, đều đặn như một điệu nhạc lúc vui, lúc buồn.
Chạm bạc, đó là nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khá nổi tiếng ở Hà Nội. Vào những năm thuộc thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ XX, khi thị trường Đông Âu còn rộng mở, nghề chạm bạc phát triển thật rầm rộ. Các lớp học nghề liên tục được mở ra đào tạo được hàng trăm thợ chạm mới phục vụ cho các chiến dịch làm hàng xuất khẩu. Nhưng khi những chến dịch ồ ạt ấy qua đi một cách mau chóng, thị trường Đông Âu tan rã, thì hầu hết những người thợ được đào tạo theo lối cấp tốc ấy cứ theo năm tháng mà rơi rụng dần. Âu cũng là thuận theo quy luật của cuộc sống. Nhưng điều đó không khỏi đem lại cho những người thầy một nỗi buồn thấm thía.
![]() |
Nghề chạm bạc ở Hà Nội. |
Song bao giờ cũng vậy, trong cái rủi lại có cái may. Số ít những người thợ nghề còn trụ lại, hoặc tiếp tục học nghề trong thời kỳ khó khăn nhất, lại chính là số con cháu, họ hàng thân thuộc của gia đình. Một lần nữa, phương pháp dậy nghề truyền thồng theo lối cha truyền con nối, lại khẳng định ưu thế khó phủ nhận trong thực tế. Mặc dù không phải hầu hết những đứa con của các gia đình thợ chạm bạc ở Hà Nội đều theo nghề cha ông. Số theo nghề cũng thật ít ỏi, mỗi nhà chỉ một vài người. Nhưng đa số họ đều là những người thợ giỏi đầy triển vọng.
Trong giới thợ chạm bạc ở Hà Nội, ông Nghiên nồi tiếng về thể loại tranh chân dung. Và chạm tranh chân dung cũng chính là thể loại khó nhất trong nghề. Chính bức chạm nổi Bác Hồ ngồi đọc báo ở Phủ Chủ tịch đã đem lại cho ông tấm huy chương vàng trong triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Việt Nam năm 1997. Và chính bức chạm đã trở thành một mẫu hình thị phạm quý giá, khi ông truyền lại những bí quyết của cách thức chạm bạc thể loại chân dung cho lớp trẻ.
Như những người thợ thức thời, ông Nghiên cũng không quá nghiêm ngặt với các lễ lối cũ, cách thức hành nghề cũ. Ông trông đợi rất nhiều vào khả năng sáng tạo của lứa thợ trẻ. Đó chính là sức sống mới của nghề truyền thống cha ông. Bởi vậy, ông chỉ quan tâm nhất đến việc phổ biến những kiến thức cơ bản ban đầu của nghề chạm bạc cho con và cháu, và rất tôn trọng ý tưởng cải biến những mẫu mã mới của chúng. Anh Nguyễn Ngọc Tú, con trai ông Nghiên ngồi bên khuôn bàn chạm bạc với dáng người thanh mảnh và nụ cười rất tươi tắn, hiền hậu trên gương mặt thanh tú:
- Các mẫu mã hoa lá ngày xưa của các cụ rất đẹp, rất nghiêm cẩn. Nhưng bây giờ nhiều khách hàng thích các mẫu mã mới, hoa lá thoáng đạt hơn. Nên nhiều khi mình phải cải biến đi một chút thì hàng mới dễ bán. Như mẫu hoa lan tây cánh dài mảnh và dáng bay thoát như thế này chẳng hạn.
Có một thực tế là cuộc sống của đa phần thợ thủ công mỹ nghệ ở Hà Nội, kể cả thợ mỹ nghệ kim hoàn, đều chưa thật khá giả. Cũng sống trong một con ngõ nhỏ khuất khúc giữa phố Khâm Thiên, ngôi nhà kiêm xưởng nghề của nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng thật là chật chội. Ông là một người đồng nghiệp giàu tâm huyết của nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh và người thợ đôi bàn tay vàng Nguyễn Ngọc Nghiên. Dòng chữ nổi theo lối đại tự mà ông thờ trong ngôi nhà gồm ba chữ: Đức Bản Giã. Ấy là cách viết tắt của một câu châm ngôn cổ: Đức giả bản giá: Nhà lấy đức làm gốc.
Theo nghiệp thợ, lấy công làm lãi, lấy tín làm đầu, trong làng thợ bạc ở Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng là người nhận được rất nhiều hợp đồng và đơn đặt hàng của khách trong và ngoài nước. Công thơ chính của xưởng thợ hiện nay cũng chỉ tương đương như lương công nhân lành nghề trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng chỉ có trong tay chừng hơn chục thợ thuyền, chủ yếu là con cháu, họ hàng, lại thêm điều kiện nhà xưởng chật chội, ông thường không đáp ứng đủ yêu cầu của khách hàng. Có một số công ty nước ngoài muốn đầu tư cho ông mở rộng quy mô sản suất.
Song ông tự lượng sức mình, sức thợ, nên đành từ chối. Thực ra là ông đang trông đợi rất nhiều ở thời kỳ tới, khi người con trai út của ông thực sự trưởng thành một cách vững vàng.
Như rất nhiều gia đình thợ chạm bạc ở Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng cũng chỉ có được một người con duy nhất theo nghề tổ tiên: Anh Nguyễn Ngọc Anh. Người thấp đậm, đôi mắt đen sẩm, năm nay Ngọc Anh mới 26 tuổi nhưng đã có gần hai mươi năm theo cha từ những nét đục chạm vụng dại đầu tiên, kể từ khi anh hãy còn là một cậu bé học trò lớp vỡ lòng, cầm chiếc búa nhỏ xíu còn chưa vững.
Bây giờ, có thể anh chưa đủ khả năng để thay cha đảm đương quản lý cả một xưởng thợ mỹ nghệ chạm bạc danh tiếng. Nhưng dường như anh đã bắt đầu thổi một luồng sinh khí mới cho xưởng nghề gia đình bằng những gì mà anh thâu nhận được từ luồng gió mạnh mẽ của thời đại. Đó cũng là điều mà người cha hằng đang mong đợi ở đứa con yêu. Anh Nguyễn Ngọc Anh tâm sự cùng chúng tôi bên chiếc máy vi tính, trong lúc anh đang hoàn thiện nốt mẫu trang trí mặt trống đồng trên một sản phẩm mới.
- Mình là con thì phải theo nghề cha thôi. Có điều là khi xưa, các cụ toàn vẽ mẫu bằng tay, có chỗ không đều đặn, sắc nét như ý muốn. Bây giờ thiết kế mẫu trên máy vi tính, nên có thể sửa sang hoàn thiện đến lúc nào thật ưng ý thì mới đem áp mẫu trên sản phẩm, đỡ tốn công sức rất nhiều.
"Có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa". Nhưng với tâm nhìn nhận, sức suy gẫm của một nghệ nhân bậc thầy ngành chạm bạc ở Hà Nội, người cha của anh không khỏi còn những điều lo lắng, trăn trở. Những lo lắng, trăn trở không chỉ cho nghiệp nhà, mà còn xa hơn thế và rộng hơn thế và sâu hơn thế.
Cho dù máy móc hiện đại như thế nào đi chăng nữa, thì các mẫu mã hoa văn cũng vẫn phải giữ được dáng nét và đặc trưng mỹ thuật cổ truyền dân gian trong các sản phẩm. Và mỗi sản phẩm làm ra đều phải mang dấu ấn bàn tay cá nhân người thợ. Nếu như không giữ được như vậy, thì sẽ chẳng ai còn tìm đến với thủ công mỹ nghệ dân tộc.
Tuổi ngoại bẩy mươi, Nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh ở Ngõ Mai Hương vừa có thêm một niềm vui mới. Có một cô học trò do ông dạy dỗ từ nét đục chạm đầu tiên sau năm năm trời, nay đã thành thục trong nghề. Đó chính là cô con dâu út của ông. Nhìn bức chạm bạc mới đang trong giai đoạn hoàn thiện mà đã hé lộ vẻ rực rỡ, sống động của hoa lá, cỏ cây dưới bàn tay cô thợ trẻ, người cha chồng không giấu nổi niềm sung sướng và tự hào thầm kín.
Thêm một người thợ, hơn nữa lại là một người thợ giỏi nghề, nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh còn có thể trông đợi thật nhiều ở nghiệp nhà và nghiệp tổ mai sau. Có thể lắm chứ, bởi bắt đầu từ năm chuyển giao sang thế kỷ mới, cùng với một số ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống của Hà Nội, nghề chạm bạc đang trên đà phục hồi và khởi sắc rõ rệt. Đang có hàng trăm gia đình thợ nghề giữ nhịp chạm quanh năm. Mở rộng và làm cho thông thoáng đầu ra của hàng hoa, đó có lẽ là điều trông chờ lớn nhất ở chính quyền thành phố và ngành tiểu thủ công mỹ nghệ Hà Nội của gia đình các nghệ nhân chạm bạc và các làng nghề truyền thống nói chung.
Ngày ngày, trong căn nhà nhỏ ở ngõ Mai Hương, tiếng đục chạm vẫn lách cách, râm ran. Nhưng liệu điệu nhạc nghề ấy, có thể hấp dẫn và thu hút lũ cháu nhỏ của ông? Câu hỏi đó còn chờ ở ngày mai.
Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ
BẢO TỒN THÚ CHƠI ĐỊA LAN GIỐNG CỔ - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, năng mai phơ phất non tơ, những đóá lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa toả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.
Ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Chi và bà Triệu Thị Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai nằm trong một khu vườn quanh năm rợp bóng xanh. Mùa hạ, ngõ vào nhà thơm ngát hương hoàng lan, mùa thu, dìu dịu hương quỳnh, hương quế. Hương hoa từ trên cao theo gió sớm, sương đêm, buông tỏả xuống mặt đất hiền hòa, tạo nên một bầu không gian thanh nhã và mộng mơ.
Nhưng qua ba tháng mùa đông khô cằn, khi những màn mưa xuân phơ phất vương bay trong trời đất, ngôi nhà của ông Chi lại chìm ngập trong một bầu hương thơm nồng nàn mà rất đỗi thanh tao. Ấy chính là hương thơm của hàng trăm chậu địa lan đang kỳ trổ hoa. Ông Chi mê đắm vì lan đã bao năm rồi không nhớ nổi: "Mỗi giống địa lan nó lại có dáng lá vẻ hoa khác nhau, hương thơm cũng thế. Hoàng vũ thơm ngọt, Mặc biên thơm ngát, Cẩm tố thơm dịu, Hoàng điểm thơm thanh... Chỉ nghe gió thổi từ xa xa đã biết khóm lan nào đang tỏa hương, Người cứ như đang bay lên mây ấy chứ".
Trong nền văn hóa cổ truyền các dân tộc Á Đông, sự vần chuyển của một năm thời gian vũ trụ được mã hóa bằng hình tượng các loài hoa quý giá và đặc sắc của bốn mùa: Xuân lan - Hạ liên - Thu cúc - Đông mai. Hoa lan mùa xuân, hoa sen mùa hạ, hoa cúc mùa thu, hoa mai mùa đông.
![]() |
Hoa địa lan có nguồn gốc đầu tiên từ vùng Tây Nam Trung Quốc |
Hoa lan, tự xa xưa đã được các bậc tiền nhân liệt vào hàng "vương giả chi hương" có lẽ không chỉ bởi chúng vốn được lưu truyền trong chốn cung vua, phủ chúa cao ngạo, thâm nghiêm, mà chính là bởi chúng mang thứ hương thơm không loài hoa nào trên thế gian sánh nổi. Tuy nhiên, ông cha ta tự xưa chỉ ngưỡng vọng các loài địa lan tức là các loại hoa được trồng trong đất, do tự tay người chăm sóc. Còn đối với các loài phong lan, tuy muôn hình vạn trạng, thắm sắc, đượm hương, thì cũng vẫn chỉ là cây rừng hoa núi, hoang sơ, lạ lẫm. Người ta yêu địa lan không chỉ bởi sắc đẹp và hương thơm của chúng, mà còn bởi vì, chúng là những tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào chính bàn tay kinh nghiệm và sự sáng tạo của những người yêu hoa.
Vậy mà, trong vòng nửa thế kỷ qua, người Hà Nội chỉ loáng thoáng nghe nhắc đến hoa lan qua câu tục ngữ: "Làm chúa chơi lan, làm quan chơi trà" hoặc là qua áng văn chương tuyệt mỹ của nhà văn người Hà Nội gốc, nổi tiếng hào hoa, lịch lãm Nguyễn Tuân:
"Vang bóng một thời". Trong những câu chữ được gọt giũa cầu kỳ đến mức điêu luyện ấy, vẫn đau đáu nỗi niềm của một kẻ nặng lòng hoài cổ, đang thả hồn chìm đắm trong những dòng hồi ức lung linh, kỳ ảo, nhớ về vẻ đẹp của thời quá vãng xa xôi tưởng sẽ không bao giờ sống dậy, chỉ còn lại đôi ánh hào quang mờ dần trong niềm tiếc nối khôn nguôi.
Thế rồi, khi nhắc tới khái niệm dân dã như ngọc lan, hoàng lan và sau này, khái niệm đó được làm giàu thêm bởi trăm loài phong lan hoang dã cùng những giống hoa lan được nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp hiện đại thì dường như không có tên tuổi bất kỳ một loài hoa địa lan cổ truyền nào lọt vào trong trí não những đứa trẻ Hà Nội sinh ra ở cái thời gian khó dằng dặc ấy.
Thì bỗng đâu, cũng thầm lặng, nhẹ nhàng như là trong khoảnh khắc lìa xa năm xưa, vào một sớm đầu xuân mới, dưới làn nắng nhẹ vương tơ, thấp thoáng hiện lên những dáng vẻ, những sắc màu như lạ như quen. Lan Hoàng Vũ như cơn mưa màu cốm non, lan Hoàng Điểm hoa nâu chấm vàng như gấm thêu, lan Cẩm Tố hanh vàng, cành vươn, cánh dài thon thả, thanh thoát như đôi cánh tay vũ nữ vút bay trong điệu khúc thần tiên.
Và người Hà Nội, cũng như chợt tỉnh giấc mơ, mừng rỡ đón chào những nàng tiên lan, những nàng tiên chỉ hiện hình trên thế gian, dưới một bầu trời bình yên, sán lạn, và chỉ khoe hương sắc bên những con người không mấy còn cay cực, vật vã bởi cuộc mưu sinh khốn khó. Hà Nội trong những năm cuối thế kỷ XX, dường như đã thoáng hiện dáng vẻ của một chốn địa đàng sơ khởi mà bao lớp người chúng ta từng mơ ước
Và cứ như thể đã quen biết tự trăm năm, người Hà Nội đã không lấy làm lạ lẫm khi gọi tên hàng chục hàng trăm loài địa lan quý hiếm đang tụ hội trở về đất kinh kỳ ngàn tuổi. Nào là Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Thanh Trường, Ngân Biên, Mạc Biên, Cẩm Tố, Hoàng Vũ, Hoàng Điểm, Tiểu Kiều, Đại Kiều... Những tên hoa cao sang, mỹ lệ đến thế mà lạ không, tưởng như ta đã từng biết đến trong những giấc mơ xa.
Nghe người ta nói, thì hoa lan có tới vài ba trăm loài, với hàng ngàn cá thể khác nhau. Song những dòng lan lưu truyền tại Hà Nội tương truyền có nguồn gốc từ hoàng thành, vương phủ, nên chúng mang hương thơm quý giá hơn hẳn địa lan ở các vùng miền khác trên đất nước. Bởi thế, chúng được giới chơi lan mến chuộng tha thiết.
Cho đến bây giờ, vườn cảnh nhà nghệ nhân Lê Quyết Bội tại làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây cũng chỉ có dăm bẩy chậu lan bầy rải rác quanh bể nước non bộ trước sân nhà. Lão nghệ nhân, tóc bạc trắng, thong thả cầm chiếc bình đồng nhỏ, khẽ khàng tưới nước vào từng chậu lan. Ngày xửa ngày xưa, cả một dải đất rộng lớn bên hồ vốn là thủỷ thổ của các loài địa lan cổ truyền...
Bằng một giọng nói trầm trầm, nghệ nhân đà đận kể: Lan là một loài cây rất kỹ kén đất. Vào mùa hanh khô, người ta tát ao, vét bùn. Gạt đi lớp bùn hoa trên mặt, người ta xắn lớp bùn thứ hai đem phơi khô trên sân nắng. Chừng độ ba bốn, thậm chí cho tới sáu tháng sau, khi bùn khô nẻ, hết sạch tạp chất, sâu bọ, người ta mới đem đập vỡ, sàng lọc, để đưa lên chậu trồng lan. Bởi vì rễ lan ưa thoáng khí và thoát nước.
Nghệ nhân Nguyễn Luân, một nhà làm hoa chuyên nghiệp của làng Nghi Tàm lúc nào cũng tha thiết với địa lan giống cổ:
- Người xưa truyền lại rằng, lan cũng như trà, tựa như các nàng phi tần, quận chúa, tiểu thư khuê các, hiếm khi lộ diện bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, sỗ sàng. Lan thường quen ẩn mình dưới tán lá rợp hay giàn thưa che nắng, như người đẹp núp bóng quân vương mà khoe hương sắc.
Chuyện xưa kể lại rằng, những khóm hoa trong cung vua phủ chúa sở dĩ tốt tươi, ấy là bởi hàng ngày chúng được các cung tần mỹ nữ dốc công chăm sóc. Chờ khi lan trổ hoa, các nàng sẽ có cơ hội đón rước đấng quân vương đến ngự lãm. Do chậm sinh sôi, nảy nở, nên lan phải được chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo và kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, do là thứ cây khó tính, nên việc chăm sóc cũng phải vừa mức, tránh sự bất cập cũng như thái quá. Phân bón cho lan cũng không thể tùỳ tiện, phải ngâm ốc và cá vụn trong nước khoảng độ nửa năm cho hoai hết mùi hôi, rồi mới pha loãng mà tưới cho lan.
Chớ bao giờ nghĩ tới việc có thể dùng phân hóá học hay thuốc kích thích sinh trưởng. Thế thì thà trồng rau mà hái lá nấu canh.
Nghệ nhân Nguyễn Ninh ở làng Nghi Tàm, người sở hữu một vườn trà lan nức tiếng trong giới chơi hoa xứ Bắc với những khóm lan đắt giá tới hàng chục triệu đồng là một bậc cao thủ trong kỹ nghệ trồng và chăm sóc những giống địa lan giống cổ được cha ông truyền lại:
- Khách đến tham quan thì nhiều chứ mua bán thì không mấy.
Được giá thì vợ chồng tôi bán, không thì lại để chơi xuân. Tiền cũng quý nhưng lan còn quý hơn ấy chứ. Bán đi gây lại chả dễ trong cái thời tiết khí hậu ô nhiễm thế này. Lan giờ đây dễ bị nấm bệnh. Chữa bệnh cho lan có khi còn khó hơn chữa bệnh cho người. Lá lan hễ cứ xuất hiện một vài chấm đen là kém đi vẻ đẹp toàn bích. Người chơi mất hứng luôn. Một nhánh lan lụi đi thì ruột xót như muối vậy.
Mặc dù hoa lan mỗi năm chỉ nở có một lần, song kỳ hoa kéo dài chừng vài ba tháng, như thế, hương sắc của nó đã kịp trở thành niềm thân yêu quấn quýt khó rời. Hương hoa lại tuỳ theo thời khắc hay hướng gió mà tỏa lan gần xa, lúc thắm thiết, sực nức, khi lại nhạt nhòà xa xôi, như mơ như thực, như có như không. Bởi vậy càng khiến cho kẻ yêu hoa thêm say đắm, chờ đợi, ngóng trông.
Còn nhớ trong khúc Tỳ Bà Hành nồi tiếng, khi cô gái đẹp bến Tầm Dương buông tay đàn ngưng lặng trên mặt sông đêm, nhà thơ Đường Bạch Cư Dị đã thốt thành lời:
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
(Lúc này lặng tiếng còn hơn cất tiếng)
Cái khoảnh khắc lan ngừng tỏả hương giữa hai đợt gió, cũng có thể ví như thế chăng?
Hoa lan có nhiều chủng loại. Mỗi loại thường chọn mùa trổ bông khác nhau. Có thứ lan nở mùa xuân, có thứ lan nở mùa hạ, song có thứ lan nở về mùa thu hay mùa đông. Lại có thứ lan nở cả bốn mùa. Các cụ ta khó tính, giới sĩ phu Bắc Hà vốn thế, vẫn chê lan tứ thời là thứ dễ dãi, rẻ tiền, như những kẻ xu phụ tiểu nhân ngoài xã hội, không biết giữ phẩm giá tư cách trong sự đổi thay của thời thế. Nói như vậy, quả là cũng oan uổng cho hoa. Song đã gọi là nghệ thuật, là thú chơi, có mấy khi và có mấy ai lại không thiên lệch một đôi phần.
Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, nắng mai phơ phất non tơ, những đóa lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa tỏả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.
Hàng năm, vào một ngày xuân đẹp trời, lan trong vườn nở rộ, nhà chủ thường mời gọi dăm ba người bạn chí cốt, thuộc diện “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đến chơi nhà. Khách gần, khách xa, đều không thể bỏ lỡ dịp may hiếm có trong năm.
Người ta ví, chăm được một chậu lan quý cũng tựa như chinh phục được một cô gái đẹp. Cuộc chinh phục càng khó khăn thì chiến công càng vẻ vang, và kẻ chiến thắng càng thêm phấn khích, tự hào.
Có lẽ bởi vậy mà trong giới chơi hoa, mới nảy sinh thú vui trưng hoa, thưởng hoa, bình hoa. Để mà ở đó, người ta có dịp kể lể, tán tụng, so sánh, phẩm bình về vẻ đẹp và hương thơm của từng khóm lá, từng dò hoa. Xưa nay, trong muôn loài hoa cảnh, chỉ có hoa lan, thứ hoa "vương giả chi hương" mới xứng đáng được chủ hoa mở tiệc đón mừng, khao đãi. Thành ngữ "bữa tiệc thưởng hoa" ra đời từ đó cũng nên.
Thực ra, cái đáng quý nhất ở các loài địa lan chính là hương thơm của chúng. Tự xưa, đối với dân các nước Á Đông thì ngay cả trong các khái niệm thuộc về mỹ cảm, cũng nặng chất duy lý. Tuy hướng đến sự toàn bích, tận thiện, toàn mỹ, song nếu xét nét riêng, thì cái sắc cái hình vẫn không thể sánh nổi cái thanh, cái hương.
Bởi thế, tuy hoa trà, hoa mẫu đơn được bầu là chúa các loài hoa mà các bậc tiền nhân, vẫn coi chúng là những thứ hữu sắc vô hương, chẳng coi trọng tôn thờ như đối với các loài hoa mang hương thơm như thuy tiên, địa lan.
Tuy mỗi giống địa lan đều có hương thơm đặc trưng riêng khó lẫn, nhưng tựu trung hương thơm của hoa lan rất dịu dàng và thanh tao, nhẹ nhõm và tinh khiết. Lại nói, trong cuốn truyện vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng miêu tả sự tinh tế đến mức quá kỳ cầu, sự sang trọng đến mức quá cao xa của thú chơi hoa lan, nhất là khi các bậc tiền nhân tố chức một bữa tiệc thưởng hoa.
Chờ khi trong vườn có đôi dò lan hé nở, nhà chủ thường lấy mươi tờ giấy tốt, làm khung nứa mỏng, nương theo chiều cao của ngọn hoa mà phất đôi ba chiếc lồng bàn nhẹ. Thế rồi dâu gai trong nhà phải rửa sạch từng viên đá cuội trắng tròn, đem tẩm kẹo mạch nha nấu từ mầm lúa nếp, xếp vào những đĩa nhỏ, bầy quanh gốc lan, đậy lồng bàn cho kín. Sau một ngày đêm ủ hương lan như thế, nhà chủ mới mở tiệc trà hay rượu, mời đôi ba người bạn tri âm tri kỉ đến thưởng hoa, và ngâm vịnh thơ phú, bình luận văn chương.
Chao ôi! Cái thú chơi cao sang đến vậy, thì làm sao có thể tồn tại nổi trong mấy mươi năm chiến tranh giặc giã, Tây Tàu nhộn nhạo, mới cũ bất phân. Nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Hà, cộng tác viên thân tín mảng văn hóa Hà Nội cho các báo đài thủ đô có lúc rất ngậm ngùi:
- Mấy chục năm chiến tranh bao cấp Hà Nội khổ quá. Người dân lo ăn chả đủ nói gì đến thú chơi. Bao nhiêu thứ hoa cảnh, chim chóc cứ lay lắt rồi tàn lụi mất mát dần. Tiếc sao mà tiếc! Dẫu bây giờ có khôi phục lại cũng sẽ chuệch choạc lắm. Vì các cụ cao niên tinh sành đã theo nhau trước sau đi xa hết. Sách vở thì chả có mà dẫn truyền.
Vậy mà chỉ chừng sau mươi năm khi chiến tranh kết thúc, non sông thống nhất cuộc sống trở lại thanh bình no ấm, thì theo đó, thú chơi hoa lan cũng như thú chơi hoa cảnh chim cá quý hiếm như thủỷ tiên, trà hoa, hoạ mi, chim yến, đã phục hồi một cách nhanh chóng.
Gần đây, giới yêu hoa ở Hà Nội gồm các bậc văn nhân, trí giả, nghệ nhân cây cảnh, các bậc cao niền và cả những người trẻ tuổi, đã dần dần nhóm họp thành những hội chơi nhỏ. Họ thường đi lại thăm thú vườn tược hoa cảnh lẫn nhau, bàn bạc hỏi nhau cách thức chọn giống, chăm sóc phòng bệnh cho hoa, tìm tòi sưu tập thêm những giống hoa lan quý hiếm, mới lạ. Và họ coi đó là niềm vui đích thực, là những khoảng thư giãn cần thiết, là sự dinh dưỡng tinh thần hữu ích trong cuộc sống còn bộn bề lo âu vất vả hôm nay.
Gia đình ông bà Chi - Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai cứ mỗi mùa hoa nở lại mở tiệc khao đãi đôi lần. Khách gần khách xa nườm nượp kéo đến. Văn nhân, nghệ sĩ, thương gia đều hiện diện.
Có các cụ cao niên trên phố cổ, lại thêm các chàng thanh niên nông dân mới vào nghề trồng lan. Xem hoa, ngắm lá, thưởng hương, trầm trồ, bàn luận sôi nổi. Cụ Đặng Trường Lâm tuổi ngoại bẩy mươi, nhà ở phố Nguyễn Trường Tộ, râu tóc bạc trắng nhưng đôi mắt vẫn rất tinh anh, giọng nói sang sảng:
- Trên phố bây giờ làm gì ai có nổi khu vườn lan trà rộng lớn như thế này. Cũng khó ai sưu tập đủ hầu hết các giống địa lan cổ như nhà ông Chi đây. Tôi thích nhất chậu lan Hoàng điểm này. Hoa như gấm thêu, lá xanh toàn bích không một nốt đen vết xước nào. Hoa này còn chơi hằng tháng nữa cũng chưa tàn.
Ông Nguyễn Văn Hùng, kỹ sư trồng trọt của sở nông nghiệp Hà Nội cùng mấy cậu thanh niên trẻ xúm xít quanh khóm lan Ngân biên trổ hoa nâu phớt ánh vàng thâm trầm, quý phái:
- Quanh năm ông bà Chi - Thái chăm chút, bón tưới, phòng bệnh rất vất vả. Nhưng khi hoa nở khắp vườn lại mời gọi anh em đến thưởng lan, chia vui. Mọi người học thêm được ở ông bà nhiều kinh nghiệm nhân giống, chăm sóc, đánh giá lan rất quý giá. Chậu Ngân biên này chẳng hạn, hiếm lắm đấy, lá nó xanh trong lòng mà viền hai viền trắng hai bên, rất điệu đà.
Nghệ nhân Nguyễn Luân, một trong ba nghệ nhân địa lan giống cổ tại làng Nghi Tàm ở tuổi ngoại tám mươi vẫn lưu giữ bên hiên nhà mấy khóm lan quý Hoàng Vũ, Thanh Trường, Mạc Biên:
- Tôi chỉ chơi lan giống cổ truyền, tự nhân giống, tự chăm bón.
Nhưng tôi già yếu rồi nên cũng chả có sức được như xưa. Mươi năm nay bên Trung Quốc người ta mang giống lan của mình về bên ấy nhân ra trong phòng thí nghiệm rồi đem trở về Việt Nam bán nhiều lắm, giá rất rẻ. Nhưng lan đó hoa mảnh, sắc nhạt mà mùi hương lại nhạt nhòa, chỉ chơi được một mùa rồi tàn lụi dẫn. Sao bằng hoa bên ta được.
Vườn lan của nhà anh Nguyễn Vinh Dũng ở làng Nhật Tân cũng là một địa điểm đầy sức thu hút giới chơi lan ở Hà Nội và cả các tỉnh ngoài Bắc, trong Nam. Anh chị có một lối chơi lan rất cao ngạo. Nếu không gặp được khách mua đúng ý, không đáng chỗ trao gửi những đứa con yêu dấu, anh chị Dũng thà để lại vườn, mỗi tuần cắt vài chục giò trưng trong chiếc bình lớn, khiến không gian trong nhà ngoài vườn đều thơm nức như trong động tiên.
Một người cùng thế hệ chơi lan với anh Dũng Nhật Tân, thế hệ ngõ hầu có thể tiếp nối thế hệ chơi lan lão niên của Hà Nội như cụ Ninh, cụ Bội, cụ Luân, ông Chi, đó chính là vua lan Trần Tuấn Anh ở Đình Thôn, Nam Từ Liêm. Trong khuôn viên vườn lan rộng hàng nghìn thước vuông mát rượi luôn đan cài hai ba tầng hoa cao thấp. Hàng nghìn khóm phong lan, địa lan, thạch lan mùa nào cũng ngập tràn màu sắc. Ban đầu khi bước chân vào thú chơi lan,
Tuấn Anh nghiêng về phong lan, thạch lan. Trong đó có tổi 5 loại lan mà anh kỳ công sưu tập từ các miền rừng sâu núi thẳm khắp đất nước và đã được các nhà nghiên cứu lan trên thế giới đặt tên là Lan Tuấn Anh. Sau dần, qua thời gian, các giống hoa địa lan giống cổ Hà Nội vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh cũng đã chinh phục Tuấn Anh từ vẻ đẹp thanh tao và hương thơm huyền diệu của chúng. Hơn thế, thú chơi địa lan giống cổ còn chinh phục Trần Tuấn Anh bằng ý nghĩa tinh thần cao sang lịch lãm của văn hóa cổ truyền người kinh kỳ Thăng Long Hà Nội.
Đã lâu lắm rồi, kể từ thời đi thăm vườn lan của nghệ nhân Lê Quyết Bội trên Nghi Tàm từ vài mươi năm trước cho đến gần đây, tôi mới được gặp lại một vài cụm lan Thanh Ngọc vô cùng quý hiếm tại vườn lan Trần Tuấn Anh. Anh đang cùng những người bạn cộng sự đêm ngày cần mẫn nhân lên giống địa lan quý hiếm ấy. Tuy nhiên không phải qua vài ba năm mà đã được như ý. Mặc dù giá mỗi nhánh lan thanh ngọc trên thị trường hiện nay lên đến vài ba triệu đồng thì các chủ hoa cũng chả thể làm sao cho nó phát triển nhanh như các loại lan nhân giống trong phòng thí nghiệm để trở thành lan thương mại đại trà trên thị trường. Cái khó và cái quý lại là ở chỗ chậm chạp khác thường của địa lan giống cổ.
Tuấn Anh mê lan đến thành giai thoại trong làng hoa. Mê đến nỗi lấy cô vợ nào thì cô vợ ấy cũng đều mà bỏ đi vì không chịu nồi cảnh anh chồng chăm lan hơn chăm vợ, yêu lan hơn yêu vợ. Tam tứ phen rồi đó chứ không phải ít. Muốn truyền đam mê hoa lan cho các con mà chúng lại thờ ơ, bỏ bễ. Đứa sang Mỹ sinh sống đã đành, đứa ở lại Việt Nam cũng thế nốt. Rốt cuộc là chỉ còn có mình Tuấn Anh ở lại giữa vườn lan với những người giúp việc xa lạ và một bầy chó dễ đến vài chục con ngày đêm sủa nhăng nhẳng canh vườn lan quý. Vườn lan Tuấn Anh thuê đất tại Đình Thôn, Nam Từ Liêm đã mấy chục năm nay, nhưng sang năm Tân Sửu 2021 sắp bị chủ đất bắt di dời để lấy đất xây nhà. Vua lan muốn có một khoảnh đất riêng ở ngoại thành để lập vườn lan mới, nhưng chả có cấp thẩm quyền nào chịu chứng nhận cho anh là đang sản xuất nông nghiệp để bán đất quy hoạch trang trại cho. Thế mới khó thay! Tuấn Anh ngậm ngùi lắm:
- Các cụ cao niên làng lan xứ Bắc đã đi xa gần hết. Đến thế hệ tôi thì chỉ có một vài người. Khá là đơn độc. Các bạn trẻ tham gia thú chơi lan hiện nay cũng đông đúc, giỏi giang lắm. Nhưng đa phần các cậu ấy chỉ quan tâm đến việc kinh doanh kiếm lợi với những giống lan thời thượng chiều đãi thị hiếu đám đông, chứ không mấy ai mặn mà với việc sưu tập, bảo tồn, phục tráng các giống lan cổ truyền của cha ông. Đó là sự thực.
Lâu nay, nếu như giới chơi phong lan đang bị cuốn hút vào những dòng lan đột biến giá tiền bạc tỷ thì giới chơi địa lan lại đang bị hấp dẫn bởi những dòng lan kiếm (dòng lan lá to hình giống chiếc kiếm) mới sưu tầm được tại những vùng rừng sâu núi thăm của Việt Nam và các nước Đông Nam châu Á.
Trước nhu cầu thị trường địa lan càng phát triển, mở rộng, các nhà khoa học đầu ngành trồng trọt ở nước ta cũng chẳng thể thờ ơ, nếu như không nói rằng, nhu cầu đó cũng tạo lập một cơ hội tốt cho họ thể hiện sự tinh nhạy và tài năng chuyên môn. Bắt đầu từ năm 1997, Trung tâm Hoa cây cảnh thuộc Viện di truyền nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đề tài khoa học nghiên cứu phát triển các loài hoa địa lan thơm Hà Nội. Chị Phạm Thị Liên là người được giao chuyên nghiên cứu về đề tài nhân giống vô tính trong phòng thí nghiệm để đưa ra trồng đại trà các giống lan quý cổ truyền dân tộc. Đó chính là đề tài bảo vệ luận án tiến sĩ của chị hoàn thành tốt đẹp vào năm chuyển giao thế kỷ, năm 2000. Tuy nhiên, đề án cũng chỉ dừng ở một vài giống lan thông dụng như lan
Hạc đính, lan Trần mộng chứ chưa đạt số lượng như mong muốn với những giống lan quý hiếm của cha ông.
Kể thêm hầu quý vị một câu chuyện nhỏ. Tôi vốn gắn bó với làng trẻ mồ côi SOS Hà Nội tại Mai Dịch từ khi làng trẻ mới hình thành vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, thấm thoắt đã hơn ba mươi năm. Ngôi nhà Hoa Phượng trong làng trẻ là nơi tôi nhận đỡ đầu một cháu nhỏ mồ côi cho nên với tôi là thân thiết nhất. Người mẹ của nhà Hoa Phượng tên là Ngô Thị Sinh. Mẹ Sinh sinh năm Ất Mão 1975. Chị cũng như tất thảy các bà mẹ SOS, đều là những người phụ nữ tình nguyện không xây dựng hạnh phúc lứa đôi để trọn đời cống hiến cho sự nghiệp nuôi dưỡng trẻ mồ côi cơ nhỡ. Mẹ Sinh không chỉ nuôi dạy các con rất khéo léo mà còn có tài trồng rau quả cho các con ăn hằng ngày và chăm hoa cảnh trang trí khuôn viên quanh năm rất giỏi. Tại mặt trước ngôi nhà Hoa Phượng, mẹ Sinh trồng đầy phong lan, địa lan. Mùa xuân đến, hoa nở rạng rỡ, hương thơm ngào ngạt. Nói thì bảo buồn cười, nhưng trong đó tôi rất thích mấy khóm địa lan vào hạng bình dân nhất, giới sành chơi lan chả bao giờ đoái hoài đến, nhưng vẫn nở hoa tím ngát, đẹp đến nao lòng, ấy là hoa Chu đinh lan. Mẹ Sinh thấy mỗi lần tôi vào làng trẻ cứ mê mẩn ra ngắm vào trông nên vồn vã:
- Chu đinh lan thường lắm chị ạ. Trồng cho đẹp mắt thôi. Để em gửi biếu chị mấy giò lan thơm chị chơi nhé!
- Ấy không! Chị đi suốt, có thời gian đâu mà chăm hoa. Nó lụi đi thì phí lắm em ạ. Thi thoảng chị vào chơi với mấy mẹ con và xem ngắm là vui rồi. Chăm hoa phải có tay, chứ có phải ai muốn là cũng được đâu.
Những thú chơi cổ truyền thanh lịch hào hoa cứ dần dần sống lại, chẳng cần đến một cuộc hô hào vận động rầm rộ tốn kém nào, phải chăng chúng cũng chính là những tín hiệu có giá trị đích thực từ một cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một sung túc và hài hòa của người Hà Nội hôm nay./.
Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dư âm trống hội làng Mai
"Dư âm trống hội làng Mai" là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Sau mỗi keo đấu vật thờ Thánh, có tính chất thao diễn tượng trưng, màn "xe đài" ông lão Tư Đẩy chỉ còn có thể chạy quanh bên xới, cổ vũ cho các trai đô trẻ trong làng. Nhưng đã mấy năm rồi, trai đô làng Mai không giật được giải của chính hội làng mình.
Mỗi năm sau trận chung kết, nhìn các trai đô thiên hạ hùng dũng giật giải, mình trần, khố đỏ lễ tạ thánh hoàng làng, lòng lão đô vật oai hùng một thời không khỏi thoáng chút ngậm ngùi, xót xa...
Trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai.
Tùng tùng tùng tùng... Những hồi trống hội làng Mai Động rung lên trong không trung. Lá cờ đại trước cổng đình bay như lượn sóng trong gió xuân. Khói nhang thơm hòa trong màn sương sớm bảng lảng giăng đầy lối ngõ. Đầu xuân sớm, khi cây đa đầu đình vừa kịp trổ lứa búp lộc non tơ đầu tiên mịn màng như nhung lụa thì những tiếng trống hội làng Mai đã trỗi dậy vang động khắp cả một vùng phố thị, xóm làng rộng lớn. Gần 2000 năm đã qua, những hồi trống hội làng Mai đã trở thành những lời mời gọi vô cùng linh diệu cho con dân làng Mai từ tứ xứ trở về quần tụ nơi chốn tổ trong ngày hội vật Mai Động truyền thống từ xa xưa. Ca dao cổ Hà Nội đã có câu: Thanh Trì có bánh cuốn ngon / Có lò đấu vật, có con sông đào.
Ngày mùng bốn tháng Giêng âm lịch hàng năm chính là ngày khai hội của làng quề Mai Động đã bao đời nay. Hội làng Mai Động có những màn đấu vật đã từng nổi danh khắp xa gần.
Ông lão Tư Đẩy năm ấy tuổi đã ngoại bẩy mươi, tóc trắng như cước. Song nhìn những đường bước cùng với những mảng miếng tren xdi vat cia ong lac, thi cac do tre trai tu6i doi muci cũng thế mà học theo. Ông lão Tư Đẩy chính là một trong những đại diện sáng giá của làng vật Mai Động vào những năm giữa của thế kỷ XX. Nhưng theo quy luật của tạo hoa, không ai có thể trẻ mãi.
Hàng chục năm nay, ông lão Tư Đẩy chỉ có thể thi đấu thao diễn tượng trưng trong những keo vật thờ Thánh, keo vật khai hội mà thôi. Keo vật thờ mang tính nghi lễ và ước lệ cao với động tác đầu tiên gọi theo lối cổ là múa Xe đài bái Thánh.
![]() |
Trống hội làng Mai |
- Già rồi, lão chỉ lấy chén rượu làm vui thôi. Chứ mà thời trai trẻ thì lão đánh bay hết. Tư Đầy làng Mai chưa có thua keo nào bao giờ. Nhưng mấy năm nay thì chịu rồi. Nhường cho lới trai trẻ thôi.
Mai Động, xưa là hương Cổ Mai là vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long, thuộc huyện Thanh Trì cũ.
Tương truyền, vào những năm đầu công nguyên, có một người trai đô gốc ở xứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa) tên là Tam Trinh, người họ Nguyễn, ra nơi đây mở lò luyện võ cho trai đinh trong vùng. Mùa xuân năm 40, theo lời hiệu triệu của Hai Bà Trưng, Đô Trinh đã dẫn đầu 3000 trai đô trong vùng lên đường diệt giặc, góp công thu lại giang sơn gấm vóc. Hội vật làng Mai tương truyền cũng khởi nguồn từ ấy, trải đã kể gần hai ngàn năm. Lễ khai hội nhằm ngày mồng bốn tháng giêng, khi hương xuân, vị tết còn nồng nàn trên từng ngõ xóm. Lễ hội diễn ra tại sân đình Mai Động, nơi mà dân làng lập làm nơi thờ tự Đức Thánh Tam Trinh là thành hoàng tối linh, tối hảo của muôn đời.
Mở đầu dịp hội xuân làng Mai Động bao giờ cũng là lễ rước kiệu của Đức Thánh Tam Trinh từ nghè Mai Động ra đình Mai Động.
Tiếp đó là lễ dâng hương trang trọng và linh thiêng để tưởng nhớ công ơn của Đức Thánh với bà con dân thôn và khắp cả một vùng đất rộng lớn lân cận.
Lệ vật Mai Động có hai vai trọng tài đó là trọng tài trống và trọng tài sới.
Cuộc thi đấu sẽ bắt đầu khi trọng tài trống nổi hồi tróng khai hội. Tiếp đó, trọng tài sới sẽ giữ phần chỉ huy trận đấu, phân định thắng thua.
Sới vật được mở ngay trước sân đình, mở đầu cuộc thi bao giờ cũng là màn đấu vật do các lão đô vật kì cựu đã từng nhiều năm thi đấu và giật giải trong các kì hội làng thể hiện gọi là keo vật thờ
Thánh. Ngày đầu tiên trong cuộc thi đấu vật Mai Động, ngày 4 tháng Giêng bao giờ cũng dành cho các đô vật tuổi thiếu niên và nhi đồng thể hiện tinh thần trân trọng những mầm non tài năng của quê hương. Tuy nhiên, không khí thi đấu bao giờ cũng rất sôi động. Từ những giải đấu thiếu niên này biết bao thế hệ trai đô Mai Động đã trưởng thành và giành giải ở các cuộc thi dành cho các đô vật trưởng thành lừng danh toàn quốc. Ngày thứ hai, mùng 5 và ngày thứ ba, mùng 6 tháng Giêng là dành cho các cuộc thi đấu của các đô vật trưởng thành. Tự bao năm qua, sới vật Mai Động không chỉ là nơi hội tụ của các trai đô, lão đô trong làng mà còn thu hút danh tài từ tứ chiếng đến tỉ thí, so tài. Lệ thi vật dân gian truyền thống Mai Động không quy định cân nặng hay tuổi tác, chỉ là các trai đô trên 18 tuổi trở lên là có thể thách đấu và nhận lời thách đấu.
Sới vật sân đình Mai Động chính là nơi các trai đô thể hiện bằng hết các miếng võ dân gian cổ truyền đã được rèn tập suốt bao năm tháng. Không khí của các cuộc thi đấu cứ theo thời gian mà hun máu đến mức cao độ và buổi thi đấu kết hội vào chiều ngày 6 tháng Giêng. Lệ làng Mai Động quy định, mỗi đô vật sẽ thi đấu ba keo, thời gian mỗi keo không quy định dài ngắn. Cứ hẽ thắng thua rõ ràng là kết thúc. Có khi keo đấu chỉ bắt đầu vài mươi giây đã kết thúc, có khi keo đấu kéo dài vài giờ đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cựu đô vật Nguyễn Đoàn Thụy, người làng Mai Động còn nhắc nhớ:
- Sau ba keo đấu liên tục, hễ đô vật nào thắng cả ba đối thủ khác nhau thì đô ấy được giải. Nhưng mà trong lịch sử hội vật Mai Động có nhiều năm trời đã sập tối mà cuộc đấu vẫn dằng dai quyết liệt cho nên vẫn chưa phân định được giải. Vậy là các bô lão trong làng đành đi đến quyết định là chia đôi giải.
Những năm gần đây, giải thưởng cao nhất hầu như đều được trao cho các trai đô đến từ các sới vật ngoài làng Mai Động. Cụ Triệu Văn Hữu người làng Mai Động bày tỏ niềm tiếc nuối:
- Giải vật thờ Thánh bao giờ cũng phải trung thực, công minh.
Ai xứng đáng thì được nhận giải vào bái Thánh. Nhưng mà trước đây trai đô Mai Động thường khó để trai đô thiên hạ giành giải như mấy năm gần đây. Nghĩ cũng có chút chạnh lòng.
Khác với mọi hôm, lão đô Dũng hôm nay dậy từ rất sớm, lũ cháu nhỏ đang đợi ông dẫn ra đình dự hội, ngày hội mà chúng hằng mong mỏi suốt một năm ròng. Bà nhà biết ý, đã sắp cho ông một bộ quần áo đẹp. Chẳng gì thì bốn mươi năm trước, khi ông còn là một trai đô trẻ giỏi giang trong làng, sau lớp ông Tư Đẩy.
Đã có biết bao cô gái làng Mai từng phải lòng anh đô Dũng, rồi rốt cùng chỉ mình bà được theo ông về làm bạn. Thế mà, ra đến đám hội, ông đã hầu như quên mất có bà đi theo. Ông lao vào không khí đám hội bừng bừng, sôi sục. Chuyện đó là lẽ thường ở làng Mai này, khi mà ở làng, máu mê vật dường như lúc nào cũng chảy rừng rực trong huyết quản mỗi người đàn ông. Hào hứng xem lũ trẻ trong làng thi đấu, ông Dũng như sống lại cả một thời thơ ấu mê say thuở nào. Nhưng lũ trẻ làng Mai bây giờ thi đấu với nhau xem ra chỉ có chung một quyết tâm chiến thắng bằng sức lực, mà chẳng hề biết đến những mảng miếng, lệ luật võ vật dân tộc cổ truyền. Kể cũng tội nghiệp, chúng nào có được học hành luyện tập đến nơi đến chốn bao giờ đâu.
Lệ làng từ xa xưa trước ngày vào hội từ những lò vật nhỏ nằm rải rác trong khắp các thôn xóm đã diễn ra những cuộc đấu tập rèn luyện những miếng võ vật cổ truyển của làng Mai cho các đô vật, đặc biệt là các đô vật trẻ tuổi lớp cháu con. Rồi cứ tiếp nối như thế ông truyền cho cháu, cha dạy cho con, anh rèn cho em. Gia đinh, họ hàng và xóm giềng động viên, cổ vũ nhiệt liệt, đó chính là một trong những lề lối để giữ lại truyền thống thượng võ của cha ông xưa và rèn luyện sức khỏe cho người dân trong cả làng. Đó cũng chính là những cuộc rèn tập để chờ đến các cuộc đua tài hội xuân làng Mai Động. Nhưng nếu chỉ nhìn bề ngoài, khó ai biết được những thăng trầm của lò vật làng Mai. Ông Dũng than thở:
- Ngày xưa trai trẻ chúng tôi ăn có lúc chả đủ no nhưng luyện tập thì hăng hái lắm. Bây giờ đám trai trẻ chúng nó cứ say mê những trò gì chả biết. Đất làng vật mà chả mấy ai còn tập tành rèn luyện như ngày xưa.
Nếu như ông lão Tư Đẩy là đại diện cho lớp đô vật làng Mai vào những năm 50, ông Dũng là đại diện cho thế hệ kế tiếp ở thập kỷ 60, thì anh chàng trọng tài của trận đấu hôm ấy, anh đô Toàn là một trong những người đại diện cho lớp trai đô của làng vào thập niên 80 của thế kỷ XX. Anh đô Toàn, người nghềnh ngàng cao lớn chẳng khác nào pho tượng ông tướng cửa đình. Giọng nói nghe ồm ồm, ra dáng con nhà nòi võ vật. Trong ký ức của anh, làng Mai chưa bao giờ không sẵn những đô tài nổi danh, đặc biệt là những đô vật trước anh một thế hệ, thế hệ của thập niên 70, thế kỷ XX với biết bao ngón nghề mà anh từng khâm phục. Những chuyện đó như cũng đã lùi xa vào dĩ vãng, mỗi khi nhớ tới, là một lần lòng kiêu hãnh lại xen chút ngậm ngùi:
- Ví dụ có những miếng sườn nhanh, mà người ta gọi là sườn cóc. Nghĩa là vào sới có thể vật ngã đối thủ trong tích tắc. Lại có những miếng như là miếng sườn quỳ. Khi bị đối phương đánh ngã, ngã quỳ trên sới rồi mà vẫn có thể dùng miếng sườn quỳ ấy quật ngã lại đối phương. Lại có khi đã ở cuối thế lồng tay tư, sắp gục mà dùng được miếng vật, gọi là miếng moi, quay ngang đánh ngã đối phương. Nhưng những miếng vật hay như thế, bây giờ hiếm thấy ở lớp trẻ.
Có nhiều yếu tố khiến cho phong trào vật ở Mai Động chỉ dừng ở bề nổi, chỉ dừng ở vẻ rực rỡ hình thức trong lễ hội, mà không đi vào chiều sâu của việc rèn luyện thể dục, thể thao, bảo vệ sức khỏẻ, duy trì tinh thần thượng võ. Trước hết là do thiếu các điều kiện luyện tập như sân bãi, kinh phí. Như nhiều làng xã ven đô, làng Mai Động, không mấy chốc sẽ trở thành phố. Dấu ấn văn hoa làng quê xưa cũ đang dần phôi pha. Những tập tục cổ truyền hầu như cũng đang sắp lạt phai theo năm tháng, hoặc bị chìm lấp dần trong nhịp sống đô thị hiện đại. Nhưng ngẫm lại thì nguyên nhân dẫn đến sự mai một dần của phong trào luyện tập võ vật thường xuyên ở Mai Động, chính là thiếu một sự quan tâm, động viên, và thiếu trách nhiệm tổ chức, tập hợp của chính quyền và các cơ quan chức năng hữu quan, như ngành văn hóa thông tin và ngành thể dục thể thao.
Có một mảnh vườn nằm sâu giữa làng trước đây từng là một xới luyên vật có hàng chục trai đô của làng góp mặt. Nhưng giờ đây, nó hầu như đang bị bỏ hoang. Bà Lê Thị Loan, một người phụ nữ có ông chồng và cả hai đứa con trai đều mắc máu mê vật, đang dùng chiếc chổi tre quét sàn sạt trên mảnh vườn lỏng chỏng mấy tay tạ cũ gỉ cùng mấy món đồ nghề luyện tập thể dục mốc thếch:
- Mấy năm trước, bố con chúng cũng gọi được thêm mấy đô trẻ trong làng đến tập luyện. Tập xong, có mùa giành giải nhất đấy.
Thế nhưng mà rồi phường phố chẳng có gì quan tâm động viên, duy trì, nên bố con chúng cũng nản. Mấy năm rồi toàn là người thiên hạ về giật giải của làng thôi. Trai làng chỉ vật ở vòng ngoài, không mấy ai vào đến vòng kết.
Nguyễn Văn Trường là một chàng trai Mai Động cách đây ba bốn năm đã từng giật giải hội làng. Không hiểu sao, có lúc ma đưa lối, quỷ dẫn đường, chàng trai đô đã sa vào làn khói ma tuý đây huyễn hoặc. Tại Mai Động, đó không phải là trường hợp đáng buồn duy nhất. Bây giờ, Trường đang trong giai đoạn cai nghiện tại nhà, khó khăn và khổ sở biết mấy. Có lẽ, chỉ có trò luyện vật cho lũ trẻ là niềm vui bé nhỏ của chàng trai. Liệu rồi anh có trở lại được phong độ của một thời không xa lẫy lừng trên xới vật? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.
Thiếu đi một lớp trai đô thời hiện tại, đó là một thiệt thời cho đất làng Mai. Thế nhưng đối với những con người giàu tâm huyết trong làng, thì việc bắt đầu trở lại chưa bao giờ lại có thể coi là muộn. Nhất là khi lớp trẻ mê vật trong làng, cũng hàng trăm đứa.
Chúng mê từ tiếng trống hội làng mà mê sang những mảng miếng thần tình của cha ông. Hướng cho chúng vào một niềm mê say lành mạnh, tức là đã góp phần giúp cho lớp trẻ có điều kiện lánh xa những tệ nạn xã hội nguy hiểm như cờ bạc, nghiện ngập, những tệ nạn đang lây truyền khá là mạnh mẽ ở ngay chính mảnh đất văn hiến lâu đời này. Ông lão đô vật Dũng ở tuổi ngoại lục tuần vẫn tràn ngập hy vọng ở lớp trẻ. Giữa những buổi luyện tập, ngẫu hứng, ông thường kể cho chúng về một thời hào sảng, trẻ trung năm nào:
- Ngày xưa, khi ông còn trai trẻ, dịp lễ hội mùa xuân, thường nhóm bạn đi vật hội khắp các làng xã mấy tỉnh thành, thắng thua đều háo hức lắm. Đến dịp hội Gióng mồng chín tháng Tư âm lịch mới coi như kết thúc. Con người ta qu nhất là sức khoẻ. Có sức khoe mới có thể làm ra của cải, gây dựng cuộc sống ấm no.
Trong đám hội làng Mai Động mồng 4 tới mồng 6 tháng Giêng, người ta vẫn thường bắt gặp rất nhiều gương mặt già trẻ gái trai từ khắp nơi về tụ hội. Đặc biệt là người dân trên các phố Hà Nội.
Một ông lão mặc bộ com lê màu ghi sáng, đội chiếc mũ phớt sang trọng tươi cười xưng tên là Lê Văn Hùng, nhà ở số 71 phố Nguyễn Lương Bằng. Tuy đã ở tuổi ngoại bẩy mươi nhưng chưa năm nào ông bỏ một mùa hội làng Mai. Mỗi lần dự hội, ông như thấy mình thêm một lần trẻ lại:
- Nghe tiếng trống thúc là thấy như mình cũng muốn lao vào xới vật. Người cứ như uống được liều thuốc tiên. Tôi còn sống còn mong đến mùa xuân, còn đi xem hội vật làng Mai. Thật đấy.
Còn mấy cô nữ sinh trung học, đang còn khoác nguyên ba lô sách vở trên vai, những gương mặt sáng ngời và những đôi mắt lấp lánh đang háo hức chờ đón điều gì sau hồi trống kết hội? Nguyễn Thanh Mai, nữ sinh trường trung học phổ thông Minh Khai rất hồ hởi:
- Chúng em vừa tan buổi học đầu xuân mùng sáu tết là về ngay đây còn kịp xem màn chung kết. Nghe trống giục rất phấn khích. Giống như tham gia trò chơi cảm giác mạnh. Xem ai thắng giải chúng em vào xin chụp kiểu ảnh đưa FB cho oách ạ.
Khoảng trên chục năm trở lại đây, luồng gió đổi mới trong nền kinh tế xã hội của thành phố đã thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ làm sống dậy những truyền thống văn hóa tinh thần tốt đẹp trong quá khứ. Truyền thống thượng võ lâu đời của dân làng Mai cũng trở lại rạng rỡ cùng những kỳ hội làng mùa xuân.
Vợ chồng anh đô Toàn dù hàng ngày phải lao tâm lăn lộn chốn thương trường vì cuộc mưu sinh thường nhật, nhưng mỗi dịp tết đến, xuân về, không bao giờ quên mua một cành đào thật lớn dâng lên ban thờ tổ. Đó chính là ý nguyện của ông nội anh thưở sinh thời, khi cụ còn là một đô vật nổi danh hàng đầu của làng Mai những năm trước Cách Mạng Tháng Tám. Bởi vì hội làng Mai mở đúng dịp Tết Nguyên đán, cùng với mùa đào hoa rực rỡ. Và sâu xa trong ý nguyện đó, là ước mong cho truyền thống thượng võ của người làng Mai mãi mãi rỡ ràng, cho mãi mãi hội làng Mai xứng danh trong nỗi nhớ và niềm tự hào không chỉ của người làng Mai.
Sau mỗi keo đấu vật thờ Thánh, có tính chất thao diễn tượng trưng, màn xe đài ông lão Tư Đẩy chỉ còn có thể chạy quanh bên xới, cổ vũ cho các trai độ trẻ trong làng. Nhưng đã mấy năm rôi, trai đô làng Mai không giật được giải của chính hội làng mình. Mỗi năm sau trận chung kết, nhìn các trai đô thiên hạ hùng dũng giật giải, mình trần, khố đỏ lễ tạ Thánh hoàng làng, lòng lão đô vật oai hùng một thời không khỏi thoáng chút ngậm ngùi, xót xa... Trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai.
Và anh độ Toàn cũng vậy, vẫn khắc ghi trong dạ một nỗi buồn sâu thẳm. Thế nhưng khi tiếng trống hội làng bắt đầu trỗi dậy, anh lại mê say lao vào vị trí trọng tài mà dân làng giao phó. Mà phẩm chất cao đẹp nhất của người trọng tài là công bằng và phân minh, trung thực và vô tư.
Kể từ khi được phục hồi, danh tiếng của hội vật Mai Động ngày càng trở nên sáng giá thu hút rất nhiều danh tài tứ xứ, kể cả các tuyển thủ trong đội tuyển vật quốc gia về tranh tài và đoạt giải.
Người được giải sẽ được trao phần thưởng lên tới hàng triệu đồng do dân làng Mai Động đóng góp và được mang nguyên trang phục thi đấu đơn sơ vào lễ tạ Đức Thánh hoàng làng. Tuy nhiên, trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai. Và anh đô Tài cũng như biết bao những cựu đô vật của làng Mai, vẫn hằng gửi gắm bao hy vọng vào lớp đô vật tý hon của làng. Chờ tới những mùa hội làng xuân mới, sẽ lại có lúc, anh kiêu hãnh giương cao cánh tay của trai đô làng Mai trong niềm vui chiến thắng.
Tùng tùng tùng tùng... Tùng tùng tùng tùng... Nhớ sao những hồi trống vật làng Mai.
Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới
“Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới” là nhan đề bài viết theo Chuyên trang Hồ sơ sự kiện được đăng tải trên Tạp chí Cộng sản, là bài Podcast mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Gia tộc Rothschild là “triều đại” ngân hàng - tài chính của các tỷ phú gốc Do Thái giàu hàng đầu thế giới. Báo chí gọi Rothschild bằng những cái tên khác nhau như “chủ của các ngân hàng trên thế giới”, “hoàng đế tài chính của người Do Thái” hoặc “Nhà nước ngầm” đang nắm quyền kiểm soát thế giới và tài trợ cho các cuộc chiến tranh, xung đột và “cách mạng màu” để lật đổ các chính phủ không đáp ứng lợi ích của họ.
Lịch sử hình thành và phát triển của Rothschild
Tên tuổi nhiều gia tộc tài phiệt của người Do Thái gắn liền với thành phố Frankfurt on Main của nước Đức. Gia tộc Rothschild cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuối thế kỷ XVII, Frankfurt on Main là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở nước Đức và có quan hệ thương mại chặt chẽ với các thành phố lớn khác của châu Âu.
Ở Frankfurt on Main có sàn giao dịch chứng khoán lâu đời hàng đầu thế giới. Từ thế kỷ XVI, các giao dịch lớn bằng cổ phiếu đã được thực hiện tại các hội chợ Frankfurt. Đến thế kỷ XVIII, người Do Thái gần như độc quyền buôn bán kim loại quý, kim cương và các loại hàng xa xỉ ở châu Âu, mang lại cho họ đòn bẩy ảnh hưởng đối với tầng lớp quý tộc.
Sự hiện diện của người Do Thái trong hệ thống tài chính châu Âu thu hút sự chú ý đặc biệt sau cuộc Chiến tranh Napoleon (1803 - 1815) bởi sau cuộc chiến này đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của gia tộc Rothschild.
Người sáng lập gia tộc Rothschild là Mayer Amschel, sinh năm 1743 tại khu ổ chuột dành cho người Do Thái ở Frankfurt on Main. Cha của Mayer Amschel là Amschel Moses Bauer - người quản lý một văn phòng đổi tiền được trang trí bằng một biểu tượng dưới dạng chiếc khiên màu đỏ khắc hình ảnh con đại bàng được mạ vàng.
Vì thế, về sau Mayer Amschel chọn từ Rothschild để đặt tên cho dòng họ của ông, có nghĩa là “chiếc khiên màu đỏ”. Từ đó, tên của Mayer Amschel được đổi thành Mayer Rothschild.
Năm lên 12 tuổi, Mayer Rothschild đến thành phố Hanover và bắt đầu học việc tại ngân hàng Oppenheimer - một gia tộc ngân hàng của người Do Thái. Khi trở về Frankfurt on Main, Mayer Rothschild bắt đầu sự nghiệp bằng hoạt động kinh doanh tiền đúc từ kim loại quý và đồ cổ, chủ yếu là huân, huy chương cổ.
Vì vậy, có giả thuyết cho rằng, tài sản kếch sù của gia tộc Rothschild bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh tiền đúc. Từ năm 1764, Mayer Rothschild bắt đầu cung cấp tiền xu và vàng cho Hoàng đế William IX và Bá tước Hesse-Kassel - một trong những vị quân chủ giàu nhất châu Âu thời bấy giờ.
Từ năm 1769, Mayer Rothschild trở thành chủ một ngân hàng tư nhân và là nhà cung cấp tài chính chủ yếu cho gia tộc Hesse-Kassel.
Bộ luật gia tộc Rothschild do Mayer Amschel soạn thảo Mayer Rothschild là chủ nhân đầu tiên của gia tộc Rothschild. Để duy trì và phát triển gia tộc, Mayer Rothschild soạn thảo bộ luật gia tộc gồm 5 điều.
Điều 1, chỉ giao quyền quản lý doanh nghiệp cho các thành viên trong gia tộc. Chỉ có nam nhân mới được tham gia kinh doanh và chỉ có nam nhân trực hệ mới có quyền được thừa kế.
Con trai cả trong các gia đình của gia tộc là chủ nhân của gia đình có quyền ra quyết định trên cơ sở đồng thuận của các thành viên khác.
Điều 2, nam nhân chỉ được phép kết hôn với chị em họ thế hệ thứ hai để tài sản tích luỹ được và tên tuổi chỉ thuộc về gia tộc và phục vụ cho sự nghiệp chung của gia tộc. Nữ nhân chỉ được phép kết hôn với giới quý tộc và vẫn duy trì đức tin của mình là Do Thái giáo.
Điều 3, không được phép kê khai tài sản của gia đình, cũng không được tiết lộ quy mô tài sản, kể cả trong trường hợp phải ra hầu tòa. Tranh chấp giữa anh em chỉ được giải quyết trong nội bộ gia đình.
Điều 4, các thành viên trong gia tộc sống hòa thuận, tin tưởng và yêu thương nhau, cùng chia sẻ lợi nhuận một cách bình đẳng.
Điều 5, các thành viên gia tộc duy trì lối sống khiêm tốn, tiết kiệm bởi đây là một trong những yếu tố làm nên sự giàu có.
Điều 6, quyền lãnh đạo gia tộc được trao cho thành viên nào có năng lực hơn tất cả trong việc làm giàu cho gia tộc mà không phụ thuộc vào thâm niên hành nghề hay tuổi tác. Nhờ sự tập trung quyền lực này mà gia tộc Rothschild đã vượt qua mọi cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.
Các thành viên thế hệ đầu tiên của gia tộc Rothschild
Mayer Rothschild là người đặt nền móng cho khối tài sản khổng lồ của Rothschild và có 5 con trai được đặt tên là Amschel, Solomon, Nathan, Karl, James, tất cả đều mang họ Rothschild.
Chính các con trai của Mayer Rothschild đã nhân số tài sản của gia tộc lên gấp hàng nghìn lần, trong đó có 2 người kiểm soát 5 ngân hàng ở các thành phố lớn nhất châu Âu. Amschel Rothschild - con trai cả của Mayer Rothschild - đứng đầu ngân hàng ở Frankfurt on Main năm 1812, sau khi cha ông qua đời.
![]() |
Gia đình Rothschild. |
Về sau, do Amschel Rothschild không có con nên sau khi ông qua đời, quyền quản lý ngân hàng được chuyển cho các cháu trai của ông. Nathan Rothschild mở một doanh nghiệp ở London - nơi ông thành lập ngân hàng N. M. Rothschild & Sons vào năm 1811. Năm 1814, ngân hàng này tài trợ cho cuộc chiến chống lại Napoleon.
Năm 1816, Solomon Rothschild mở một ngân hàng ở Vienna và là người thành lập chi nhánh Rothschilds ở Áo. Ông là nhà công nghiệp và là chủ đất lớn nhất ở Áo, sở hữu các mỏ than ở Vitkovica và một nhà máy sản xuất nhựa đường ở Dalmatia.
Trái với bộ luật của gia tộc, Nathan Rothschild kết hôn với Chana Cohen - con gái của tỷ phú Barent Cohen và là người Do Thái giàu nhất châu Âu thời bấy giờ. Con trai Nathan Rothschild là Lionel Rothschild tiếp tục mở rộng đế chế tài chính của gia đình. Một chi tiết khá thú vị là Karl Marx - người sáng lập chủ nghĩa Marx xuất thân từ gia đình bên ngoại của Barent Cohen.
Chính gia tộc Rothschild xây dựng đế chế tài chính ở Anh, phần lớn dựa vào vị thế của các nhà tài phiệt gốc Do Thái có quan hệ họ hàng thân thiết. Gia tộc Rothschild nhanh chóng phát huy ảnh hưởng rất lớn trong giới tài chính Anh. Chính Nathan Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu để thành lập Ngân hàng Anh trong 2 năm 1825 - 1826.
Năm 1885, con trai của Nathan Rothschild là Nathaniel Rothschild trở thành huân tước và là người Do Thái đầu tiên được gia nhập câu lạc bộ các huân tước của nước Anh. Thủ tướng Anh David Lloyd George gọi Nathaniel Rothschild là người đàn ông quyền lực nhất nước Anh vào năm 1909.
Karl Rothschild - con trai thứ tư của Mayer Rothschild - mở ngân hàng ở Naples và trở thành người đứng đầu chi nhánh Naples của gia tộc Rothschild và trở thành chủ ngân hàng của Giáo hoàng và Vương quốc xứ Sicilia.
Con trai út James Rothschild khởi đầu kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Paris và thành lập công ty kinh doanh De Rothschild Freres. Ông là một trong những nhà tài trợ cho các nhà cách mạng thế kỷ XIX, trở thành đồng minh của Mỹ và là bạn thân của Tổng thống Abraham Lincoln.
James Rothschild từng tuyên bố: “vũ khí đích thực không được cất giữ trong kho trang bị của các bộ trưởng chiến tranh ngu ngốc mà là trong ngân hàng của tôi”.
Tài sản của Rothschild
Gia tộc Rothschild tuân thủ rất nghiêm ngặt các điều luật của triều đại này và không tiết lộ quy mô tài sản của mình. Theo ước tính thận trọng của giới phân tích tài chính, tính đến năm 2024 tài sản của gia tộc Rothschild có thể vượt quá 3.500 tỷ USD.
Ngoài khối tài sản khổng lồ bằng USD này, gia tộc Rothschild còn sở hữu khối tài sản vô hình có giá trị không kém. Đó là tài nguyên thông tin. Từ những năm đầu thập niên thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild đã tạo ra mạng lưới đại lý và bộ máy thông tin nhanh nhạy nhất thế giới.
Họ là những người đầu tiên biết được mọi chuyện đang diễn ra ở thủ đô các nước trên thế giới và thu về bội tiền trên sàn giao dịch chứng khoán. Gia tộc Rothschilds thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường bằng mọi cách mà pháp luật không cấm.
Nathan Rothschild từng tuyên bố: “ai sở hữu thông tin sẽ kiểm soát thế giới”. Chính Nathan Rothschild là người biết trước Napoleon sẽ đại bại ở trận Waterloo. Với thông tin này, ông kiếm được 40 triệu bảng Anh trên sàn giao dịch chứng khoán.
Gia tộc Rothschilds ở Nga
Từ thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild theo đuổi mục tiêu chính ở Nga là thiết lập quyền kiểm soát các mỏ dầu ở Baku. Từ năm 1886, Ngân hàng Rothschild Brothers sở hữu cổ phần của Công ty thương mại và công nghiệp dầu mỏ Biển Đen - Caspian và bắt đầu tham gia tích cực vào việc phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ ở vùng Caucasus. Rothschild từng tài trợ cho các dự án xây dựng tuyến đường sắt Baku - Batumi.
Từ năm 1887, họ độc quyền vận chuyển dầu mỏ từ Azerbaizan. Đến năm 1890, Rothschild kiểm soát 42% lượng dầu xuất khẩu từ Baku. Công ty dầu mỏ Rothschild thuê tàu chở dầu để vận chuyển qua kênh đào Suez và kiểm soát dầu từ Baku tới thị trường trên khắp các châu lục. Gia tộc Rothschild mua tàu chở dầu trên biển Caspian và xà lan chở dầu trên sông Volga.
Cuộc cách mạng năm 1905 ở Nga châm ngòi cho cuộc khủng hoảng trong ngành sản xuất dầu mỏ do các cuộc đình công, đốt phá các cơ sở sản xuất dầu, làm tê liệt hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của Rothschild sang châu Âu.
Năm 1912, dự đoán trước cuộc cách mạng sẽ bùng nổ vào năm 1917, Rothschild quyết định ngừng kinh doanh dầu mỏ ở Nga và bán tất cả tài sản ở Nga cho Công ty Royal Dutch Shell của Anh - Hà Lan.
Trong kỷ nguyên Chiến tranh lạnh, gia tộc Rothschilds từng tài trợ cho các dự án nhằm làm tan rã Liên Xô. Chính Rothschild tài trợ cho chiến dịch bí mật đưa Mikhail Gorbachev lên cầm quyền và tiến hành công cuộc “cải tổ” và phong trào ly khai trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô.
Vai trò của “nhà nước ngầm” Rothschild
Gia tộc Rothschild đứng đằng sau các dự án chính trị có ý nghĩa toàn cầu. Karl Marx và V. I. Lênin đều cho rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Là đế chế tài chính - ngân hàng lớn bậc nhất thế giới, Rothschild có ảnh hưởng đến các dự án chính trị có tác dụng làm thay đổi thế giới.
Dự án hình thành “nhà nước toàn cầu”. Gia tộc Rothschild chủ trương cùng với các tập đoàn tài phiệt Mỹ, đứng đầu là các tập đoàn tài phiệt Rockefeller và Morgan, thành lập “nhà nước toàn cầu” để giành quyền kiểm soát thế giới thông qua các công cụ tài chính.
Theo chủ trương đó, họ nỗ lực biến quá trình toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh thành quá trình “Mỹ hóa thế giới” thông qua vai trò độc tôn của đồng USD, Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF).
Dự án xây dựng trật tự thế giới mới đơn cực sau Chiến tranh lạnh. Trật tự thế giới mới là chủ trương của Rothschild và các tập đoàn tài phiệt Mỹ thiết lập các công cụ xuyên quốc gia để giành quyền kiểm soát thế giới sau khi Liên Xô tan rã và trật tự thế giới đơn cực sụp đổ.
Dự án thành lập câu lạc bộ các tỷ phú vàng. Đây là câu lạc bộ của các nước phát triển kinh tế hàng đầu ở phương Tây với tổng dân số khoảng 1 tỷ người coi phần còn lại của thế giới chỉ là nguồn tài nguyên làm giàu cho họ.
Đối với giới tinh hoa của câu lạc bộ tỷ phú vàng, các nước phát triển cao ở phương Tây là “vườn địa đàng”, phần còn lại của thế giới là bãi thải công nghiệp, đồng thời duy trì quyền kiểm soát thế giới ngoài phương Tây trong trạng thái “hỗn loạn có kiểm soát”. Chính vì thế, chiến tranh, xung đột, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... bùng phát với tần suất ngày càng lớn.
Dự án tài trợ cho các cuộc “cách mạng màu”. Gia tộc Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu cho các cuộc “cách mạng màu” và đảo chính vũ trang ở châu Phi, Georgia, Kyrgyzstan, Trung Đông, Ukraina và nhiều quốc gia khác.
Trong đó, gia tộc Rothschild chọn ra tổng thống và thủ tướng của nhiều nước và khi cần sẽ loại bỏ họ. Rothschilds cũng là nhà tài trợ cho tiến trình Brexit đưa Anh rút khỏi EU./.
Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên
Cho đến bây giờ, ven nội thành cũ ở Hà Nội, chỉ còn có 2 chợ còn mang chút dấu ấn xưa cũ và còn giữ lệ họp theo phiên. Đó là chợ Mơ ở phía Nam , họp vào ngày 2, ngày 7 và chợ Bưởi ở phía Tây Bắc, họp vào ngày 4, ngày 9. Tuy nhiên, từ ngày cả 2 ngôi chợ này được xây dựng thành trung tâm thương mại, thì phong vị xưa cũng mai một đi nhiều, chỉ là còn chút nét xưa rơi rớt
Chợ Bưởi một tháng sáu phiên
Vào những năm cuối của thế kỷ 20, người Hà Nội cứ mở cửa ra đường, chưa cần đi tới chợ là đã có thể cùng lúc mua được hàng trăm loại mặt hàng khác nhau, từ mớ rau con cá cho đến cả áo quần, mũ nón. Nhưng vẫn có những thứ mà hễ cần đến, thì cứ nhất định phải đợi tới 6 ngày nhất định trong tháng âm lịch, đánh một chuyến lên chơi chợ Bưởi.
![]() |
Chợ Bưởi. |
Ông Nguyễn Văn Biên, người ở phường Dịch Vọng quận Cầu Giấy loay hoay trở đi trở lại bên mấy lồng thỏ con hồng hồng, xam xám. Vườn nhà rộng, lũ trẻ lại thích nuôi con gì là lạ, khác khác với gà vịt, ngan ngỗng, chó lợn. Vậy thì chỉ có con thỏ là hay nhất, lũ trẻ lại có thể chơi được với chúng. Nên hôm nay nhất định phải kiếm được một đôi.
Anh Hoàng Mạnh Hùng nhà ở trong khu phố cổ quận Hoàn Kiếm thì tha thẩn bên mấy hàng cây hoa cảnh, trên tay đã cầm sẵn một gốc hoa lý đỏ, thứ hoa leo giàn không rụng lá theo mùa, lại nở bông đúng vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền. Thứ cây này mới xuất hiện ở Hà Nội chừng mươi năm, gây trồng hơi khó, nên các hàng rong trên phố không sẵn. Chỉ có lên chợ Bưởi đặt hàng mới có. Cây ở chợ Bưởi vừa rẻ vừa hợp ý hơn hẳn ở các hàng rong trên phố.
Cho đến bây giờ, ở Hà Nội, chỉ còn có 2 chợ còn mang dấu ấn xưa cũ và còn giữ lệ họp theo phiên. Đó là chợ Mơ ở phía Nam thành phố, họp vào ngày 2, ngày 7 và chợ Bưởi ở phía Tây Bắc thành phố họp vào ngày 4, ngày 9.
Ca dao Hà Nội cổ có câu: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên / Ngày tư, ngày chín cho duyên đèo bòng.
Ngày xửa ngày xưa, chợ Bưởi vốn đã được định vị ở nơi đây trên đất làng Yên Thái ở bờ Tây Nam của Hồ Tây. Chợ nằm ở trung tâm của vùng Kẻ Bưởi cũ, giữa một vùng làng nghề thủ công làm giấy, dệt lụa, dệt lĩnh, nấu nha, nuôi lợn, trồng dâu...
Kẻ Bưởi gồm gần chục làng mang tên Nghĩa Đô, Trung Nha, Vạn Long, Bái Ân, Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài, Đông Xã, Hồ Khẩu...
Chợ Bưởi nằm bên chốn hợp lưu giữa 2 con sông tự nhiên Tô Lịch và Thiên Phù, nên thuận lợi trong việc giao lưu buôn bán trên bến dưới thuyền. Chợ lại nằm kề vòng tường thành bao quanh kinh đô Thăng Long, nên dân cư tập trung qua lại khá đông đúc. Người xưa có câu, "nhất cận thị, nhị cận giang" là thế.
Đặc sản chợ Bưởi
Chợ Bưởi tự xưa vốn là nơi buôn bán hàng hoá của dân các làng nghề trong vùng. Theo các thư tịch cũ còn lại. Chợ Bưởi từng có tới 15 gian hàng bán buôn các loại giấy do dân các làng nghề Kẻ Bưởi làm ra. Đó là giấy bản của làng Yên Thái, giấy moi của làng Hồ Khẩu, giấy quỳ của làng Đông Xã, giấy xề của làng Yên Hoà. Nhưng cho đến bây giờ thì chị Ba, một người hàng giấy thật thà bộc bạch:
- Tôi là con gái làng Bưởi, bán hàng ở chợ cũng đã lâu, nhưng làng Bưởi bây giờ chẳng còn mấy nhà làm giấy, giấy này tôi phải ra chợ Đồng Xuân cất về.
Cô hàng trẻ tuổi kế bên thì nhanh nhảu:
- Giấy này không phải giấy Bưởi chị ạ, mà là giấy Bắc Ninh. Giấy Bưởi thì khổ rộng hơn và mặt mịn hơn. Nhiều người vẫn hỏi, nhưng không hiểu tại sao dân trong làng không làm nữa.
Tuy nhiên, cũng không hẳn là nghề làm giấy ở vùng này đã mất hẳn. Bằng cớ là tại chợ, ở gian hàng sắt, vẫn thấy người ta bầy bán những con dao xén giấy đặc chủng sắc như nước, hình cong cong tựa một chiếc hái lúa và một số dụng cụ chuyên dụng khác như liềm xeo giấy, thép can giấy do người làng Xuân Đỉnh ở phía Bắc Hồ Tây đem về hoặc các loại khung phơi, sọt, sề, rổ rá, thúng từ các làng Cổ Nhuế (Từ Liêm) đem xuống, hay các làng Văn Quán (Phú Xuyên), Tự Khoát (Thanh Trì) đem lên. Trong làng duy chỉ còn vài cơ sở làm giấy nhuộm màu cho các nhà làm hàng mã hay học sinh dùng làm thủ công và giấy vệ sinh các loại.
Ở chợ Bưởi, còn có các hàng nông cụ phục vụ cho bà con nông dân các vùng xung quanh. Những là cuốc cày, xén hái, mai thuổng... màu thép loáng lên xanh ngời trong ánh nắng. Song xem ra người mua cũng thưa thớt...
Chợ Bưởi trước đây còn là nơi đầu mối bán buôn các loại hàng lụa lĩnh của các làng nghề ven Hồ Tây thuộc vùng Kẻ Bưởi. Phương ngôn kẻ chợ có câu: "Lĩnh Hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã". Nhưng bây giờ đi cả chợ, bói cũng không ra một tấm lĩnh cổ truyền. Nghề dệt lĩnh Bưởi đã đi vào dĩ vãng từ những năm trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Bây giờ, khắp chợ tràn ngập vải vóc lụa là nhập từ nước ngoài về. Ngày xưa, chợ còn là nơi bán buôn các loại hàng hoá do dân trong vùng sản xuất như mạch nha An Phú, bánh kẹo Xuân Đỉnh, cốm Vòng (Dịch Vọng)... Bây giờ, những mặt hàng này cũng vẫn thấy bày bán loáng thoáng trong chợ, chưa mất hẳn bóng dáng.
Chợ Bưởi cũng còn là nơi mà bà con các vùng ven Hà Nội đem hàng nghề truyền thống đến bán buôn. Bây giờ, cứ đến ngày chợ phiên, ở phía cổng chợ lối lên xuống từ đường Hoàng Hoa Thám, người ta vẫn ngóng bóng bà bán kẹo bột làng Lủ (Thanh Trì) đầu trùm khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, miệng ăn trầu bỏm bẻn. Hai đầu quang gánh lỉnh kỉnh những là kẹo vừng, kẹo lạc, bỏng ngô, bỏng gạo bọc trong những tấm lá chuối khô chéo lạt rơm và lủng lẳng mấy xâu bánh men rượu như những mảnh trứng nhện trắng màu vôi bột, còn dính mươi mảnh vỏ trấu vàng ươm.
Ông hàng thừng chão Trung Văn (Từ Liêm) quần nâu áo cánh, quạt nan phành phạch ngồi giữa đám thừng sợi to nhỏ quấn vòng, tết vặn đủ các kiểu. Ông kể rằng:
- Chợ Bưởi cách đây dăm sáu chục năm trước chỉ có hai cầu chợ ngói. Còn thì đều là lều lán tạm. Còn sau hoà bình lập lại 1954 mới làm lại tất cả bốn năm cầu chợ. Cây bóng mát cũng mới trồng từ dạo ấy. Ngày xưa, tôi bán toàn thừng giang, thừng tre, thừng nứa, thừng đay, thừng gai... Nhưng bây giờ làng tôi làm cả thừng ni lông, thừng nhựa, vô khối!
Chợ Bưởi, theo tên gọi dân gian lâu đời vốn là chợ bán hoa quả, chủ yếu là hoa quả các làng trong vùng. Phương ngôn kẻ chợ có câu: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên / Riêng đến tháng tám lại thêm phiên rằm / Ai ơi nhớ lấy kẻo lầm / Đi mua hoa quả chơi rằm trung thu.
Nhưng mà chợ Bưởi bây giờ, không chỉ có hồng, na, bưởi, chuối, nhãn, mà còn có đủ thức hoa quả trăm miền trên đất nước và cả hoa quả từ nước ngoài đem về như táo Mỹ, xoài Thái, mận Úc... và cơ man nào là hàng hoa quả Trung Quốc, cứ vàng tím, đỏ xanh khắp các dãy hàng. Và rồi thì ngay cả đến tivi, cát sét, máy vi tính cũng đầy rẫy, sáng choang.
Ở chợ Bưởi, người ta có thể lựa mua được những thứ rau quả tươi ngon còn thấm đẫm sương đêm mới được cất về từ những làng rau chuyên canh ven sông Tô và sông Nhuệ, hay kể cả các loại rau quả đặc sản của các vùng trên đất nước. Và cũng ở chợ Bưởi, các loại cá tôm tươi rói như thể vừa được cất lưới từ mặt nước Hồ Tây hay đưa từ các lồng cá trên sông Nhuệ, các thuyền cá trên sông Hồng đem về.
Những mặt hàng tươi sống ở chợ Bưởi hình như có rẻ hơn ở các chợ trong trung tâm thành phố chừng vài ba giá. Có lẽ do bà con nông dân lên đây đỡ được một vài đoạn đường xa, và thuế má ở chợ nghe chừng cũng có nhẹ nhàng hơn.
Chợ Bưởi - Chợ cây giống
Một trong những mặt hàng đặc sắc ở chợ Bưởi là cây giống các loại từ các làng trồng hoa cây cảnh cổ truyền ven hồ Tây như Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân hoặc các xã vùng rau hoa như Tây Tựu, Phú Thượng đem về vào các buổi chợ phiên. Số lượng các mặt hàng cây hoa giống tăng lên gấp hàng chục lần so với ngày thường. Người dân nội thành bây giờ nhà cửa khang trang hơn nhiều. Họ thường tìm lên đây tầm mua vài khóm thiên lý, lan tiêu, bìm bìm, tầm xuân, ti gôn, đai vàng. Các loại cây trồng chậu như: địa lan, thiết mộc lan, ngũ gia bì, mai tứ quý, sen cạn, vàng anh, xoan táo, đinh lăng, đuôi lươn, mỏ vịt...
Các loại cây hoa đẹp như hồng, huệ, nhài, tường vi, dâm bụt, trinh nữ, cẩm tú cầu... trăm thức khác nhau, mỗi thứ một vẻ. Thậm chí, muốn tìm mấy giống cây ăn quả, hay những cây bóng mát loại lớn, người Hà Nội cũng chỉ tìm lên chợ Bưởi. Nào là ngọc lan, hoàng lan, bằng lăng, gạo gai, phượng vĩ. Rồi các giống cây ăn quả đặc sản như hồng Xiêm Xuân Đỉnh, cam Canh, bưởi Diễn... thứ gì cũng có, song cũng tuỳ theo mùa, theo tiết, hợp với việc bán giống, trồng cây. Duy chưa thấy bao giờ chợ Bưởi bán cây giống như đào Nhật Tân hay quất Quảng Bá, mà chỉ vào dịp giáp tết, bán cây và hoa đến lứa dùng chơi tết mà thôi.
Nhưng đi chợ Bưởi mua cây cũng phải có chút kinh nghiệm. Ví như chớ ham cây rẻ khi bầu đất nơi gốc cây hoàn toàn là đất mới. Như vậy, cây dễ bị đứt rễ, đem về trồng vài hôm là héo rũ. Người sành sỏi khi mua cây, ngoài việc chọn dáng vẻ cây gốc, còn chú ý đến bầu đất gốc cây phải được người làm vườn ra ngôi sẵn từ cách đó ít hôm, hoặc trồng vào giỏ tre hay chậu đất một thời gian.
Tuy nhiên, cây cảnh, cây hoa giống ở chợ Bưởi chỉ là những loại cây thông thường, chủ yếu phục vụ nhu cầu các gia đình thị dân dễ tính. Còn muốn mua các loại cây giống, cây thế, cây hoa, cây quả quý hiếm, nhất thiết phải tìm đến tận các nhà trồng vườn chuyên nghiệp mới được xứng ý.
Bà cụ già tên là bà cụ Gái, áo cánh phin nõn, tóc bạc như tơ, tươi cười trò chuyện:
- Nhà tôi ở Nghĩa Đô, có mảnh vườn rộng, tự tay tôi trồng cấy ngải cứu, lá lốt, tía tô, dấp cá, ớt. Tất cả những cây này đến phiên chợ Bưởi là tôi đem ra bán.
Chị phụ nữ tên là Lan người làng Đăm bộc tuệch:
- Nhà em chỉ có 2 sào rưỡi đất ruộng, cấy không đủ ăn, nên quanh năm mùa nào vụ ấy, em làm thêm các loại cây giống như rau ngót, xương sông, mùi tàu, dọc mùng. Ngoài ra còn làm thêm các loại cây cảnh như tố nữ, sen cạn, lan, nhài. Mà chỉ đem đi chợ Bưởi mới có khách, đem các chợ khác không có mấy người mua. Em bán cây giống ở chợ đã 20 năm rồi.
Chợ Bưởi - chợ con giống
Một chị hàng trùm khăn vải vẩy một nắm cơm nguội lên chiếc sọt nan thưa và rộng, bầy ngan con vàng ươm kíu kíu vươn cổ lên đớp đớp. Anh lái lợn túm đôi chân con lợn tháu kêu eng éc, miệng liến láu, tay vung vẩy chỉ trỏ phô nết hay ăn chóng lớn của chú ỉn cho bà khách vấn khăn nâu, túi áo cánh găm chiếc kim băng to tướng.
Cậu bé chừng năm, sáu tuổi níu quần bố mếu máo đòi mua cả lồng mấy chú chó con lông hung hung vàng. Được đi chợ Bưởi một hôm là nguồn vui tột bậc của lũ trẻ thành phố vốn quanh năm sống trong phố xá chật hẹp, tù túng, toàn người là người.
Bà hàng gà giống, khăn kẻ vuông buộc trùm trán, giọng người trên Phùng vóng vót:
- Tôi đi chợ quanh năm, cứ mồng 2, mồng 7 chợ Mơ, mồng 4 mồng 9 lên chợ Bưởi, mồng 5 mồng 10 thì vào chợ Hà Đông, ngày 3, ngày 6 sang chợ Sa. Gà Đông Tảo nuôi nhanh lớn nhất. Mấy năm nay có thêm gà Tam Hoàng, gà Long Phượng giống Tàu, nuôi cám cò lớn nhanh lắm, với mấy giống gà Tây nữa. Nhưng dân Hà Nội vẫn chuộng gà ri ta chân nhỏ mỏ vàng, nuôi lâu lớn nhưng thơm thịt.
Một ông đặc nông dân, áo đại cán sờn khuỷu tay, khăn len kẻ xanh đỏ vắt xộc xệch trên đầu đang vạch đuôi mấy con ngan giống săm soi:
- Phải chọn giống ngan đực, ngan trâu, nuôi nó mới mau lớn, chắc thịt, dôi cân, lắm lã i. Nuôi ngan cái chỉ tổ ỉa toèn toẹt suốt ngày, bẩn cả sân lẫn vườn. Ngan đực thế nào à, xem đây! của quý rõ ràng ràng ra nhé, nhưng không phải ai cũng biết đâu.
Một tràng cười rộ lên rầm rĩ át cả tiếng quàng quạc ran ran của hàng mấy chục lồng ngan ngỗng gà vịt.
Nghe nói ngày xưa, vào phiên chợ 19 tháng chạp âm lịch hàng năm, chợ Bưởi còn có bán cả các loại đại gia súc như trâu, bò, ngựa... bây giờ thì không thấy có.
Người ta thường nói: "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Nhưng mà, kỳ thực, chỉ cần đi chợ Bưởi một giờ thôi, thì có khi cũng đong đầy cả mấy túi khôn. Nào là cách chọn gà, chọn vịt, chọn chó, chọn mèo, chọn chim, chọn thỏ. Chỉ riêng có cách chọn chó thôi nhé, nghe một chốc cũng ù tai. Những là tam khoanh tứ đốm. Những là tứ túc mai hoa. Rồi lại còn tứ túc huyền đề gì gì nữa...
Ông đeo kính túm gáy con mèo tam thể nhấc bổng trước mặt thằng cu cháu. Con mèo thảng thốt kêu meo meo mấy tiếng, mình mẩy co dúm, chân sau chạm tai. Thằng cu bé hếch mắt nhìn theo không chớp. Ông nó gật gù:
- Hay chuột lắm đây, chứ chẳng đuỗn đuồn đuồn như con mướp lấm đằng kia.
Cô hàng mèo được lời như cởi tấm lòng, cười toe cười toét dang tay âu yếm đón lại chú mèo như không nỡ bán, trong lúc cu con cứ kéo áo ông mếu máo đòi mua bằng được.
Nhưng mê mấy cũng không tày phiên chợ Bưởi giáp tết. Ngồn ngộn những hoa thơm, quả lạ, chiu chít gà vịt ngỗng ngan, tươi rói lá dong, lạt màu, rộn ràng, lộng lẫy véo von hàng trăm lồng chim, chậu cá. Và đào Nhật Tân, quất Quảng Bá, hoa Tây Tựu ken thành một dòng suối hoa rực rỡ chảy tràn sang tận các ngả đường từ Lạc Long Quân đến Thuỵ Khuê, Hoàng Hoa Thám rồi xuôi về hàng trăm ngả phố Hà Nội.
Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Thưởng mai mùa xuân
“Thưởng mai mùa xuân” là nhan đề bài Podcast của Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quỳ vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Sự cuốn hút của hoa mai có lẽ đã bật lên từ sự tương phản, khác biệt lạ kỳ. Giữa thân hình mảnh mai, vóc dáng gầy guộc với sương gió lạnh lùng, giá băng khắc nghiệt. Giữa vẻ yếu đuối, mềm dịu bên ngoài và sự mạnh mẽ, quyết liệt bên trong. Giữa sức chịu đựng cùng cực với thế vươn lên hết mình. Hoa mai có lẽ là biểu trưng cao nhất cho sự đối chọi, mà cũng chính là sự hòà hợp tuyệt vời giữa chữ nhẫn và chữ dũng của cốt cách, tinh thần con người, trước cuộc đời bao bất trắc, gian nan mà cũng chứa chan hy vọng và niềm vui: Chúng phương dao lạc độc huyên nghiên / Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên.
![]() |
Hoa mai loài hoa mang niềm vui xuân sang, tết đến - Loài hoa mang màu nắng của đất trời phương Nam |
Trăm hoa đều tàn tạ, duy chỉ có (hoa mai) hé nở, chiếm hết cảnh đẹp nơi vườn nhỏ. Đó chính là hai câu mở đầu của bài thơ thất ngôn bát cú mang tựa đề "Mai Hoa" của một nhà thơ nổi tiếng đời Tống. Nhà thơ Lâm Bô. Ông vốn là người tài trí hơn đời, nhưng ghét mùi tục luy, ghét cảnh bon chen chốn quan trường nên suốt đời chỉ ở ẩn trên núi Cô Sơn, coi mai là vợ, hạc là con. Nghệ thuật thưởng mai, không còn nghi ngờ gì, có xuất xứ chính là từ Trung Quốc. Khoảng 3000 năm trước, người ta đã nhắc tới mai, thoạt đầu như một thứ cây ăn quả trong dân gian. Sử sách Trung Quốc có ghi, vào thời Xuân Thu, ở đất Tây Chu, người dân đã biết trồng mai.
Ngôi nhà cũ kỹ của nghệ nhân Lê Quyết Bội nằm lọt trong làng hoa cổ Nghi Tàm bên sóng nước Hồ Tây. Góc hiên nhà có một cửa sổ nhỏ hình mặt trăng. Vào cứ xuân, ông thường đặt ở dưới chân tường bốn chậu cảnh quý. Đó là tùng, trúc, cúc, mai. Người xưa truyền rằng, đó là bộ cây Tứ Hữu, bốn người bạn thiết. Bởi chúng đều có sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, như tình bạn bất chấp sự đổi thay của thế cuộc. Nhất là tùng, trúc, mai, còn được liệt vào bộ Tam Dũng, ba thứ cây có khả năng xanh tốt vượt qua sự khắc nghiệt của mùa đông giá lạnh. Mà đầu bảng vẫn là cây mai. "Tiên hưởng bách hoa đầu thượng khai" - Mai nở trước muôn hoa, đứng đầu bảng xuân. Mai được coi là biểu tượng của sự thanh cao, lòng cương trực và khí phách ngang tàng, bất khuất của các bậc chính nhân, quân tử, anh hùng, trượng phu. Nghệ thuật thưởng mai, theo thời gian, đã lan dần sang các nước phương đông, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa.
Từ thời nhà Lý, nhà thơ Mãn Giác Thiền sư đã có một bài thơ nổi tiếng nhắc tới hoa mai. Nguyễn Trãi vị anh hùng dân tộc, đệ nhất công thần triều nhà Lê từng ca tụng: Càng thuở già, càng cốt cách. / Một phen giá, một tinh thần.
Người đời yêu kính hoa mai bởi sự kiêu dũng, hiên ngang trước mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt, bởi hoa mai đem lại hương thơm thanh tao và sắc đẹp tuyệt mỹ. Và hơn tất cả, hoa mang lại cho thế gian linh hồn của mùa xuân.
Mai có rất nhiều chủng loại, ở Trung Quốc, có tới 230 loại mai. Riêng về màu sắc, được chia làm ba loại chính là hồng mai, hoàng mai và bạch mai. Ở Hà Nội, chi mai là giống mai trắng điểm hồng đã được lưu truyền qua nhiều đời. Bên hồ Tây, những làng hoa cổ truyền như Nghi Tàm, Nhật Tần vốn là xứ sở của chi mai.
Chi mai hay còn được gọi là Nhị độ mai, vì mỗi năm hoa thường nở hai lần. Cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần mỗi ngày trên đất Hà Nội càng thêm tươi mới, phong phú và đa dạng. Bởi vậy, ở làng đào Nhật Tân mấy năm gần đây, bên cạnh những luống đào rực rỡ, là vẻ đẹp trắng trong, dịu dàng của những vườn mai đang kỳ trổ bông.
Khác với giống đào ưa đất mới phù sa màu mỡ, giống mai không kén đất, không cần chăm bón kỹ càng. Duy nhất, mai chỉ cần được giữ ẩm vừa độ. Mai không chịu được úng ngập, úng ngập sẽ gây thối rễ mai. Mà bộ rễ là một phần vẻ đẹp chính yếu của cây mai. Công phu nhất của người trồng mai chính là tạo nên được những bộ rễ có hình dáng xù xì, gân guốc, cổ quái, ấy là cách để nhấn mạnh độ già cỗi của gốc mai. Người trồng hoa thoạt đầu trồng cả gốc mai xuống đất như các thứ cây thông thường. Chờ cho cây phát triển đến độ thích hợp theo ý nhà vườn, họ sẽ nhấc cây khỏi mặt đất và trồng lại ở độ sâu nhỏ hơn trước. Hoặc tìm cách bới đất cho rễ cây lộ thiên, rồi uốn tỉa cho thành các hình thế khác nhau. Nào Cửu long tranh châu, nào Bát tiên quá hải, nào Ngũ phúc lâm môn...
Sở dĩ người ta kỳ cầu tạo nên vẻ già cỗi cho mai, chính là vì chiều theo thị hiếu dường như là bất biến của người chơi mai tự cổ chí kim. Kỳ lạ thế, tiêu chuẩn của một cây mai đẹp thật khác xa so với muôn hoa. Có bốn tiêu chí để định giá vẻ đẹp của cây mai. Đó là người ta quý già chứ không chuộng non, quý mảnh chứ không ưa mập, quý thưa chứ không thích dày, và cuối cùng là quý nụ chứ không mong nở. Chính bởi vậy, người mê đào thì dù sớm thế nào cũng phải đợi tới qua rằm tháng chạp, mới có thể lên dinh chọn đặt cây cho tết âm lịch. Chính lúc ấy, người ta mới có thể xem nụ mà đoán hoa. Còn người yêu mai có thể lên vườn chọn mai từ dịp nhà vườn đang mùa tuốt lá, tức là từ tiết đông chí, giữa tháng mười một âm lịch. Khi ấy, cây mai đã chớm lộ vẻ đẹp của vóc dáng, hình thế. Mà vóc dáng, hình thế, đó mới chính là tinh thần, cốt cách của hoa mai.
Chốn nhân gian ngàn đời luôn vui ít buồn nhiều. Trong thập đại danh khúc cổ nhạc của Trung Hoa có tới bẩy bài mang âm hưởng buồn man mác hoặc buồn tới mức bi thiết, não nùng. Chỉ có 3 bài là có những đoạn mang âm hưởng vui vẻ, lạc quan, phấn khích. Trong đó có khúc "Mai hoa tam lộng". Có một giai thoại về
"Mai hoa tam lộng". Đó là câu chuyện về Nhân Hồng Hạo vào thời Nam Tống. Ông vốn là một người được sai đi sứ nước Kim nhưng rốt cuộc bị bắt lại mất hơn mười năm. Mười năm dài chờ đợi đằng đăng được hồi hương, mười năm sống trong sự uy hiếp rồi dụ dỗ của kẻ địch, tâm ông chẳng sợ, lòng dạ chẳng sờn, vẫn hiên ngang từ chối mọi ưu sách, ông một mực bảo trì phong thái cao thượng, coi nhẹ hư vô ở đời. Danh sĩ Cao Bá Quát, một bậc kỳ nhân quê ở làng Sủi (nay thuộc xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm) là người tài ba, cao ngạo.
Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do ông lãnh đạo dù thất bại song vẫn để lại cho người đời tiếng thơm khí phách của một bậc chính nhân quân tử không chịu khuất phục trước cường quyền triều Nguyễn.
Tương truyền Cao Bá Quát đã để lại đôi câu thơ nổi tiếng: Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. (Mười năm vất vả gian truân tìm kiếm cổ. Một đời chỉ cúi đầu bái lạy hoa mai).
Sở dĩ tôi chỉ dám viết hai chữ "tương truyền", bởi cũng có một thuyết khác cho rằng đôi câu thơ trên không phải do danh sĩ họ Cao sáng tác mà là của một nhà nho khác sống cùng thời. Nhưng dẫu sao đó vẫn là đôi câu thơ tuyệt hay về phẩm chất của người quân tử ngày xưa.
Ngẫm ngợi sâu xa thì sự cuốn hút của hoa mai có lẽ đã bật lên từ sự tương phản, khác biệt lạ kỳ. Giữa thân hình mảnh mai, vóc dáng gầy guộc với sương gió lạnh lùng, giá băng khắc nghiệt. Giữa vẻ yếu đuối, mềm dịu bên ngoài và sự mạnh mẽ, quyết liệt bên trong. Giữa sức chịu đựng cùng cực với thế vươn lên hết mình.
Hoa mai có lẽ là biểu trưng cao nhất cho sự đổi chọi, mà cũng chính là sự hòà hợp tuyệt vời giữa chữ nhẫn và chữ dũng của cốt cách, tinh thần con người, trước cuộc đời bao bất trắc, gian nan mà cũng chứa chan hy vọng và niềm vui: Cử đầu hồng nhật cận - Đối ngạn nhất chi mai. / Ngửng đầu mặt trời mọc - Bên suối một nhành mai.
Bài thơ "Thướng sơn" của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đời vào thời khắc cách mạng Việt Nam đang đứng trước một bước chuyển lớn lao có lẽ đã không chỉ dừng ở tầng ý nghĩa văn chương, nghệ thuật, mà hơn thế, còn mang ý nghĩa tư tưởng, nhân sinh quan cách mạng sáng đẹp tuyệt vời.
Trong dân gian, nếu như giới thương nhân và người lao động bình dân tết đến thường thích chơi đào bích với sắc hoa đỏ tươi, nụ hoa đông đúc, cánh hoa dày dặn, ý cầu mong cuộc sống sung túc, đủ đầy, rực rỡ, ấm áp, thì giới trí thức, văn nghệ sĩ thường thích đào hồng phai và hoa mai trắng muốt, hầu gửi gắm tâm hồn phong nhã, hào hoa, coi thường những ước muốn trần tục đời thường. Hoa mai vì thế, như thể để dành riêng cho giới sĩ phu, trí giả, văn nghệ sĩ nghênh đón xuân sang.
Đôi vợ chồng nghệ sĩ sân khấu Hà Nội Kim Thanh - Vinh Mậu ngay từ thời trẻ đã cùng nặng lòng yêu hoa mai. Đối với họ, hoa mai là biểu trưng cho tình yêu thanh cao và bền chặt. Đứa con gái út của đôi vợ chồng nghệ sĩ được sinh ra với cái tên chọn sẵn: Mai Chi. Sau này, anh trở thành một tác gia sân khấu chèo, khán giả Hà Nội còn nhớ tới anh với vở chèo Vòng phấn Cap - ca - dơ, còn chị trở thành một nhà giáo ở khoa kịch nói trường nghệ thuật Hà Nội. Bao gian khó và bao thăng trầm trong cuộc đời, rồi cũng đã lùi lại phía sau. Giờ đây, cả hai vợ chồng đều đã ở cái tuổi đã rời xa ánh đèn sân khấu, lặng lẽ trở lại với đời thường. Thế sự xoay vần, nghề chơi lại có lúc trở thành nghiệp sống. Một cửa hiệu hoa cảnh ra đời trên phố Hoàng Hoa Thám, đã trở thành nơi tụ hội của giới tao nhân, mặc khách Hà Thành. Anh và chị lấy tên loài hoa mà họ yêu quý nhất mà đặt tên cho cửa hiệu của nhà, hiệu hoa cảnh Nhất Chi Mai.
Bận rộn quanh năm, tuy vậy, anh và chị vẫn giữ một phong thái sinh sống và ứng xử bình hòà, giản dị và cao nhã, như chẳng hề nhuốm mùi tục luy chốn thương trường. Mỗi thời khắc xuân vê, anh chị lại cùng chăm chút cho những chậu mai, chờ người đồng điệu. Cái nghiệp chèo anh dày công đeo đuổi, trải qua mấy khúc thăng trầm, giờ đang gặp vận hội hồi sinh, dù còn là mong manh, thắc thỏm, song cũng phần nào giúp cho anh vơi nhẹ nỗi trở trăn nghề nghiệp.
Ông xã tôi vốn là dân kinh doanh và công cuộc làm ăn cũng đã trải qua lắm khúc thăng trầm, có lúc rầm rộ nổi tiếng trên thương trường, rồi có khi đã hầu như mất hết cả sản nghiệp, để lại hệ lụy vô cùng nặng nề cho gia đình, vợ con, bầu bạn. Nhưng khi thoát vòng lao lý ở tuổi ngoại ngũ tuần, anh vẫn gắng gỏi đứng dậy bắt đầu một công việc làm ăn dù nhỏ lẻ chỉ bằng một phần trăm, một phần nghìn thời trai trẻ. Cốt là để khắc phục dần những hậu quả thất bại trong những năm tháng trước đó. Ông xã tôi cũng rất thích hoa mai trắng, có lẽ bởi đã một thời vốn từng theo học hàm thụ đại học tổng hợp văn trong thời gian anh là hạ sĩ quan biên phòng đóng quân tại Hà Nội. Tôi thì rất thích tích truyện dân gian Nhị độ mai. Cô con gái út của vợ chồng tôi cũng được đặt tên Hạnh Nguyên là đặt theo tên nàng công chúa trong tích truyện ấy. Ý là mong cho con vượt qua khổ nạn gia đình đến được cuộc sống hạnh phúc tươi đẹp.
Năm nào bên cạnh quất đào vàng thắm, hồng rực trong phòng khách, vẫn là một gốc mai trắng thanh mảnh, dịu dàng. Cuối năm trước, ông xã tôi đã thanh thản về với cõi người hiền sau mấy năm trời kiên trì chống chọi với những căn bệnh hiểm nghèo. Tết đến, theo lệ cũ, tôi vẫn rước một gốc mai trắng về phòng khách và tạm bỏ thú chơi đào quất hằng niên. Gốc mai trắng năm ấy tự nhiên lại trổ hoa rạng rỡ khác thường. Một mình bên song cửa rộng mở chào đón nắng xuân, những cánh lá xanh non rung rinh bên những đóa hoa trắng tinh khôi. Thấp thoáng đan xen là những đốm nụ điểm màu hồng tươi rói.
Chợt nhớ câu thơ xưa của Mãn Giác thiền sư cách đây gần mười thế kỷ: Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận / Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. (Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một nhành mai)
Kính thưa quý vị, bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh
“Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh” là nhan đề bài Podcast ngày hôm nay của tác giả - nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hoá - Xã hội, Đài PT-TH Hà Nội. Bài viết được in trong cuốn sách “Hà Nội mến thương” của tác giả. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Màn bái Thánh của hội vật cầu Thúy Lĩnh do lớp cầu thủ thiếu niên thi đấu tranh tài cướp trái bòng vô cùng hào hứng, sôi động và mang khí thế tranh đua quyết liệt ngay từ phút ban đầu. Những hồi trống cầm nhịp rầm rộ khiến cả một không gian rộng lớn bên bên sân đình tràn ngập niềm hứng khởi mở màn ngày hội tươi vui. Trái bòng vàng rực rỡ bay lượn trên bầu trời ban mai lấp lánh ánh bình minh tạo một hình ảnh thật thơ mộng, bay bổng và quyến rũ lòng người.
Sớm đầu xuân trong sáng, cảnh vật thơ thới, tiếng trống hội rộn rã thôi thúc bước chân người. Lá cờ đại ngũ sắc trước khuôn viên đình làng bay cao trong gió như vượt lên triền đê con sông Hồng, in bóng trên những cánh bãi dâu ngô xanh biếc sắc xuân. Nhóm phóng viên lần đầu tiên đến tham dự hội làng Thúy Ái trong năm đầu tiên làng phục dựng hội làng sau nhiều năm đứt quãng vì chiến tranh và đói nghèo nên thật dễ hòa chung vào niềm vui nao nức của bà con dân làng cũng như con dân Thúy Lĩnh khắp từ trong ngoài nước đổ về.
Thuý Ái là một thôn làng thuộc địa phận xã Lĩnh Nam,huyện Thanh Trì sau đổi là làng Thuý Lĩnh phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai. Nằm bên ngoài con đê sông Hồng, tự xa xưa, người dân Thúy Lĩnh sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt vải lụa. Tên gọi Thúy Lĩnh có nghĩa là một tấm lụa biếc nói lên niềm tự hào về nghề truyền thống lâu đời của miền quê bên sông Hồng.
![]() |
Hội vật cầu xuân Thuý Lĩnh |
Thời kỳ sau ngày tiếp quản Thủ đô 1954, Thuý Lĩnh đã trở thành một vùng trồng rau chuyên canh của Hà Nội cho đến tận giờ đây.
Những năm cuối thế k XX đầu thế kỷ XXl, từ một một làng quê nghèo nàn, Thuý Lĩnh đã và đang trên đà đô thị hóa nhanh chóng. Nhà cửa mọc lên san sát, đường xá mở mang rộng rãi, khang trang.
Tuy nhiên, cho đến tận giờ đây, Thuý Lĩnh vẫn giữ riêng cho thôn làng một cụm di tích văn hóa lịch sử cổ kính mang dấu ấn của những thời kỳ hình thành và phát triển làng xã dưới chế độ phong kiến. Đó là ngôi chùa Thuý Lĩnh mang tên chữ là chùa Diên Khánh. Chùa có lịch sử tạo dựng từ những năm cuối triều nhà Lê đầu triều nhà Nguyễn. Những khóm hoa và cây cảnh cổ thụ trong sân chùa đã in dấu thời gian trải hàng trăm năm có lẻ tỏa bóng trên mái đình cổ kính.
Đình làng Thuý Lĩnh có lịch sử lâu đời hơn, tương truyền là từ thời Lý. Hoặc là đình được xây dựng bởi những người dân đầu tiên ra khai hoang lập làng đã đem theo tập tục phụng thờ đức thánh Linh Lang Đại vương, tức hoàng tử Lý Hoằng Chân đời nhà Lý, là vị thần trấn Tây thành Thăng Long. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng, khi Linh Lang đại vương thắng trận, dẹp yên giặc Tống phương Bắc, đã tung lá cờ chiến thắng lên trời cao. Ở vùng đồng bằng Bắc bộ, có tới 269 nơi trông thấy bóng cờ bay ngang qua và đều lập đình đền thờ Đức Ngài làm thành hoàng làng, người bảo trợ cho sự thịnh vượng bình yên cho dân thôn. Thuý Lĩnh chính là một trong 269 làng quê đó.
Hàng năm, làng Thuý Lĩnh mở hội xuân tại đình làng vào các ngày mùng 4 mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng âm lịch, trùng với kỳ hội làng Mai Động thờ đức thánh Nguyễn Tam Trinh thời Hai Bà Trưng.
Theo các cụ lão niên trong làng kể lại, thì tục vật cầu ngày xuân của làng Thuý Lĩnh là một trong những nghi lễ phụng thờ đức Linh Lang Đại Vương thành hoàng làng, thể hiện tinh thần thượng võ của quân tướng Đức Linh Lang và cũng là truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta trong lịch sử. Tục vật cầu ngày xuân của làng Thuý Lĩnh đầu năm mới cũng là để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình hòa hiếu, xóm làng an vui.
Sới vật cầu mùa xuân của làng Thuý Lĩnh tự xa xưa được mở ngay trước sân đình. Sau này, do quy hoạch đường xá mới, sới vật chuyển sang mé bên phải sân đình. Lễ vật cầu Thuý Lĩnh quy định rất rõ về kích thước quy mô sới vật, về cách thức chuẩn bị sới vật trước khi vào trận đấu. Đời sau cứ chiếu lệ cũ mà theo, dù đứt nối bao nhiêu năm cũng vẫn vậy.
Mở đầu tất cả các cuộc thi đấu vật cầu Thuý Lĩnh bao giờ cũng là trò cướp trái bòng xuất phát từ trò chơi bóng bưởi của của trẻ em các vùng nông thôn Bắc bộ xa xưa. Trò cướp bòng này cũng được coi là nghi thức thờ Thánh nhất thiết của hội xuân làng Thuý Lĩnh. Màn bái Thánh được tiến hành tại trước ban thờ vọng lập ngay trên sới vật. Tuy nhiên màn bái Thánh của Hội vật cầu Thúy Lĩnh có khác với màn bái Thánh của hội vật truyền thống Mai Động. Nếu như màn bái Thánh của hội vật Mai Động chủ yếu là do một lão đô vật biểu diễn các động tác xe đài uyển chuyển, mạnh mẽ thì màn bái Thánh của hội vật cầu Thúy Lĩnh do lớp cầu thủ thiếu niên thi đấu tranh tài cướp trái bòng vô cùng hào hứng, sôi động và mang khí thế tranh đua quyết liệt ngay từ phút ban đầu. Những hồi trống cầm nhịp rầm rộ khiến cả một không gian rộng lớn bên sân đình tràn ngập niềm hứng khởi mở màn ngày hội tươi vui. Trái bòng vàng rực rỡ bay lượn trên bầu trời ban mai lấp lánh ánh bình minh tạo một hình ảnh thật thơ mộng, bay bổng và quyến rũ lòng người.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hình tượng trái bòng vàng hay là trái cầu đỏ chính là biểu trưng cho hình ảnh của mặt trời, nguồn gốc của năng lượng sự sống của vũ trụ và loài người, nhất là đối với người dân sinh sống tại những đất nước thuộc nền văn minh lúa nước. Đó còn là hình ảnh biểu trưng cho hạnh phúc và sự phồn thịnh, sự sinh sôi nảy nở của muôn loài trên trái đất.
Tuy nhiên, khi vào thi đấu chính thức, sẽ có một quả cầu bằng gỗ sơn đỏ có kích thước to lớn gấp ba gấp tư trái bóng đá như mọi người thường quen thuộc. Đó là trái cầu hằng ngày được bày trang trọng trước ban thờ Thánh trong đại đình mang ra sau màn tế Thánh khai hội vừa được các bô lão trong làng hoàn thành cùng những giai điệu nhạc lễ dân tộc truyền thống.
Tục vật cầu Thuý Lĩnh chia các đội thi đấu theo các lứa tuổi khác nhau: Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên. Mỗi đợt thi đấu gồm 8 cầu thủ, chia làm bốn đội. Mỗi đội gồm hai người, mang đai lưng cùng màu nhau và cùng màu với lá cờ chuẩn cắm ở hố xuất phát của đội đó. Bốn màu là: xanh - đỏ - tím - vàng. Các tuyển thủ cởi trần, mặc quần trắng thắt lưng màu theo màu cờ của đội thi. Ai nấy trông đều vạm vỡ, sức vóc và bừng bừng khí thế.
Mỗi đợt vật cầu được gọi là một phiên. Một phiên thi đấu kéo dài khoảng 1/4 khắc, tức là 30 phút. Nhiều nhất là đến 45 phút. Tiếng trống thúc từng hồi liên tục, giục giã.
Kíp làm phim chia làm hai nhóm với hai quay phim, hai kỹ thuật và hai biên tập viên và một đạo diễn chạy quanh liên tục không có một phút nào được nghỉ ngơi mà có những khoảnh khắc như vẫn trượt khỏi ống kính máy quay.
Nếu như hội vật Mai Động mỗi keo vật vẫn có hai đô vật cùng nhau thi đấu tay không thì hội vật cầu Thúy Lĩnh, mỗi phiên vật bao gồm 8 cầu thủ cùng thi nhau chạy đua, luồn lách, vờn vỡ, tranh cướp trái cầu gỗ đỏ rực thì không khí thêm bội phần rộn rã, quyết liệt. Chưa cần đến cuối phiên đấu, các cầu thủ đều đã lấm lem màu bùn đất suốt từ đầu đến chân. Thật là một cảnh tượng đầy phấn khích.
Lễ vật cầu ở Thúy Lĩnh có hai ngôi trọng tài. Trọng tài là những người có kinh nghiệm thi đấu vật cầu lâu năm và có uy tín trong dân làng bởi sự công minh, trung thực, không thiên vị. Trọng tài cũng rất cần có sức khỏe tốt, có sự dẻo dai và phải hết sức nhanh châ, tinh ý để có thể phát hiện các lỗi sót của cầu thủ và phân định thắng thua rạch rồi, minh bạch, được ban giám khảo và người xem tán đồng nhiệt liệt.
Hội vật cầu Thuý Lĩnh diễn ra mỗi năm chỉ có một kỳ ba ngày. Thế nhưng muốn chiến thắng ở cuộc thi không phải là điều dễ dàng. Ngoài sức khỏe trời phú, mỗi tuyển thủ đều phải có sự rèn luyện thường xuyên hàng ngày cộng thêm những tố chất khác nữa.
Như là sự nhanh nhẹn, mưu mẹo, khéo léo, dẻo dai và biết chớp thời cơ đúng lúc, bất ngờ.
Bên cạnh ban thờ là chỗ ngồi của ban giám khảo cuộc thi gồm các cụ lão niên có uy tín trong làng và thông hiểu lệ tục trò chơi vật cầu cổ truyền. Các thành viên trong ban giám khảo sẽ thay thế nhau đổi phiên đánh trống cầm chịch theo từng phiên thi đấu.
Tiếng trống lúc nào cũng vang vang, mạnh mẽ, thôi thúc. Mỗi khi có một đội tuyển thủ nào đưa được trái cầu về đúng hố cắm cờ của đội mình theo đúng thể thức, không phạm luật câu giờ hay ngoại biên, thì được coi là đạt một giải con. Đại diện của đội đoạt giải sẽ ra trước ban thờ bái Thánh và nhận thẻ điểm màu xanh có ghi trị giá số tiền thưởng ngay trong thẻ.
Nếu đội nào liên tục đạt ba giải con liên tiếp, không đứt quãng, sẽ được nhận một giải cái, thể hiện bằng một thẻ đỏ, có ghi số tiền thưởng ngay trên thẻ. Nếu đoạt nhiều giải con nhưng không liên tục, cũng không thể được nhận giải cái. Điều đó khiến cho các đội thi đấu phải dốc sức với quyết tâm rất lớn. Và đó cũng trở thành yếu tố kích thích sự hứng thú thi đấu cho các tuyển thủ và sự hấp dẫn cao độ với khán giả tham dự. Nếu sau 30 phút thi đấu mà không đội tuyển nào đoạt được giải cái thì trận đấu buộc phải kết thúc để nhường sân bãi cho lớp tuyển thủ mới.
Ngắm những đội cầu thủ phải ra sân khi chưa nhận được giải cái với những gương mặt đỏ bừng tức bực, hối tiếc lại càng thấy không khí cuộc đấu hấp dẫn biết chừng nào.
Người xem hội vật cầu Thúy Lĩnh xúm quanh vòng trong vòng ngoài, tha hồ hò hét vỗ tay cổ vũ đội nhà. Trời tháng Giêng còn giá rét mà họ cởi phăng áo ngoài quàng vai quàng cổ, mặt đỏ bừng, cơ khản đặc. Lắm lúc họ như muốn lao mình vào trận đấu như thể mình cũng là một thành viên đội vật cầu. Nhất là khi có cầu thủ nào trượt chân ngã hay về đúng trái cầu thì khí thế các cổ động viên càng như nổ bùng. Câu tục ngữ "Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tới xem hội" ứng vào cảnh tượng này thật không sai chút nào.
Tám đội trong vòng bán kết được chia làm 2 bảng, mỗi bảng 4 đội, mỗi đội có 2 người chơi chính để thi đấu. Mỗi trận đấu kéo dài 40 phút. Sau khi 2 bảng thi đấu sẽ chọn ra 2 đội có điểm cao nhất ở mỗi bảng để vào thi đấu trận chung kết.
Trận chung kết bao giờ cũng thu hút đông đảo người xem nhất. Tiếng hò hét cổ vũ ầm ầm như muốn át cả những hồi trống cầm nhịp dồn dập vang lừng.
Đội thắng cuộc bất chấp mình mẩy lấm bê bết bùn đất, họ cùng nhau tâng cao trái cầu gỗ đỏ rực trên bầu trời rực rỡ ánh nắng xuân in hình trên những rặng cây xanh tươi. Đó là một khuôn hình đại toàn cảnh thật tráng lệ trong cuốn phim phóng sự của chuyên mục Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Tiền thưởng của hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh chủ yếu do bà con dân làng và các nhà hảo tâm đóng góp tài trợ. Tiền thưởng tuy không cao song có giá trị động viên tinh thần rất lớn. Đó là vinh dự rất lớn cho đội tuyển đó trong hội thi. Đội tuyển của hai chàng trai này vừa đoạt được một giải cái sau ba phiên thi đấu khá cam go.
Chiều ngày mồng sáu tháng Giêng là ngày kết hội của hội vật truyền thống Mai Động, Hoàng Mai và cũng là ngày kết hội của hội vật cầu Thúy Lĩnh, Lĩnh Nam. Và bà con dân làng hai vùng quê lại hẹn cùng nhau chờ đến dịp hội làng tháng Giêng năm tới trong những trận đấu sôi động và đầy bất ngờ cùng những gương mặt các đội tuyển thủ trẻ trung mới mẻ lớn lên từ chính mảnh đất của làng quê thân thương.
Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Đôi ván cờ ngày xuân
“Đôi ván cờ ngày xuân" là nhan đề bài Podcast của tác giả: Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung - Nguyên trưởng ban Văn hoá - Xã hội; Đài PT-TH Hà Nội, bài viết trong cuốn sách “Hà Nội mến thương” của chính tác giả với nhiều bài viết ý nghĩa về những nét văn hoá độc đáo về mảnh đất và con người đất Kinh Kỳ. Xin mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Tự ngàn năm xưa, cầm kỳ thi hoạ, vốn là bốn thú chơi tao nhã của người Á Đông. Có nhiều người ngờ rằng, câu chuyện cuộc cờ tiên vỗn là không có thực. Mà cái có thực, hình như là sự thoát tục, cao siêu của một thú chơi đẹp đẽ và tao nhã trong chốn nhân gian. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, thì cờ tướng du nhập vào nước ta muộn nhất là vào thời Bắc thuộc, cách đây trên ngàn năm. Đó là một thú chơi văn hóa, hay là một môn thể thao trí tuệ, hay là tổng hòa cả hai, người ta thường không mấy phân tách rạch ròi.
![]() |
Cuốn sách "Hà Nội mến thương". |
Thoạt nhìn, khó ai đã đoán đúng tuổi của cụ ông Nguyễn Đắc Dần nhà ở phố Hoàng Hoa Thám, đoạn gần chợ Bưởi. Râu tóc bạc như tơ, nhưng dáng người quắc thước, nước da đỏ au đi đứng nhanh nhẹn, đường hoàng, vững chãi, nói năng vui vẻ, hài hước, cụ vốn chỉ là một viên chức bình thường của ngành đường sắt về nghỉ hưu từ mấy chục năm nay. Con cái đã phương trưởng, đàng hoàng, mỗi người mỗi cơ, mỗi ngũ, hàng ngày cụ thong dong tận hưởng những thú vui tuổi già mà cụ hằng ưa thích. Nhất là thể dục dưỡng sinh và võ dân tộc. Nhì là chơi hoa cây cảnh và ba là thú đánh cờ. Chiều cụ, anh con trai út tuổi Đinh Dậu những lúc rảnh việc thường hầu cờ cùng cha vài ba ván. Khi cao hứng, cụ thường kể cho con những giai thoại xung quanh thú chơi cờ. Ai được nhìn thấy cụ ngồi đánh cờ bên chiếc bàn gỗ lên nước sẵm bóng, cạnh chậu lan mặc biên thơm một làn hương dịu ngọt, sẽ có thể ngỡ mình đang được xem một cuộc cờ tiên. Cụ Nguyễn Đắc Dân luôn lưu giữ bên mình một cuốn sổ tay cũ kỹ, nhiều trang đã ở vàng, không biết đã có từ bao năm rồi. Trong đó cụ ghi chép những thế cờ độc đáo. Đặc biệt, có một thế cờ mà cụ tâm đắc mãi, không chỉ vì cái hay thông thường của một nước cờ cao mà còn hơn thế. Đó chính là nước cờ do cụ chủ tịch nước Hồ Chí Minh sáng tác và đựợc in trên báo Lao Động năm 1966. Cụ Dẫn đã từng lấy nước cờ này đem đố rất nhiều bậc đại cao thủ làng cờ Hà Nội, mà chưa ai giải nỗi. Ngay như cụ Dần, cũng chỉ giải nồi theo bài dẫn đăng kèm trên số báo sau.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ.
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên
Tự ngàn năm xưa, cầm kỳ thi hoạ, vốn là bốn thú chơi tao nhã của người Á Đông. Có nhiều người ngờ rằng, câu chuyện cuộc cờ tiên vốn là không có thực. Mà cái có thực, hình như là sự thoát tục, cao siêu của một thú chơi đẹp đẽ và tao nhã trong chốn nhân gian.
Theo các nhà nghiên cứu văn hoa, thì cờ tướng du nhập vào nước ta muộn nhất là vào thời Bắc thuộc, cách đây trên ngàn năm. Đó là một thú chơi văn hoá, hay là một môn thể thao trí tuệ, hay là tổng hòà cả hai, người ta thường không mấy phân tách rạch ròi. Nhất là khi đã vào cuộc cờ, lại trong một khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp, hữu tình cùng những người bạn thân thiết. Khi hương xuân, vị tết tràn ngập không gian, người ta có thể dành thời gian tận hưởng đôi ba niềm vui vì thành quả của một năm trời vất vả trong cuộc mưu sinh vốn không ít những lo lắng, ưu phiền khó tránh. Niềm vui ấy sẽ càng được nhân lên trong những cuộc cờ người ở hội làng.
Cách đây gần sáu mươi năm, có một chàng trai Hà thành say mê cờ tướng vào hạng nhất. Chàng trai Nguyễn Tấn Thọ từng ba năm liền đoạt giải cờ chùa Vua, một giải cờ dân gian danh tiếng nhất xứ Bắc và được khắc tên trên tấm bia đá của chùa. Hội cờ chùa Vua mở vào ngày mồng 6 tháng Giêng năm mới. Tương truyền, vào thời Lê cách đây trên năm trăm năm, có một vị hoàng tử con vua nổi tiếng mê cờ. Ngài đã cho dựng một ngôi chùa trên đất làng Thịnh Yên phía nam kinh thành Thăng Long để thờ vị vua cờ huyền thoại Đế Thích và lập sân đấu cờ trước sân chùa cho dân chúng vui xuân. Cho tới bây giờ, vua cờ Nguyễn Tấn Thọ vẫn được giới danh thủ đất Hà Nội tôn vinh là bậc cao cờ hạng nhất. Đã từ nhiều năm nay, vào ba tháng mùa xuân, hiếm ai có thể tìm thấy ông tại nhà. Ông thường được hàng trăm làng xã ở khắp vùng đồng bằng, trung du Bắc bộ mời gọi làm cố vấn cho các hội cờ xuân thôn quê. Hào hưng với việc khôi phục lại một nét đẹp của mùa xuân xứ Bắc, vua cờ Nguyễn Tấn Thọ hầu như không nghĩ mình đã ở tuổi ngót bát tuần. Nhưng cái tinh thần của cờ tướng trong thời kỳ mới, ông hầu như thấu hiểu tới tận cùng.
Hà Nội còn có một bậc kỳ thủ cao niên rất nồi danh là vua cờ Lê Uy Vệ, cụ từng là phó chủ tịch Liên đoàn cờ Việt Nam. Dù nghỉ hưu đã mấy chục năm song giới kỳ thủ đất Bắc vẫn tôn vinh cụ là người có chuyên môn xuất sắc và có những nước cờ rất hào hoa, thoáng đạt. Ngắm lão vương Lê Uy Vệ diện áo gấm đỏ, đội khăn xếp đỏ, gương mặt hồng hào, đôi mắt tinh anh, ai đó đều mong ước cụ sống sống lâu trăm tuổi và mỗi dịp hội cờ chùa Vua mùa xuân, cụ lại hiện diện như một biểu tượng tuyệt đẹp của thú chơi cao nhã cổ truyền dân tộc.
Mùa xuân năm ấy, ở độ tuổi ngót tám mươi, nhà nghiên cứu văn hóa phương đông Ngô Linh Ngọc vẫn được người Hà Nội tôn vinh là người toàn tài cầm kỳ thi họa trong giới trí giả ở Việt Nam. Riêng đối với cờ, ông từng là người sáng lập ra hội cờ Thuyền Quang vào năm 1936, năm mở đầu phong trào mặt trận dân chủ Đông Dương ở Việt Nam, với rất nhiều hoạt động nhằm tôn vinh và phục hồi những nét đẹp trong nền văn hóa dân tộc. Trong tủ sách gia đình, có hai cuốn sách mà ông yêu quý nhất. Đó là cuốn
Trung Quốc tượng kỳ từ điển, và Tượng kỳ toàn thư. Hai cuốn sách dây cộp, có các thế cờ minh hoa cho cách dánh, có chú thích, có diễn giải một cách sáng sửa, rõ ràng. Ong Ngọc khi trò truyện với chúng tôi cứ ao ước hoài rằng chừng nào Việt Nam có được đôi ba cuốn sách như vậy thì bộ môn văn hóá thể thao cờ tướng sẽ có cơ phát triển mạnh mẽ hơn.
Vài mươi năm trước, với bút danh Kỳ Hữu, ông đã là một cây bút hàng đầu của tạp chí Người chơi cờ Việt Nam. Ông từng sưu tâm và cải biên hàng trăm thế cờ nổi tiếng của phương đông để giới thiệu với làng cờ tướng Việt Nam, góp phần không nhỏ cho phong trào cờ tướng của Hà Nội. Tuy nhiên, có một công trình nghiên cứu mà ông đang say mê theo đuổi, đó là việc sưu tẩm, các áng văn thơ cổ kim về để tài cờ tướng. Nhất là các bài thơ cờ của các bậc vua chúa ngày xưa và các vị lãnh tụ thời nay. Nào thơ của Hán Vũ Đế, thơ của Đường Thái Tông bên Trung quốc, thơ của Lê Thánh Tông, thơ của Hồ Chủ tịch ở Việt Nam. Nếu ai đó có cùng sở thích, xin hãy tìm đến ngôi nhà nhỏ của nhà thơ Ngô Linh Ngọc ở Khu tập thể Trường Đại học Bách khoa. Được hầu chuyện một người như ông, hẳn là ta có thể quên thời quên khắc.
Nhưng mà người Á Đông từng truyền tụng nhau câu danh ngôn cổ: "Rạp dẫu có dựng dài ngàn dặm, buổi tiệc nào là buổi tiệc không tan". Bất cứ một niềm đam mê nào cũng bao hàm một sự thái quá. Mà không phải sự thái quá nào cũng có thể được xã hội chấp nhận. Trong kho tàng sưu tầm của nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Linh Ngọc, có một chỉ dụ của vị Hoàng Đế họ Đinh nước Việt cách đây gần 10 thế kỷ về việc ra hình phạt với người quá ham mê đánh cờ mà bỏ bễ việc công. Cụ còn nhắc đến bài hịch tướng sĩ của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn với lời nhắc nhở phê bình quản sĩ chớ ham cờ tướng, chớ ham đá gà, chó ham đàn hát mà lơ là việc quân.
Tiến sĩ Nguyễn Viết Chức có một thời từng đảm đương vị thế quan chức đầu ngành của sở văn hóa thông tin Hà Nội. Cơ quan của ông đóng tại bờ hồ Gươm. Mỗi khi kết thúc giờ làm việc, ông thường quá bộ sang đường, tìm vào câu lạc bộ cờ Ngọc Sơn, nơi ông là hội viên không chính thức từ hàng chục năm nay. Cởi chiếc áo khoác, đặt chiếc máy điện thoại di động trước mặt, thế là ông chủ mục vào bản cờ với hai bên quân xanh, quân đỏ. Bạn cờ của ông có nhiều người là quan chức trong ngành tư tưởng văn hóa của trung ương và Hà Nội. Nhiều vị đã nghỉ hưu song không ít vị còn đương chức. Hôm ấy tôi trông thấy cả nhà thơ Vũ Duy Thông, vụ trưởng vụ báo chí của Ban văn hóá tư tưởng Trung ương và một vài nhân vật quen thuộc trong chính làng báo của chúng ta. Họ tìm đến cờ tướng để giải trí hay là để rèn luyện, hay là cả hai. Trong cương vị hiện thời, ông có thể nói gì đây về một thú vui chưa dễ được hiểu, được quan niệm một cách thuần nhất.
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Nhưng ở độ tuổi của cụ ông Nguyễn Đắc Dần, tuổi ngót chín mươi thì một năm 365 ngày đều có thể coi là những ngày xuân, xuân bất tận và vui bất tận. Có thể lắm chứ, bởi ván cờ chính của cuộc đời, cụ đã hoàn thành trên mọi phương diện, tuy chẳng vẻ vang cao xa, nhưng cũng đủ để cháu con nể trọng, mến yêu. Hôm nay, vừa rời cuộc biểu diễn võ dân tộc ở câu lạc bộ người cao tuổi quận Cầu Giấy, cụ ông Nguyễn Đắc Dần lại cầm chiếc bình tưới cho mấy chậu địa lan trước khi thong thả ngồi vào bàn cờ tướng.
Nếu ai đó có lòng đến thăm cụ ở cửa hàng hoa cảnh Nhất Chi Mai, xin hãy nhớ đừng chúc cụ sống lâu trăm tuổi. Bởi cụ sẽ không bằng lòng đâu. Cụ vẫn nói rằng cụ còn có thể sống lâu hơn thế nữa kia. Hãy chờ mà xem. Ván cờ hay nhất của cụ còn đang ở phía trước.
Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng. Thân mến chào tạm biệt quý vị!

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ và dấu mốc những năm Tỵ
“Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ và dấu mốc những năm Tỵ” là nhan đề vài viết của Đại tá, Nhà báo Đỗ Phú Thọ, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Năm Ất Tỵ 2025 có khá nhiều sự kiện kỷ niệm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Năm Ất Tỵ 2025, nhân dân cả nước nói chung và ngành Công Thương nói riêng có khá nhiều sự kiện kỷ niệm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đặc biệt, nhiều sự kiện đã diễn ra vào những năm Tỵ.
Năm Ất Tỵ 2025 này có khá nhiều sự kiện kỷ niệm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Sự kiện đầu tiên ở trong những ngày đầu xuân Ất Tỵ, đó là kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2025) mà Bác Hồ chính là người sáng lập. Người là tác giả đầu tiên của Cương lĩnh thành lập Đảng: Chính cương, sách lược vắn tắt; Chương trình hành động vắn tắt, Điều lệ Đảng…, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng ta.
Nhiều người đều biết, Đảng ta ra đời vào mùa xuân Canh Ngọ. Thế nhưng có lẽ ít người biết rằng, để có sự kiện đặc biệt đó vào đầu xuân mới, trong năm Kỷ Tỵ 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều hoạt động nỗ lực cho việc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Thái Lan thì được tin Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội đang bị tan rã. Tháng 5/1929, Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội được tiến hành tại Hương Cảng, trong đại hội, vấn đề thành lập Đảng được thảo luận, nhưng không đi đến thống nhất, đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi đại hội về nước, đến ngày 17/6/1929 tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25/7/1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9/1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh |
Những sự kiện trên phản ánh xu thế của cách mạng Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: Thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Cuối năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Thái Lan về Trung Quốc để chuẩn bị việc hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình chuẩn bị cho Hội nghị hợp nhất được bắt đầu từ ngày 6/1/1930 (tức ngày 7 tháng Chạp năm Kỷ Tỵ). Sau những buổi bàn luận kỹ càng, Người đã quyết định triệu tập Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Nhận được tin, các đoàn đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng lần lượt đến Hồng Kông vào những ngày giáp Tết. Hội nghị bắt đầu ngày mùng năm Tết Canh Ngọ (tức ngày 3/2/1930). Sau 5 ngày thảo luận sôi nổi và khẩn trương, Hội nghị đã nhất trí tán thành hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
11 năm sau sự kiện thành lập Đảng và 30 năm sau kể từ năm Bác Hồ từ bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, mùa Xuân Tân Tỵ (năm 1941), Người từ nước ngoài trở về Tổ quốc qua biên giới Việt - Trung, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Cùng năm 1941, vào tháng 5, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Hội nghị đã xác định rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của cách mạng Đông Dương. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên là Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, cách mạng Việt Nam chuyển hẳn sang một thời kỳ mới. Hơn 4 năm sau, Cách mạng Tháng Tám thành công, Tổng Khởi nghĩa thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Mùa xuân Quý Tỵ 1953, sau 8 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi, chuẩn bị bước vào giai đoạn tổng công kích 1953-1954. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Thơ chúc Tết xuân Quý Tỵ, 1953”. Bài thơ có đoạn: “Mừng năm Thìn vừa qua, / Mừng Xuân Tỵ đã tới. / Mừng phát động nông dân,/ Mừng hậu phương phấn khởi./ Mừng tiền tuyến toàn quân/ Thi đua chiến thắng mới. / Mừng toàn dân đoàn kết, / Mừng kháng chiến thắng lợi./ Mừng năm mới, nhiệm vụ mới,...”
Thơ chúc Tết của Bác như hồi kèn thúc giục toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lao vào trận tuyến để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vào năm sau (1954).
Mùa Xuân năm Ất Tỵ 1965, Bác Hồ bước vào tuổi 75 và bắt đầu suy nghĩ viết Di chúc để lại. Như thường lệ, Bác gửi thơ Xuân tặng đồng bào và chiến sĩ cả nước:
“Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới. / Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi. / Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi, / Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới, / Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi, / Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng, / Chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi! / Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!”
8 giờ 30 phút ngày mồng một Tết Ất Tỵ, Bác gặp mặt hơn 2 vạn đại biểu các dân tộc trong tỉnh Quảng Ninh để chúc mừng năm mới. Nhân dịp này, Người tặng quân và dân Quảng Ninh lá cờ thưởng luân lưu cho toàn ngành than và thiếp chúc Tết cho những đơn vị, cá nhân có thành tích.
Gần trưa mồng một Tết, Bác rời Hòn Gai tiếp tục đi chúc Tết nhân dân huyện Yên Hưng. Bác “xông đất” một số gia đình xã viên Hợp tác xã Khe Cát. Bác rất vui khi thấy trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng gia đình nào cũng có bánh mật, bánh chưng, chè Ba Đình và hoa đẹp. Bác thân mật chúc Tết các gia đình, gần gũi thân thương như một người ông đi xa trở về.
Đầu Xuân mới Ất Tỵ 2025 này, đọc lại Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có quyền tự hào báo cáo với Người rằng, ước nguyện của Người đã và đang được toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện. Đặc biệt, mùa Xuân này là dấu mốc quan trọng để dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới với mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” theo đúng ý nguyện của Bác trước lúc đi xa.
Bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên
“Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên" là nhan đề bài viết của tác giả Công Minh, Báo Công Thương xin được gửi đến quý vị khán giả trong chương trình Podcast ngày hôm nay.
Bài viết:
Lịch sử 95 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trưởng thành, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”.
Vai trò gương mẫu của đảng viên xuất phát từ vị trí hết sức quan trọng của đảng viên của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm; mọi nghị quyết, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do các đảng viên chấp hành, triển khai thực hiện. Người cũng nêu rõ mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng nhân dân.
Từ vai trò, vị trí quan trọng đó, đòi hỏi đảng viên phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, không được làm trái với nghĩa vụ đảng viên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ đảng viên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh đến vấn đề kỷ luật Đảng, khẳng định sức mạnh vô địch của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam chính là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Đảng ta là một đảng cầm quyền, phải giữ gìn Đảng thật sự trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân và muốn được như vậy thì mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ sống còn của Đảng là phải không ngừng xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn có những chủ trương, giải pháp tích cực, hiệu quả để đảng viên thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình. Cụ thể: Đảng phải ra sức tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Trong Đảng phải luôn nghiêm chỉnh thực hành phê bình và tự phê bình, Đảng phải hoan nghênh, khuyến khích, tạo thuận lợi để quần chúng nhân dân thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phải thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt của chi bộ, giữ nghiêm minh kỷ luật của Đảng và thực hiện chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng.
Trước hết, đội ngũ đảng viên cần thật sự tự giác, rèn luyện phấn đấu cả trong lời nói cũng như việc làm, ở mọi lúc, mọi nơi, trở thành những gương sáng để quần chúng nhân dân noi theo. Từng đảng viên cần chú ý khi có thành tích, kết quả tốt thì không chủ quan, kiêu ngạo; khi có khuyết điểm thì phải thẳng thắn chỉ ra và tích cực sửa chữa, khắc phục để tiến bộ. Đặc biệt, hiện nay, nhiều cán bộ, đảng viên đã phát huy vai trò chủ động, tích cực tuyên truyền, vận động để gia đình, người thân cùng gương mẫu, làm tốt theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới.
Cùng với nỗ lực tự giác rèn luyện phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên thì rất cần sự vào cuộc, đồng hành, giúp đỡ của các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ sống còn của Đảng là phải không ngừng xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt. Người yêu cầu các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân “có cơ chế chính sách, quy định, cách làm phù hợp, tích cực, tạo thuận lợi, giúp đỡ, đồng hành cùng cán bộ, đảng viên trong tiên phong, gương mẫu. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc giúp đỡ cán bộ, đảng viên vượt qua sai phạm, khuyết điểm. Người nhắc nhở: “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”.
Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại tăng cường các hoạt động chống phá xuyên tạc về đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Chúng xuyên tạc, bịa đặt trên mạng xã hội rằng, đảng viên cộng sản đều hư hỏng, không chịu rèn luyện, phấn đấu, không còn uy tín với nhân dân. Thậm chí chúng còn trắng trợn, kích động, kêu gọi trên mạng xã hội: Cộng sản là thảm họa cần phải có vũ khí để chống lại…
Nhưng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân luôn hiểu rõ bản chất thâm độc, xấu xa của những kẻ xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, cán bộ, đảng viên vẫn làm tròn nghĩa vụ phẩm chất, đạo đức, uy tín của người đảng viên, vẫn giữ được uy tín trong nhân dân và quần chúng nhân dân vẫn vững vàng tin yêu, kiên định tiến lên trên con đường cách mạng tươi sáng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, nhân dân đã lựa chọn với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cán bộ, đảng viên đã và đang tiếp tục phấn đấu làm tốt trách nhiệm, nghĩa vụ, tình cảm của mình với Đảng, nhân dân, đất nước, theo tinh thần Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra: “Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần đặt lợi ích chung lên trên hết, mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, đột phá, dũng cảm hy sinh để đất nước phát triển”.
Nội dung Podcast của chúng tôi đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo.
Chương 6: Những cuộc chiến dầu mỏ: Sự trỗi dậy của Royal Dutch và sự suy vong của đế chế Nga
Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo. Hành tung của anh được một nhân viên của Standard Oil ở Singapore nhanh chóng ghi lại và báo cáo về New York: "Một người đàn ông có tên Abrahams, nghe nói là một người cháu của M. Samuel, của… Xanh-đi-ca của nhà Samuel, từ London tới và ngay lập tức đi đến Kutei, nơi có tin đồn rằng nhà Samuel thuê được những khu vực rộng lớn có dầu. Vì Abrahams chính là người đã khởi đầu lĩnh vực kinh doanh dầu lửa trong các bể chứa ở Singapore và Penang, xây dựng nhà máy ở cả hai nơi này nên chuyến đi của anh ta tới Kutei có thể mang một ý nghĩa nào đó".
Quả thật là như vậy. Vì Mark Abrahams được các bác cử tới để khai thác mỏ dầu mà công ty dầu mỏ của nhà Samuel rất cần để duy trì địa vị, thậm chí là để bảo đảm sự sống còn. Trong vụ làm ăn này, Marcus Samuel bị đặt dưới áp lực của sự cưỡng bách vốn có trong lĩnh vực kinh doanh dầu lửa. Bất kỳ ai hoạt động trong ngành này cũng luôn đi tìm sự cân bằng. Khi đầu tư vào bộ phận này của dầu lửa, họ đồng thời phải đầu tư cả vào bộ phận khác để duy trì tính khả thi của khoản đầu tư trước đó. Muốn đầu tư của mình có giá trị, các nhà sản xuất cần thị trường.
Marcus Samuel từng nói: "Sản xuất ra dầu lửa đơn thuần hầu như chỉ đem lại giá trị thấp nhất và địa vị kém hấp dẫn nhất cho thứ nhiên liệu này. Phải tìm được thị trường. Trong khi đó, các hãng lọc dầu lại cần cả nguồn cung và thị trường, vì một nhà máy lọc dầu không được sử dụng thì cũng không hơn gì đống sắt thép phế liệu. Các công ty cần có dầu để mua và bán, nếu không, chắc chắn họ sẽ thua lỗ. Mức độ cấp thiết của những nhu cầu đó thay đổi tùy theo từng thời điểm, tuy nhiên tính cưỡng bách cơ bản thì lại là một hằng số của ngành công nghiệp.
Cuối thập niên 1890, với khoản tiền đầu tư khổng lồ vào tàu chở dầu và hệ thống kho chứa, Marcus Samuel rất cần một nguồn cung cấp dầu lâu dài. Là một thương gia, ông quá hiểu rõ điều này. Hợp đồng dầu lửa với nhà Rothschild sẽ hết hạn vào tháng 10 năm 1900. Liệu ông có thể hy vọng được gia hạn hợp đồng? Dù sao, mối quan hệ giữa ông và nhà Rothschild là một mối quan hệ không bền vững và luôn có khả năng những ông chủ nhà băng này quay sang thỏa thuận với Standard Oil. Ngoài ra, việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu lửa của Nga là rất nguy hiểm.
Samuel phàn nàn, cước phí vận tải ở Nga thay đổi tùy tiện khiến các nguyên lý kinh tế rối tung, biến ngành kinh doanh dầu lửa ở Nga thành một lĩnh vực "giật gấu vá vai" và "đẩy những ai buôn bán dầu lửa với nước này vào một vị thế bất lợi lớn so với các đối thủ Mỹ hùng mạnh". Ngoài ra, những mối nguy hiểm khác như: Sản lượng dầu lửa từ vùng Đông Ấn Hà Lan đang tăng lên, cùng với những quãng đường vận tải ngắn hơn và cước phí vận tải rẻ hơn, khiến Samuel gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng cạnh tranh ở vùng Viễn Đông.
Mặt khác, bất cứ lúc nào, Standard Oil cũng có thể huy động mọi nguồn lực để mở một cuộc chiến tổng lực nhằm hủy diệt Shell. Samuel hiểu một điều rất đơn giản rằng ông cần phải khai thác dầu, phải có dầu thô của chính ông để bảo vệ thị trường và những khoản đầu tư của mình – thực tế là, để bảo đảm sự sống còn của Shell. Tiểu sử của Samuel viết: "Trong cuộc săn tìm dầu lửa, ông chỉ còn thiếu nước hóa điên".
Rừng nhiệt đới
Năm 1895, nhờ những nỗ lực của một kỹ sư khai mỏ người Hà Lan đã có tuổi và bị ám ảnh bởi dầu lửa, người đã dành cả quãng đời trưởng thành của mình trong những khu rừng nhiệt đới ở Đông Ấn, Samuel đã thuê được một mỏ dầu ở khu vực Kutei thuộc Đông Borneo. Mỏ dầu này trải dài hơn 50 dặm dọc theo bờ biển và vươn sâu vào tận trong rừng. Khu rừng rậm rạp và xa xôi này chính là nơi Mark Abrahams được phái tới giám sát công việc khai thác dầu. Anh không hề có kinh nghiệm khoan tìm hay lọc dầu. Tuy anh đã tổ chức việc xây dựng các kho chứa dầu ở Viễn Đông, nhưng điều đó hầu như chẳng giúp được gì trong nhiệm vụ mới và khó khăn hơn nhiều. Sự thiếu kinh nghiệm của Mark Abrahams còn được phản chiếu trên một quy mô lớn hơn trong trường hợp của chính Marcus Samuel. Đó là cái cách ông làm kinh doanh – nỗi ác cảm với công việc tổ chức cũng như phương pháp phân tích và lên kế hoạch có hệ thống, cùng với sự thiếu hụt đội ngũ quản lý và nhân viên có năng lực – đã khiến công việc trong khu rừng nhiệt đới ở Borneo càng thêm khó khăn.
Những con tàu luôn đến sai giờ và chở thiết bị không đúng yêu cầu, thậm chí còn không có cả bảng kê khai hàng hóa. Hàng hóa được dỡ ngay xuống bãi biển, buộc các công nhân phải dừng mọi việc khác để tập hợp và xếp loại các thiết bị. Nhiều thiết bị được chở tới cuối cùng cũng bị vứt lay lắt cho đến khi hoen gỉ trên những bãi cỏ mọc cao. Thậm chí, không có sự điều hành lộn xộn và rời rạc từ London, công việc ở đây cũng đã vô cùng khó khăn. Borneo là một nơi xa xôi với thế giới bên ngoài, còn hơn cả Sumatra. Cảng gần nhất để lấy hàng tiếp tế và thiết bị cách đó một nghìn dặm, ở tận Singapore.
Con đường liên lạc duy nhất với Singapore là thông qua những con tàu lẻ loi đi ngang qua Borneo một hai tuần một lần. Các nhóm công nhân, bị chia ra trên những khu vực khác nhau của mỏ dầu, phải liên tục vật lộn với rừng rậm. Họ cố gắng lắm mới mở được một con đường dài bốn dặm để đi ngang qua khu rừng tới một nơi có dầu rỉ ra được gọi là Điểm Đen, nhưng chỉ trong vòng một vài tuần cây cối mọc rậm trở lại.
Về mặt nhân công, dự án phải phụ thuộc vào những người khuân vác đưa từ Trung Quốc sang vì các nhà tuyển người địa phương không mấy tha thiết với công việc này. Bệnh tật và những trận sốt liên tục tấn công những người làm việc trên các khu khai thác dầu. Thông thường, mỗi khi Abrahams ngồi dậy lúc nửa đêm để viết báo cáo gửi về nhà, chính anh cũng ở trong trạng thái nửa mê sảng vì sốt. Tỷ lệ tử vong của những người làm việc tại nơi này, gồm các công nhân Trung Quốc, các nhà quản lý châu Âu và thợ khoan Canada, rất cao. Một số người chết trên tàu, thậm chí trước khi họ tới nơi. Những mảnh gỗ mà họ cố gắng dùng để xây bất cứ thứ gì, dù là một ngôi nhà, một cây cầu hay một bức tường, đều nhanh chóng mục ruỗng.
![]() |
Marcus Samuel. |
"Những cơn mưa nhiệt đới nóng, ẩm, làm mục rữa và phá hủy mọi thứ" dai dẳng bám lấy họ. Một lần nữa, những người nhà Samuel ở London và Mark Abrahams ở Borneo bắt đầu trao đổi thư từ với những lời lẽ xỉ vả mạnh mẽ, đầy bão tố, như họ đã làm trong những ngày xây dựng các kho chứa dầu ở vùng Viễn Đông. Bất kể Abrahams làm việc gì và công việc đó khó nhọc và đáng nản đến mức nào, các ông bác của anh cũng không cảm thấy hài lòng. Họ không thể hiểu được thực trong khu rừng nhiệt đới này. Khi Marcus Samuel cằn nhằn rằng những ngôi nhà xây cho người châu Âu làm việc tại mỏ dầu là "những tòa biệt thự" sang trọng, trông giống như "hai khu nghỉ mát", Abrahams giận dữ đáp lại: "Những tòa biệt thự" của họ tạm bợ đến nỗi "một cơn gió mạnh hoặc trận mưa to có thể mang đi cả mái nhà. Những ngôi nhà ở đây chỉ thích hợp để nhốt lợn".
Tuy vậy, bất chấp tất cả, tháng 1 năm 1897, giếng dầu đầu tiên đã được phát hiện, và tới tháng 4 năm 1898, giếng dầu phun đầu tiên được tìm thấy. Tuy nhiên, từ chỗ phát hiện ra dầu đến sản xuất thương mại còn cần thêm nhiều nỗ lực. Ngoài ra, dầu thô Borneo lại có hàm lượng dầu hỏa thấp. Mặc dù vậy, khi chưa được lọc, loại dầu này có thể được dùng làm dầu nhiên liệu. Tính chất này của dầu thô nặng Borneo đã đặt nền móng cho một tầm nhìn mà sau này, Samuel luôn hăng hái theo đuổi. Ông gọi tầm nhìn này là "vai trò to lớn mà dầu lửa, ở dạng hợp lý nhất của nó, có thể nắm giữ, vai trò của năng lượng".
Khi thế kỷ XX đang đến gần, Samuel nhìn về phía trước để tiên toán, và đúng như vậy, trong tương lai vĩ đại của dầu lửa, đây sẽ không chỉ là một nguồn chiếu sáng mà còn là một nguồn năng lượng. Còn Marcus Samuel sẽ trở thành người đề xướng mạnh mẽ nhất việc chuyển tàu bè từ chạy than sang chạy dầu. Sự phát triển có tính chất lịch sử đó đã thật sự nhen nhóm vào những năm 1870, khi ostaki, tên gọi Nga của phần bã thừa trong quá trình lọc hóa lấy dầu hỏa, lần đầu tiên được sử dụng để chạy tàu trên biển Caspi thành công. Chính sự thúc bách về nguồn năng lượng đã làm nảy sinh phát minh này: Nga phải nhập khẩu than từ Anh với chi phí rất cao, còn củi lại rất hiếm hoi tại nhiều vùng của đế quốc này. Sau đó, những con tàu đi trên tuyến đường sắt mới xuyên Siberia bắt đầu sử dụng dầu nhiên liệu do công ty của Samuel cung cấp qua Vladivostok, thay vì dùng than hay củi. Hơn nữa, vào thập niên 1890, Chính phủ Nga cũng khuyến khích sử dụng dầu lửa làm nhiên liệu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung.
Tại Anh, trong một số trường hợp, ngành đường sắt cũng chuyển từ dùng than sang dùng dầu nhằm giảm lượng khói thải ra ở các khu vực đô thị hoặc vì những lý do an toàn đặc biệt, như khi chở các thành viên của gia đình hoàng tộc. Tuy nhiên, nhìn chung, than vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn vì trên thực tế, than là cơ sở cho ngành công nghiệp nặng ở Bắc Mỹ và châu Âu phát triển trên quy mô rộng. Than cũng là nhiên liệu cho các đội tàu thương mại và hải quân trên thế giới. Và tầm nhìn của Samuel vấp phải sự phản đối mạnh mẽ ngay trên phân đoạn thị trường mà ông quan tâm nhất – Hải quân Hoàng gia Anh. Ông đã bỏ ra hơn một thập kỷ tìm cách mở cánh cửa vào thị trường này, mà không thu được kết quả nào.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)
Kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 8 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà nam giới thiệu, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
CHƯƠNG 7: "NHỮNG TRÒ GIẢI TRÍ" Ở BA TƯ
Cuối năm 1900, Antoine Kitabgi, một tướng quân Ba Tư bảnh bao, đã tới Paris. Có lúc ông được cho là người gốc Armenia, lại có lúc được cho là người gốc Georgia, Kitabgi từng giữ nhiều vị trí trong Chính phủ Ba Tư, kể cả chức Tổng giám đốc Cục Hải quan. Một nhà ngoại giao Anh nói, Kitabgi "là người tinh thông các vấn đề phương Tây, có thể vạch ra một thỏa thuận hoặc đề xướng những hoạt động thương mại". Đó là những kỹ năng thích hợp cho nhiệm vụ của ông. Lý do bề ngoài của chuyến viếng thăm là lễ khai mạc Triển lãm Ba Tư ở Paris, nhưng mục đích chính của Kitabgi lại là tìm kiếm một nhà đầu tư ở châu Âu muốn thuê mỏ dầu ở Ba Tư. Kitabgi không chỉ phục vụ lợi ích của riêng mình – chắc chắn ông sẽ được đền đáp thỏa đáng – mà còn phục vụ cho lợi ích của Chính phủ Ba Tư. Trong những vấn đề rất hiển nhiên mà Chính phủ Ba Tư đang phải đối mặt, việc thiếu tiền trầm trọng.
Theo Thủ tướng Ba Tư thì nguyên nhân là do "tính hoang phí của Shah". Kết quả của những nỗ lực của tướng Kitabgi sẽ chứng minh đây là một vụ giao dịch có quy mô lớn nhất trong lịch sử. Mặc dù số phận của thỏa thuận này như ngàn cân treo sợi tóc trong vòng nhiều năm, nhưng nó sẽ mở ra kỷ nguyên dầu lửa ở Trung Đông và cuối cùng, đẩy khu vực này tới vị trí trung tâm của những bất đồng quốc tế về chính trị và kinh tế. Còn bản thân Ba Tư – hay Iran, như quốc gia này được biết tới từ năm 1935 trở đi – sẽ nổi lên với vị thế cao trên trường quốc tế, một vị thế chưa từng có kể từ thời kỳ đế quốc Ba Tư và Parthi cổ đại.
![]() |
Mỏ dầu ở Ba Tư |
"Một nhà tư bản hạng nhất"
Ở Paris, Kitabgi tìm sự giúp đỡ của một nhà ngoại giao Anh đã về hưu. Sau khi cân nhắc, ông ta báo cáo Kitabgi: "Tôi đã nói chuyện với một nhà tư bản hạng nhất về vấn đề dầu lửa. Ông ấy tuyên bố sẵn sàng xem xét chuyện này". Nhà tư bản đó là William Knox D’Arcy. Sinh năm 1849 ở Devon, nước Anh, D’Arcy nhập cư vào Australia và tại đây, ông trở thành luật sư tại một thị trấn nhỏ và nảy sinh niềm đam mê đặc biệt với môn đua ngựa. Với bản tính sẵn sàng nắm bắt cơ hội, D’Arcy đã tổ chức một nghiệp đoàn để đưa một mỏ vàng cũ trở lại hoạt động. Mỏ này hóa ra vẫn còn rất nhiều vàng, và sau đó, ông quay về Anh sống cuộc đời cực kỳ giàu có. Sau khi người vợ đầu tiên qua đời, ông cưới Nina Boucicault, một nữ diễn viên nổi tiếng, người có những thú tiêu khiển rất xa xỉ. Thậm chí, Enrico Caruso đã tới hát trong những bữa tiệc tối của đôi vợ chồng này. Ngoài ngôi nhà ở London, D’Arcy sở hữu hai điền trang ở ngoại ô và một trong hai lô riêng ở trường đua Epson – lô kia là của Hoàng gia Anh. Ông là một nhà đầu tư, một nhà đầu cơ, một nhà tổ chức các nghiệp đoàn, nhưng không phải là một nhà quản lý, và ông đang tìm kiếm một cơ hội đầu tư mới. Triển vọng về dầu lửa ở Ba Tư đã hấp dẫn D’Arcy. Lại một lần nữa, ông sẵn sàng chộp lấy cơ hội, và với việc nắm bắt cơ hội này, ông sẽ trở thành người sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa ở Trung Đông. Những khu vực có dầu ở Ba Tư đã được biết đến trong nhiều thế kỷ.
Ở đất nước này, dầu đã được sử dụng cho nhiều mục đích như chít thuyền và gắn các viên gạch. Năm 1872, rồi năm 1889, Nam tước Julius de Reuter, người sáng lập hãng tin Reuters, đã thuê được hai mỏ dầu ở Ba Tư. Tuy nhiên, việc làm đó đã gây ra sự chống đối lớn ở Ba Tư và Nga. Thêm vào đó, những nỗ lực tìm kiếm dầu cũng không thành công và gây ra nhiều lãng phí. Cuối cùng, hợp đồng thuê hai mỏ dầu này đã bị huỷ bỏ. Trong thập niên 1890, một nhà địa chất người Pháp bắt đầu xuất bản các báo cáo dựa trên nghiên cứu mở rộng của ông ở Ba Tư, cho thấy tiềm năng lớn về dầu lửa ở đây. Công trình của ông được nhiều người biết tới, trong đó có tướng Kitabgi, người rất muốn gài bẫy D’Arcy và hứa hẹn với nhà triệu phú này về một "nguồn của cải vô biên". Làm sao người ta có thể không quan tâm? Nhưng trước tiên cần phải giành được quyền thuê đất đã.
Ngày 25 tháng 3 năm 1901, đại diện của D’Arcy rời Paris, đi qua Baku và tới Tehran vào ngày 16 tháng 4. Các cuộc đàm phán tại thủ đô của Ba Tư diễn ra chậm chạp và liên tục đứt quãng nên lúc rảnh rỗi, đại diện của D’Arcy lại đi tìm mua những tấm thảm và hàng thêu. Nhà trung gian lâu năm Antoine Kitabgi thì bận rộn hơn. Theo công sứ Anh tại Ba Tư, ngài Arthur Hardinge, thì Kitabgi "bằng một cung cách rất chu đáo, tìm kiếm sự ủng hộ của tất cả các bộ trưởng và cận thần quan trọng của Shah. Thậm chí, Kitabgi còn không quên cả tay người hầu vẫn mang tẩu thuốc và cà phê sáng cho Shah".
Anh chống lại Nga
Trước đây, Ba Tư là đế quốc cổ đại dưới sự trị vì của Cyrus Đại đế và Darius I. Cho tới thế kỷ V, quốc gia này trải dài từ Ấn Độ tới khu vực ngày nay là Hy Lạp và Libya. Sau đó, đế quốc Parthia nổi lên trên khu vực Iran ngày nay và trở thành đối thủ đáng gờm của đế quốc La Mã. Ba Tư là một ngã tư lớn cho các hoạt động mậu dịch và các cuộc chinh phạt giữa châu Á và phương Tây. Từng làn sóng nối tiếp nhau của những đoàn quân và nhiều dân tộc đã đi qua nơi này, và từng định cư tại đây. Alexander Đại đế như cơn lốc quét tới từ phương Tây, Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ ào tới từ phương Đông.
Cuối thế kỷ XVIII, một vương triều tham lam mang tên Qajar đã giành được quyền kiểm soát một đất nước đã bị chia nhỏ thành các công quốc của những viên thủ lĩnh giành thắng lợi trong chiến tranh và những liên minh bộ tộc. Việc cai trị của các Shah Qajar trong một thế kỷ rưỡi diễn ra không dễ dàng. Vào thế kỷ XIX, một đất nước vốn quen với việc xâm lược các dân tộc khác nhận ra mình đang là đối tượng của một áp lực mới từ bên ngoài – cuộc cạnh tranh thương mại và ngoại giao giữa Nga và Anh để giành quyền thống trị Ba Tư. Điều này tất yếu khiến các Shah Qajar bận tâm, vì họ đang tìm cách làm cho hai cường quốc này chống lại nhau. Sự thù địch giữa Anh và Nga đã biến Ba Tư thành một vấn đề lớn trong chính sách đối ngoại của Anh. Ngài Curzon, toàn quyền Ấn Độ, coi Ba Tư là một trong những "mảnh ghép của một bàn cờ, nơi người ta đang chơi một ván cờ để giành quyền cai trị thế giới".
Đầu thập niên 1860, Nga bắt đầu nỗ lực mở rộng và thôn tính khu vực Trung Á. Quốc gia này còn vươn tầm ngắm qua Trung Á, tính tới chuyện kiểm soát các nước láng giềng và thôn tính được một cảng nước ấm. Đối với Anh, sự bành trướng của Nga là mối đe dọa trực tiếp đến Ấn Độ và những tuyến đường dẫn tới đây. Năm 1871, Bộ Ngoại giao Anh tuyên bố, bất kỳ nguồn lực nào giúp tăng cường sức mạnh của Ba Tư chống lại bước tiến của Nga cũng "có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ Ấn Độ". Nga đang trên đà mở rộng khắp khu vực. Năm 1885, Nga mở cuộc tấn công vào nước láng giềng Afghanistan và suýt làm nổ ra một cuộc chiến tranh giữa Nga và Anh. Cuối thế kỷ XIX, Nga lại tiếp tục gây áp lực với Ba Tư. Trong bối cảnh đó, Anh tìm cách duy trì nguyên trạng Ba Tư để làm một vùng đệm giữa Nga và Ấn Độ. Hai cường quốc đã tranh giành ảnh hưởng đối với Ba Tư thông qua những hợp đồng thuê đất, những khoản vay và các công cụ ngoại giao kinh tế khác. Tuy nhiên, khi bước sang thế kỷ mới, địa vị của Anh ở đây trở nên bấp bênh, vì Ba Tư dường như đã nằm trong vòng kiểm soát của Nga.
Trong khi nền kinh tế của Ba Tư đã hòa nhập đáng kể vào nền kinh tế Nga, Nga còn tìm cách xây dựng một căn cứ hải quân ở vịnh Ba Tư. Theo lời của vị công sứ người Anh Hardinge, Shah Muzaffar al-Din của Ba Tư "chỉ là một đứa trẻ lớn tuổi" và "bản thân chế độ quân chủ của Ba Tư đã già cỗi và bị quản lý yếu kém trong thời gian dài. Chế độ này có nguy cơ bị lật đổ ngay lập tức khi bất kỳ một cường quốc bên ngoài nào đưa ra mức giá cao nhất hoặc đe dọa lớn tiếng nhất đối với những kẻ cai trị đã thoái hóa và không còn khả năng tự vệ". Hardinge lo sợ rằng, cường quốc ấy rất có khả năng là nước Nga, vì "Shah và các bộ trưởng của ông ta đang ở trong tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào Nga, do sự phung phí liều lĩnh và hành động thiếu suy nghĩ của họ". Người Nga không quan tâm nhiều đến khía cạnh kinh tế của mối quan hệ này. Một quan chức Nga nói: "Chúng tôi được lợi gì khi buôn bán với bảy hay tám triệu kẻ nhếch nhác và lười biếng?". Thực tế, điều mà người Nga muốn là áp đặt quyền chi phối chính trị lên Ba Tư và gạt những cường quốc khác ra khỏi nước này.
Theo Hardinge, mục tiêu "quan trọng nhất" trong chính sách của Anh là chống lại một cuộc xâm nhập "đáng ghê tởm" vào Ba Tư. Đây chính là điều mà D’Arcy và kế hoạch kinh doanh dầu lửa của ông có thể hỗ trợ. Một hợp đồng thuê mỏ dầu cho người Anh sẽ góp phần lấy lại thế cân bằng với Nga. Vì thế, Anh đã ủng hộ vụ làm ăn của D’Arcy. Khi phát hiện ra cuộc đàm phán thuê mỏ dầu, viên công sứ Nga nổi giận, tìm cách cản trở và đã thành công trong việc kéo dài quá trình đàm phán. Tuy nhiên, đại diện của D’Arcy đã đặt thêm 5.000 bảng nữa lên bàn đàm phán, vì theo những gì mà người này báo cáo với D’Arcy, "Shah muốn có ngay một ít tiền và đòi có tiền thì mới ký hợp đồng". Số tiền đưa thêm đó đã có tác dụng, và ngày 28 tháng 5 năm 1901, Shah Muzaffar al-Din đã ký vào bản hợp đồng. Hợp đồng này đem lại cho nhà vua 20.000 bảng tiền mặt, một số cổ phiếu trị giá 20.000 bảng, và 16% của "lợi nhuận ròng hàng năm". Đổi lại, D’Arcy có được quyền khai thác mỏ dầu trong vòng 60 năm, trên khắp 3/4 diện tích của Ba Tư. Từ đầu, D’Arcy đã có chủ ý loại ra khỏi hợp đồng thuê mỏ mà ông đề xuất năm tỉnh ở phía bắc của Ba Tư, những nơi gần nước Nga nhất, để "không làm phật ý người Nga". Tuy nhiên, sự đối địch giữa Anh và Nga khó có thể chấm dứt. Lúc này, Nga đang tìm cách xây dựng một đường ống dẫn dầu từ Baku tới vịnh Ba Tư, không chỉ để tăng cường xuất khẩu dầu mỏ vào thị trường Ấn Độ và châu Á, mà quan trọng hơn, để mở rộng ảnh hưởng chiến lược của Nga ở Ba Tư, trên khắp Vùng Vịnh và tới những khu vực bờ biển của Ấn Độ Dương. Người Anh kịch liệt phản đối dự án này.
Công sứ Anh tại Tehran, Hardinge cảnh báo rằng, việc cho phép xây dựng đường ống "lố bịch" này, thậm chí cả khi đường ống đó không bao giờ được xây dựng, sẽ "là cái cớ để các nhà khảo sát, kỹ sư và biệt đội bảo vệ của bọn Cô-dắc lan tràn khắp khu vực phía nam của Ba Tư, chuẩn bị cho sự chiếm đóng quân sự trá hình". Sự phản đối của Anh đã thành công, tuyến đường ống đó đã không được xây dựng. Đại diện của D’Arcy ở Tehran cảm thấy hồ hởi về thỏa thuận đã đạt được. Chương trình này sẽ không chỉ đem lại lợi ích cho D’Arcy mà còn "có ảnh hưởng rộng rãi, cả về mặt thương mại và chính trị cho nước Anh và không thể không tăng cường mạnh mẽ ảnh hưởng của nước Anh ở Ba Tư". Mặc dù từ chối gánh lấy bất kỳ trách nhiệm trực tiếp nào, Bộ Ngoại giao Anh cũng sẵn sàng hỗ trợ cho những nỗ lực của D’Arcy. Tuy nhiên, người có mặt trực tiếp ở Ba Tư là Hardinge lại tỏ ra hoài nghi. Ông biết rõ về Ba Tư – hệ thống chính trị, con người, những khó khăn lớn về địa lý và hậu cần, cũng như thực tế chẳng có gì hứa hẹn của những hợp đồng khai thác dầu lửa gần đây ở nước này. Ông cảnh báo: "Cho dù có dầu ở Ba Tư hay không, trong những năm qua, đã có quá nhiều kế hoạch triển vọng tái tạo thương mại và chính trị ở đây bị đổ vỡ. Việc dự báo tương lai của dự án mới nhất này có thể là điều quá vội vàng".
Theo lời một nhà sử học, kế hoạch của D’Arcy là "cuộc phiêu lưu trải rộng trên một vùng đất xa xôi và khó lường". Vậy điều gì đã lôi kéo D’Arcy vào một dự án kinh doanh mạo hiểm đến như vậy? Tất nhiên, câu trả lời ở đây là sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của sự giàu có khôn xuể và cơ hội trở thành một Rockefeller mới. Ngoài ra, trước đó, D’Arcy cũng từng mạo hiểm với mỏ vàng ở Australia và thành công rực rỡ. Tuy nhiên, nếu D’Arcy có thể dự đoán chính xác điều gì đang đợi mình ở phía trước, hẳn là ông đã dừng vụ làm ăn mạo hiểm này. Đây là một canh bạc lớn, lớn hơn rất nhiều so với dự án mỏ vàng ở Australia của D’Arcy, với nhiều người chơi hơn so với những gì ông dự tính. Đồng thời, nó cũng có mức độ phức tạp chính trị và xã hội hoàn toàn không hề tồn tại ở Australia. Tóm lại, đây không phải là một vụ làm ăn bình thường. Thậm chí, cả những tính toán chi phí cũng được nói giảm đi rất nhiều. Ban đầu, D’Arcy được cố vấn rằng sẽ phải mất 10.000 bảng để khoan hai giếng dầu nhưng thực tế là trong vòng bốn năm, ông phải bỏ ra tới hơn 200.000 bảng.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Huyền ảo ngôi đền lưu giữ hồn thiêng Phố Hiến
“Huyền ảo ngôi đền lưu giữ hồn thiêng Phố Hiến”, kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài Podcast của tác giả Thanh Thảo. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Giữa lòng Phố Hiến cổ kính, nơi từng được ví như “tiểu Tràng An” một thuở, có một ngôi đền trầm mặc soi bóng bên hồ Bán Nguyệt - đó là đền Mẫu Hưng Yên.
Hơn bảy thế kỷ trôi qua, ngôi đền không chỉ là chốn linh thiêng thờ Dương Thiên Hậu - vị thần bảo hộ cho cư dân vùng này, mà còn là biểu tượng cho văn hóa tâm linh của người Việt. Mỗi dịp xuân về, từng dòng người lại tấp nập tìm đến, mang theo những mong ước, những lời nguyện cầu gửi vào làn khói trầm vấn vít, như một cách kết nối với cội nguồn và gửi gắm niềm tin vào tương lai. Đền Mẫu không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là nơi lắng đọng những giá trị tinh thần qua bao thế hệ, là chứng nhân cho sự giao thoa giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và thần linh.
Hồn dân tộc trong mái đền thiêng
Mùa xuân về trên Phố Hiến. Sáng sớm, sương vẫn còn vương nhẹ trên những mái ngói rêu phong của đền Mẫu. Hơi thở của mùa xuân len lỏi qua từng khóm cây, đang vươn mình đâm chồi nảy lộc ven mặt hồ bán nguyệt, nơi bóng đền soi xuống làn nước yên ả. Hưng Yên bước vào những ngày đầu năm trong tiết trời se lạnh nhưng lòng người lại rộn ràng với những mong ước, khát vọng mới.
Con đường dẫn vào đền Mẫu hôm nay đông hơn thường lệ. Những tà áo dài thướt tha xen lẫn áo ấm mùa đông, tay ai cũng nâng niu những bó hoa, lễ vật gói ghém lòng thành. Những bậc cao niên thong thả đi từng bước, miệng khẽ ngân nga câu khấn. Các đôi vợ chồng trẻ dắt theo con nhỏ, vừa hướng dẫn con cách vái lạy, vừa dạy con đạo lý uống nước nhớ nguồn. Không khí vừa trang nghiêm, vừa ấm áp, quyện trong hương trầm ngan ngát.
![]() |
Đền Mẫu mê hoặc lòng người bởi vẻ cổ kính và huyền bí |
Đền Mẫu Hưng Yên, còn gọi là Hoa Dương Linh Từ, là nơi thờ Dương Quý Phi - vợ của vua Tống Đế Bính. Chuyện kể rằng, khi nhà Tống sụp đổ, bà cùng đoàn người chạy loạn đến Phố Hiến, rồi hóa Thánh tại đây. Người dân thương kính, lập đền thờ, phong bà là Dương Thiên Hậu, phù hộ độ trì cho bách tính. Từ đó, đền trở thành một trong những địa điểm linh thiêng bậc nhất của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Những hoa văn chạm trổ trên cột gỗ, những bức hoành phi, câu đối đỏ thắm vẫn mang dấu ấn của thời gian. Trải qua bao thăng trầm, đền Mẫu vẫn đứng đó, trầm mặc mà bao dung, lắng nghe mọi ước nguyện của người đời.
Lễ hội lớn nhất của đền diễn ra vào tháng ba âm lịch, nhưng ngay từ đầu năm, người dân đã tìm về để cầu tài, cầu lộc, cầu bình an. Người buôn bán mong một năm phát đạt, người nông dân cầu cho mưa thuận gió hòa, người trẻ cầu duyên, người già mong sức khỏe dồi dào. Lòng tin ấy như một sợi dây vô hình kết nối bao thế hệ, để mỗi dịp đầu xuân, người ta lại tìm về nương tựa nơi cửa đền.
Tục gieo quẻ đầu năm tại đền Mẫu
Trong những nghi thức tâm linh quan trọng khi ghé thăm đền Mẫu Hưng Yên, tục gieo quẻ đầu năm là một nét đẹp văn hóa được nhiều người thực hiện với lòng thành kính. Sau khi dâng hương, cầu nguyện trước ban thờ, nhiều người đi lễ thường đến khu vực xin gieo quẻ, nơi có những ống thẻ nhỏ chứa đựng lời tiên tri về vận trình trong năm mới.
Nghi thức gieo quẻ diễn ra trong không gian tĩnh lặng, mỗi người cầm lấy ống quẻ, chắp tay khấn nguyện rồi nhẹ nhàng lắc cho đến khi một thẻ rơi ra. Trên mỗi thẻ có khắc một con số, tương ứng với những lời sấm truyền được ghi chép cẩn thận trong sách quẻ của đền. Các vị sư hoặc thủ nhang trong đền sẽ giúp giải nghĩa từng lời quẻ, đưa ra những lời chỉ dẫn về công danh, sự nghiệp, tình duyên hay sức khỏe.
Nhiều người tin rằng, gieo quẻ không chỉ để biết trước điều gì sẽ đến, mà còn để hiểu được những điều cần chú trọng, những bài học mà “số mệnh” muốn gửi gắm. Một quẻ tốt sẽ mang lại niềm vui, sự vững tin; hoặc nếu như gặp phải một quẻ xấu lại giúp người ta biết cách cẩn trọng, tu tâm dưỡng tính, mong ước sẽ bình an, hóa giải điều không hay.
Tục lệ gieo quẻ khi đến thăm viếng đền Mẫu lâu nay đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong văn hóa đi lễ đầu năm của người dân Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung. Với mỗi quẻ gieo, lòng người nhẹ đi một nỗi lo, thêm một niềm tin vững vàng để bước vào năm mới với sự an yên và thanh thản.
Hương xuân còn mãi
Trời đã gần trưa, nắng lên dịu nhẹ, trải một lớp óng vàng lên sân đền. Tiếng chuông ngân vang giữa không gian thanh tịnh. Dòng người vẫn tiếp tục ra vào, ai cũng mang theo một niềm tin, một mong ước.
Trên tay một bà cụ là bó hương còn ấm, bà chậm rãi bước ra cổng đền, nở một nụ cười hiền hậu. Khi được hỏi cầu gì đầu năm, bà khẽ đáp: Cầu cho con cháu bình an, đất nước yên vui / Chỉ vậy thôi mà ai ai cũng hạnh phúc. Hay “Mùa xuân rồi sẽ qua, nhưng lòng thành vẫn còn mãi”.
Giữa dòng chảy bất tận của thời gian, đền Mẫu vẫn lặng lẽ đứng đó, soi bóng xuống mặt hồ bán nguyệt, đón bao thế hệ tìm về với lòng thành kính. Người ta đến đây để cầu may mắn, để xin một quẻ đầu năm, nhưng hơn hết, để lắng lại giữa những ồn ào của cuộc sống, tìm về cội nguồn và vun đắp niềm tin vào những điều tốt đẹp. Mùa xuân rồi sẽ qua, nhang trầm rồi sẽ tàn, nhưng những ước nguyện gửi gắm nơi mái đền thiêng sẽ theo người đi suốt cả chặng đường phía trước - như một lời nhắc nhở về lòng thành, về niềm tin và về sự an yên trong tâm hồn.
Và đúng vậy, đền Mẫu - Hưng Yên không chỉ là nơi để thăm quan, viếng vọng, mà còn là nơi để mỗi người tìm thấy sự an yên, sâu lắng trong tâm hồn. Để rồi khi rời đi, ai cũng mang theo một chút hương xuân, một chút niềm tin, và một lời hẹn sẽ quay trở lại vào mùa xuân năm sau./.
Kính thưa quý vị, bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6), kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 6 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà Nam (giới thiệu), kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị.
CHƯƠNG 5: SÁT THỦ GIẾT RỒNG
"Ngôi nhà cổ" đang bị vây hãm. Standard Oil không thể đánh bại các đối thủ thương mại của nó tại Mỹ cũng như trên thế giới. Ngoài ra, một cuộc chiến chính trị và pháp lý đang diễn ra trên khắp nước Mỹ nhằm chống lại Standard Oil và các hành vi kinh doanh tàn nhẫn của công ty này. Đây không phải là một thử thách mới, Rockefeller và các đối tác của ông đã bị chỉ trích và phỉ báng ngay từ những ngày đầu xây dựng tờ-rớt dầu lửa Standard.
Các lãnh đạo công ty không bao giờ thật sự hiểu được sự chỉ trích đó. Họ nghĩ rằng, đó là chính sách mị dân rẻ tiền, sự ghen tị dốt nát và một cách nài xin đặc biệt. Họ tin chắc rằng, trong cuộc theo đuổi không ngừng nghỉ những lợi ích của bản thân và sự giàu có, Standard Oil không chỉ ngăn chặn được tai họa của "tình trạng cạnh tranh không kiểm soát", mà công ty này có lẽ còn là, theo lời của chính Rockefeller, "những người dựng xây" vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tuy nhiên, đó không phải là cách nhìn nhận của phần đông dư luận.
Những người phê phán Standard chỉ nhìn thấy một doanh nghiệp hùng mạnh, xảo quyệt, thô bạo, kiên cố, xâm nhập vào mọi ngóc ngách, và rất bí hiểm. Công ty này không chịu trách nhiệm trước một ai, trừ một vài vị giám đốc ngạo mạn, và dùng sự tàn bạo để cố gắng tiêu diệt những ai cản đường nó. Quan điểm này là một phần bối cảnh của thời kỳ đó. Sự lớn mạnh của Standard Oil không diễn ra tách biệt với những gì xung quanh. Đó là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ trong vài thập niên cuối thế kỷ XIX.
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị. Mỗi tờ-rớt ngồi chễm chệ trên một ngành công nghiệp và nhiều tờ-rớt có các nhà đầu tư và giám đốc đan xen lẫn nhau. Sự thay đổi nhanh chóng này là một hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ đối với nhiều người Mỹ.
Khi thế kỷ XIX kết thúc và thế kỷ XX mở ra, họ trông chờ chính phủ lập lại sự cạnh tranh, kiểm soát những hành vi bất lương và chế ngự sức mạnh kinh tế cũng như chính trị của các tờ-rớt, những con rồng to lớn và đáng sợ đang gầm rú quá tự do trên khắp đất nước. Dữ tợn và đáng sợ nhất trong số những con rồng này chính là Standard Oil.
![]() |
Rockefeller |
Công ty mẹ
Những cuộc tấn công pháp lý chống Standard bắt đầu được nối lại từ các bang, với các vụ kiện chống độc quyền do bang Ohio và Texas khởi tố. Tại Kansas, thống đốc bang đưa ra kế hoạch xây dựng một nhà máy lọc dầu do bang sở hữu với công nhân làm việc tại đó là các phạm nhân đang cải tạo và công ty này sẽ cạnh tranh với Standard Oil. Có ít nhất bảy bang khác, cùng với vùng lãnh thổ Oklahoma, tiến hành các hành động pháp lý chống lại Standard ở dạng này hay dạng khác. Tuy nhiên, Standard chưa hề tỏ ra e ngại trước sự chống đối toàn diện của dân chúng đối với các hành vi kinh doanh của mình.
Năm 1888, trong một lá thư gửi cho Rockefeller, một lãnh đạo của Standard Oil viết: "Tôi cho rằng, cơn sốt chống tờ‑rớt này là sự loạn trí. Chúng ta nên nghiêm túc đối mặt với điều này và tránh mọi câu hỏi bằng những câu trả lời né tránh sự thật trong khi vẫn hết sức chân thực". Standard tiếp tục giữ bí mật tất cả kế hoạch của mình. Khi đứng trước tòa trong một vụ kiện mà bang Ohio là nguyên đơn, Rockefeller kín miệng đến nỗi, một tờ báo của New York đã giật tít: "John D. Rockefeller là một con hến". Để huy động mọi nguồn lực cần thiết cho cuộc chiến đang đến gần, Standard thuê một luật sư giỏi nhất và đắt giá nhất. Công ty này cũng tìm cách gây ảnh hưởng chính trị, đóng góp đúng lúc cho các hoạt động chính trị.
Khi đóng góp cho Đảng cộng hòa ở bang Ohio, Rockefeller viết: "Những người bạn của chúng tôi thật sự cảm thấy chúng tôi chưa nhận được sự đối xử bình đẳng từ Đảng Cộng hòa. Nhưng chúng tôi kỳ vọng những điều tốt đẹp hơn trong tương lai". Tuy nhiên, Standard Oil không dừng lại ở những khoản đóng góp như thế. Công ty ký hợp đồng thuê nghị sĩ Đảng Cộng hòa của bang Ohio làm luật sư cho mình khi cần, với mức phí riêng trong năm 1900 là 44.500 đô-la. Công ty còn cho một nghị sĩ rất có ảnh hưởng của Texas, được coi là "thủ lĩnh dân chủ ưu tú nhất tại Mỹ" vay tiền để thanh toán cho vụ mua lại một điền trang rộng 6.000 acre ở gần Dallas.
Ngoài ra, công ty quảng cáo mà Standard Oil thuê, trong quá trình mua lại vị trí quảng cáo trên các tờ báo, đã cho đăng những bài báo có nội dung liên quan đến Standard Oil. "Ngôi nhà cổ" cũng thành lập hoặc thôn tính "những con hổ mù", tức những công ty nhìn từ ngoài vào thì đúng là những nhà phân phối độc lập, nhưng sự thật thì không. Chẳng hạn, năm 1901, một công ty kinh doanh dầu lửa có tên Republic Oil được thành lập ở bang Missouri. Công ty này giương cao những lời quảng cáo như: "Không tờ-rớt", "Không độc quyền" và "Hoàn toàn độc lập". Tuy vậy, nó vẫn bí mật gửi báo cáo lên số 75 đường New Street ở New York, một cửa sau của số 26 đường Broadway.
Mặc dù một số bang đã giành được những chiến thắng tạm thời trước Standard, nhưng rốt cục không bang nào thành công trong các cuộc tấn công Standard. Ví dụ, sau khi các công ty con của Standard Oil bị trục xuất khỏi Texas và tài sản của họ bị chính phủ quản lý, tòa án đã tổ chức một buổi bán lại các tài sản này ở khách sạn Driskill tại Austin. Nhưng thực tế, họ bán lại những tài sản này cho người của Standard Oil. Mặc dù vậy, các cuộc tấn công pháp lý này cũng buộc Standard Oil phải có những thay đổi nhất định trong tổ chức của công ty. Năm 1892, theo quyết định của tòa án ở Ohio, tờ-rớt này bị giải thể và cổ phiếu của nó được chuyển giao cho 20 công ty. Tuy nhiên, quyền kiểm soát vẫn nằm trong tay những chủ sở hữu ban đầu. Các công ty này tập hợp lại với nhau thành "Những nhóm tư bản Standard Oil".
Trong tổ chức mới này, Ban Điều hành tại 26 Broadway được chuyển thành một cuộc gặp gỡ thân mật giữa các chủ tịch của các công ty thành viên khác nhau tạo thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Thư từ không còn được đề địa chỉ gửi tới Ban Điều hành nữa, mà chỉ là "các quý ngài tầng trên". Tuy nhiên, "các quý ông này" không lấy làm vui mừng với việc tổ chức lại tờ-rớt của họ thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Việc tiếp tục bảo vệ là cần thiết trong bối cảnh các áp lực vẫn tiếp diễn và để tạo cho công ty nền móng pháp lý vững chắc hơn. Họ tìm thấy giải pháp cho những vấn đề của mình ở New Jersey. Pháp luật của bang này đã được sửa đổi, cho phép việc thành lập các công ty mẹ –các công ty có thể sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp khác. Đây là một thay đổi có tính chất quyết định trong luật doanh nghiệp truyền thống ở nước Mỹ. New Jersey cũng nỗ lực trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn cho hình thức hợp nhất mới này.
Do đó, năm 1899, ban lãnh đạo của "Những nhóm tư bản Standard Oil" đã thành lập Standard Oil của New Jersey, một công ty mẹ cho toàn bộ hoạt động của họ. Giá trị vốn hóa của công ty này tăng từ 10 triệu đô-la lên 110 triệu đô-la và công ty nắm giữ cổ phần trong 41 công ty khác. Những công ty con này lại nắm quyền kiểm soát những công ty khác nữa, và những công ty bên dưới này còn tiếp tục quản lý những công ty nhỏ hơn. Trong suốt thời gian này, tại Standard Oil còn diễn ra một thay đổi lớn khác. Sau khi tích luỹ được một khối tài sản khổng lồ, John Rockefeller cảm thấy mệt mỏi và bắt đầu lên kế hoạch nghỉ hưu. Mặc dù Rockefeller mới 55 tuổi song những căng thẳng công việc liên tục và từ những cuộc tấn công nhằm vào ông và Standard Oil đã bắt đầu ảnh hưởng tới sức khỏe của ông. Từ sau năm 1890, Rockefeller thường phàn nàn về hệ tiêu hóa của mình. Ông nói rằng mình đang bị hành hạ và luôn đặt một khẩu súng lục cạnh giường khi đi ngủ.
Năm 1893, Rockefeller mắc chứng rụng tóc, một căn bệnh liên quan đến sự căng thẳng tâm lý, và phải đối phó với nó bằng mũ chỏm hay tóc giả. Kế hoạch nghỉ hưu của ông tạm thời bị trì hoãn do một loạt các cuộc khủng hoảng – thời kỳ Suy thoái nghiêm trọng của kinh tế Mỹ năm 1893 và tiếp đó là cuộc đại khủng hoảng, rồi cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, vai trò của Rockefeller cũng bắt đầu giảm dần và cuối cùng, năm 1897, khi chưa tới 60 tuổi, ông nghỉ hưu, chuyển giao quyền lãnh đạo John D. Archbold.
Người kế nhiệm: Nhân vật hăng hái trong ngành dầu lửa
Không ai nghi ngờ việc John Archbold kế nhiệm Rockefeller. Hơn bất kỳ nhà lãnh đạo cấp cao nào của Standard, ông là chuyên gia trong mọi lĩnh vực của ngành công nghiệp dầu lửa. Ông là một trong những nhân vật quyền lực nhất trong ngành dầu lửa tại Mỹ trong suốt hai thập kỷ trước đó. Và trong hai thập kỷ tiếp theo, có lẽ ông chính là nhân vật quyền lực nhất. Với dáng người thấp và vẻ bề ngoài trẻ hơn tuổi, Archbold là một người đầy ý chí và không biết đến mỏi mệt. Ông luôn hăng hái "đi tới cùng" và cống hiến hết mình cho những yêu cầu và tính đúng đắn của sự nghiệp mà ông theo đuổi.
Trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống năm 1860, khi còn là một cậu bé, ông đã đi bán những tấm huy hiệu in hình các ứng cử viên. Mặc dù anh trai ông bán tại một khu vực thuận lợi hơn, nhưng Archbold vẫn bán được nhiều huy hiệu hơn. Năm 15 tuổi, Archbold một mình lên chuyến tàu từ Salem, bang Ohio tìm kiếm vận may trong lĩnh vực dầu lửa ở Titusville. Ban đầu, ông làm thư ký cho một công ty vận tải biển với mức lương còm cõi đến nỗi ông phải ngủ trên một chiếc giường kê dưới quầy thu ngân ở văn phòng. Sau đó, Archbold trở thành nhà môi giới dầu lửa năng động và bị cuốn vào "sự hăng hái về dầu" trong suốt cuộc đời. Lòng nhiệt tình đó vô cùng cần thiết trong bối cảnh lộn xộn của Vùng đất dầu.
Một đối tác nhớ lại người môi giới dầu lửa trẻ tuổi này: "Khi đó, công việc hàng ngày của ông ấy thật vất vả. Trên những đường phố chính của Titusville luôn bao phủ một lớp bùn lẫn dầu dày khoảng 30 cm. Xung quanh những giếng dầu dọc theo Dòng sông Dầu, tình trạng cũng tương tự, thậm chí có lúc bùn còn lên đến ngang đùi. Nhưng John Archbold chẳng để ý đến điều đó. Ông vẫn cứ lội qua những con đường lầy lội đó, hát ngân nga khi sắp mua được dầu hoặc đang dự tính đến việc đó". Ngoài công việc, Archbold không có thú vui nào khác. Ông học cách sử dụng khiếu hài hước để giải tỏa những tình huống căng thẳng và điều này trở thành vũ khí lợi hại nhất của ông trong những cuộc tranh cãi và xung đột. Rất lâu sau, khi được hỏi có phải Standard Oil chỉ quan tâm đến những lợi ích của riêng mình hay không, ông trả lời khô khan: "Chúng tôi không phải lúc nào cũng là nhà từ thiện".
Ông cũng học được cách nhìn nhận các sự kiện, dù phức tạp đến đâu, theo chiều hướng phát triển. Ông biết cách khiến mình trở nên hữu ích với người khác – đặc biệt là John D. Rockefeller – và thể hiện cho họ thấy điều đó. Rockefeller sớm để mắt đến Archbold. Năm 1871, trong khi làm thủ tục đăng ký tại một khách sạn ở Titusville, Rockefeller đã nhìn thấy chữ ký của một nhà môi giới và lọc hóa dầu trẻ tuổi, với nội dung "John D. Archbold, 4 đô-la/thùng". Rất ấn tượng trước cách quảng cáo tự tin như vậy, vào một thời điểm mà người ta không thể mua dầu với mức giá gần con số này, Rockefeller đã ghi lại thông tin đặc biệt này. Là một nhà hoạt động, Archbold trở thành thư ký Sàn giao dịch dầu lửa Titusville.
Trong vụ Công ty South Improvement và Chiến tranh dầu lửa năm 1872, khi Rockefeller và các công ty đường ray tìm cách kiểm soát độc quyền sản lượng dầu lửa, ông nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của Vùng đất dầu, và tố cáo Rockefeller bằng những lời lẽ gay gắt nhất. Tuy nhiên, Rockefeller đã nhận ra một người nắm giữ những nguyên tắc cơ bản của Vùng đất dầu, một người cống hiến hết mình cho ngành công nghiệp dầu lửa, người vừa có thể hung hăng, tàn nhẫn, lại vừa có thể linh hoạt và có khả năng thích nghi. Điều này đã được chứng minh chắc chắn khi vào năm 1875, Rockefeller mời Archbold làm việc cho Standard và ông nhanh chóng nhận lời.
Nhiệm vụ đầu tiên của Archbold là bí mật mua lại tất cả các nhà máy lọc dầu dọc theo Dòng sông dầu. Ông nhận nhiệm vụ này với quyết tâm cao nhất. Chỉ trong vài tháng, ông đã mua hoặc thuê lại 50 nhà máy lọc dầu, và làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe suy sụp nghiêm trọng. Archbold nhanh chóng thăng tiến lên nấc thang lãnh đạo cao nhất của Standard Oil. Tuy nhiên, Archbold vẫn phải giải quyết một trở ngại lớn với Rockefeller, trở ngại mà ông gọi là "nhược điểm không may" của mình. Ông rất mê đồ uống có cồn, nhưng Rockefeller nhất quyết yêu cầu ông ký vào bản cam kết không uống rượu và phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Archbold đã làm điều mà Rockefeller muốn. Khi 50 tuổi, ông đã là một nhân vật kỳ cựu có thâm niên hơn ba thập kỷ trong ngành dầu lửa hoạt động. Đem thế mạnh và kinh nghiệm của mình vào vị trí mới, Archbold là nhân vật số một tại Standard. Mặc dù vẫn giữ liên lạc với trụ sở 26 Broadway, nhưng kể từ khi nghỉ hưu, Rockefeller dành toàn bộ thời gian cho các điền trang, làm từ thiện, chơi golf và quản lý khối tài sản ngày càng lớn của mình.
Trong khoảng thời gian từ năm 1893 tới năm 1901, Standard Oil đã trả cổ tức trị giá hơn 250 triệu đô-la. Phần lớn số tiền này thuộc về sáu người và Rockefeller giữ 1/4. Viết về núi tiền mà Standard bỏ ra này, một tác giả chuyên về các vấn đề tài chính nhận định, công ty này giống như "một ngân hàng thật sự của người khổng lồ vĩ đại nhất – một ngân hàng trong một cơ sở công nghiệp, cung cấp tài chính cho cơ sở đó trong cuộc cạnh tranh với mọi đối thủ". Sau khi ngừng tham gia điều hành công ty, sức khỏe Rockefeller đã hồi phục.
Năm 1909, bác sĩ dự đoán ông sẽ thọ tới 100 tuổi vì ông đã thực hiện ba nguyên tắc đơn giản: "Thứ nhất, tránh mọi lo lắng. Thứ hai, thường xuyên tập thể dục ở ngoài trời. Thứ ba, rời bàn ăn khi còn hơi đói". Rockefeller vẫn theo kịp diễn biến tình hình ở Standard, nhưng ông không tham gia quản lý công ty. Archbold cũng không cho ông làm điều đó. Archbold thường tới thăm Rockefeller vào các buổi sáng thứ bảy để thảo luận về hoạt động của Standard Oil. Rockefeller vẫn giữ danh hiệu chủ tịch công ty và điều này dẫn tới những đánh giá sai lầm về vai trò của Rockefeller trong thời kỳ này. Theo chính sách tuyệt đối bí mật của Standard, việc Rockefeller nghỉ hưu hoàn toàn được giữ kín, và như thế, Rockefeller vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với bất kỳ việc gì công ty này làm.
Bởi vậy, ông vẫn là trung tâm của mọi sự chỉ trích, mọi lời xúc phạm và mọi cuộc công kích. Vậy tại sao ông vẫn giữ danh hiệu chủ tịch? Có thể các cộng sự của ông nghĩ rằng cái tên Rockefeller khiến người ta phải nể sợ, là cần thiết để duy trì sự thống nhất của đế chế Standard. Cũng có thể đó là kết quả của lòng kính trọng mà Rockefeller được hưởng nhờ cổ phần mà ông nắm giữ trong công ty? Vài năm sau, một trong số những giám đốc cao cấp của công ty là H. H. Rogers đã đưa ra một lý do tương đối khác: "Chúng tôi nói với Rockefeller rằng ông ấy phải giữ danh hiệu này. Các vụ kiện chống lại chúng tôi vẫn đang treo ở tòa án. Và chúng tôi bảo ông ấy rằng, nếu bất cứ ai trong chúng tôi phải ra tòa, ông ấy sẽ phải đi cùng!"
![]() |
Gia đình Rockefeller |
"Sự kiện nóng bỏng"
Cuối thế kỷ XIX, cuộc tấn công nhằm vào Standard Oil ngày càng mạnh mẽ. Một tinh thần cải cách mới và mạnh mẽ là thuyết tiến bộ đang phát triển tại nước Mỹ. Những mục tiêu chính của thuyết này là cải cách chính trị, bảo vệ người tiêu dùng, thực hiện công bằng xã hội, cải thiện điều kiện làm việc, và kiểm soát cũng như điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp lớn. Mục tiêu sau cùng này đã trở thành một vấn đề cấp bách trong bối cảnh làn sóng hợp nhất lớn quét qua khắp nước Mỹ, với số lượng các tờ-rớt tăng lên nhanh chóng. Tờ-rớt đầu tiên tại quốc gia này là Standard Oil được thành lập năm 1882. Tuy nhiên, phong trào hợp nhất thật sự tăng tốc vào thập niên 1890.
Theo thống kê có 82 tờ-rớt với tổng giá trị vốn hóa là 1,2 tỷ đô-la được thành lập trước năm 1898. Từ năm 1898 đến năm 1904, có thêm 234 tờ-rớt được thành lập, với tổng giá trị vốn hóa hơn 6 tỷ đô-la. Theo quan điểm của một số người, tờ-rớt, hay sự độc quyền, chính là thành tựu lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Đối với những người khác, đây là sự đồi bại của một hệ thống đang đe dọa không chỉ giai cấp công nhân và nông dân, mà còn đe dọa cả tầng lớp trung lưu và giới doanh nhân, những người lo sợ bị tước đi các quyền lợi kinh tế.
Năm 1899, việc chống tờ-rớt được mô tả là "trận chiến lớn về đạo đức, xã hội và chính trị mà toàn bộ giới công đoàn phải đối mặt". Các tờ-rớt là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1900. Không lâu sau khi đắc cử, Tổng thống William McKinley nói với thư ký của ông rằng: "Vấn đề tờ-rớt phải được giải quyết sớm và nghiêm túc". Henry Demarest Lloyd, một trong số những người đầu tiên tham gia giải quyết vấn đề này, đã công kích quyết liệt Standard Oil bằng một cuốn sách có tựa đề Wealth again common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) xuất bản năm 1894.
Sau ông, một nhóm các nhà báo can đảm bắt đầu điều tra và công bố những hành vi mờ ám trong xã hội. Họ được gọi là "những người cào bùn" và trở thành trung tâm của phong trào tiến bộ. Một nhà sử học nhận định: "Thành tựu quan trọng cơ bản của thuyết tiến bộ ở Mỹ là việc vạch trần cái xấu". Tờ tạp chí khởi động cho toàn bộ chiến dịch cào bùn này có tên là McClure’s. Đây là một trong những ấn phẩm định kỳ hàng đầu ở Mỹ có số lượng phát hành lên tới hàng trăm nghìn bản. Chủ bút của McClure’s, Samuel McCluelà một người có tính khí thất thường, cởi mở và giàu trí tưởng tượng. Ông tập hợp được một đội ngũ phóng viên, biên tập viên tài năng về New York, và họ rất hăng hái tìm kiếm một đề tài lớn.
Năm 1899, trong bức thư gửi cho một trong số những người này, McClue viết: "Nhân vật lớn chính là các tờ-rớt. Đó sẽ là sự kiện nóng bỏng. Và tờ tạp chí có những bài viết về các giai đoạn khác nhau của chủ đề mà độc giả muốn biết này chắc chắn sẽ có lượng phát hành lớn". Các biên tập viên của tạp chí này quyết định tập trung vào một tờ‑rớt cụ thể để phản ánh quá trình hợp nhất. Nhưng sẽ là tờ-rớt nào? Họ bàn tới tờ-rớt Đường cũng như tờ-rớt Thịt bò, nhưng rồi lại gạt cả hai tờ-rớt này sang một bên.
Sau đó, một phóng viên đề xuất việc phát hiện dầu ở bang California nhưng thư ký tòa soạn Ida Tarbell không đồng ý. Bà nói: "Chúng ta phải vạch ra một kế hoạch tấn công mới. Trong đó, không chỉ cho thấy rõ tầm ảnh hưởng của các doanh nghiệp và sự phát triển thương mại cũng như những thay đổi mà họ tạo ra trên nhiều vùng khác nhau của đất nước, mà còn cho thấy rõ những nguyên tắc lớn mà các nhà lãnh đạo công nghiệp áp dụng để hợp nhất và kiểm soát những doanh nghiệp này".
"Bà bạn" của Rockefeller
Tại thời điểm đó, Ida Minerva Tarbell đã trở thành nữ nhà báo lớn đầu tiên của Mỹ. Người phụ nữ cao hơn 1,8 mét này có vẻ ngoài trang nghiêm và lạnh lùng đầy uy lực. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng Allegheny, bà tới Paris để viết tiểu sử của Roland, một nữ lãnh đạo của cuộc Cách mạng Pháp, người đã phải bước lên máy chém. Tarbell cống hiến tất cả cho sự nghiệp và không kết hôn, mặc dù về sau này, bà trở thành một người chủ trì các buổi lễ trong đời sống gia đình và phản đối việc phụ nữ đi bầu cử.
Đầu thế kỷ XX, ở tuổi 45, bà đã là một tác giả nổi tiếng với những cuốn tiểu sử rất thông dụng nhưng công phu về Napoleon và Lincoln. Phong cách và vẻ bề ngoài của Tarbell khiến bà trông có vẻ già trước tuổi. Một biên tập viên nữ của tờ McClue’s nhớ lại: "Một đặc điểm lớn của bà ấy là khiến mọi người cảm thấy khó gần. Đối với những người bình thường, có vẻ như bà ấy chẳng biết làm dáng chút nào". Sau khi McClue’s đã chắc chắn về chủ đề các tờ-rớt, Tarbell mới tính đến chuyện đảm trách nhiệm vụ điều tra của riêng bà. Mục tiêu của bà hiển nhiên là ông tổ của các tờ-rớt, John D. Rockefeller.
Được sự chấp thuận của ông chủ bút, bà bắt đầu một nghiên cứu mà rồi cuối cùng sẽ lật đổ Standard Oil. Cuộc đời luôn có những điều trớ trêu, và cuốn sách ra đời từ nghiên cứu của Tarbell sẽ là hành động báo thù cuối cùng của Vùng đất Dầu dành cho những kẻ chinh phục nơi này. Vì Ida Tarbell lớn lên trong những cộng đồng phát triển bùng nổ rồi lại vỡ tung của Vùng đất dầu. Cha của bà, Frank Tarbell, kinh doanh lĩnh vực sản xuất thùng chứa chỉ vài tháng sau khi Drake phát hiện ra dầu.
Trong thập niên 1880, ông làm ăn khá tốt và gây dựng được cơ ngơi tại thị trấn Pithole, nơi hoạt động khai thác dầu bùng nổ. Khi mỏ dầu đột ngột cạn và thị trấn nhỏ bé nhưng nhộn nhịp này tới hồi tiêu vong, ông bỏ 600 đô-la mua lại khách sạn hàng đầu trong thị trấn vừa mới được xây với giá 60.000 đô-la. Sau đó, ông phá khách sạn này và chất lên xe ngựa những cửa sổ kiểu Pháp, những cánh cửa đẹp, những bộ phận bằng gỗ và rầm thép, chở tới Titusville cách đó 10 dặm để xây một ngôi nhà mới xinh xắn cho gia đình.
![]() |
Ida Minerva Tarbell |
Thời thơ ấu của Ida Tarbell trôi qua trong ngôi nhà đó. (Sau này, bà đã nghĩ tới việc viết một câu chuyện về Pithole – "không có gì kịch tính bằng lịch sử dầu lửa của Pithole", bà nói.) Năm 1872, Frank Tarbell liên minh với các công ty sản xuất dầu lửa độc lập ở Vùng đất dầu chống lại South Improvement. Sau đó, cũng giống như nhiều người khác vùng đất này, công việc làm ăn của ông bị sự phát triển của Standard Oil chèn ép. Sau đó, anh trai của Ida Tarbell là William trở thành một trong những người đứng đầu Công ty Pure Oil và thành lập bộ phận phát triển thị trường tại Đức. Từ người cha và anh trai, Tarbell đã hiểu được tính bấp bênh của hoạt động kinh doanh dầu lửa, một công việc mà như William nói cũng giống như "đánh bạc".
Năm 1896, ông viết: "Tôi thường ước mình được làm trong một công ty khác, và nếu tôi làm cho công ty đó trở nên giàu có, tôi sẽ giữ vững sự giàu có đó". Tarbell vẫn nhớ những gian nguy và khó khăn tài chính mà cha bà phải trải qua – ngôi nhà bị đem cầm cố, cảm giác về sự thất bại, cảnh đơn thương độc mã rõ ràng trong cuộc chiến chống lại Con bạch tuộc, nỗi cay đắng và sự chia rẽ giữa những người thỏa thuận với Standard Oil và những ai không chịu làm như vậy. "Đừng làm việc đó, Ida", người cha già của Tarbell khẩn khoản nói với con gái khi biết bà đang điều tra về Standard Oil cho McClue’s. "Họ sẽ hủy diệt tờ báo đấy".
Một buổi tối, trong bữa tiệc do Alexander Graham Bell tổ chức ở Washington, vị phó chủ tịch của một ngân hàng liên kết với Rockefeller đưa Tarbell đi cùng. Có vẻ như ông này đang lịch sự đe dọa về chính điều mà cha Tarbell cảnh báo trước đó khi đưa ra câu hỏi về tình hình tài chính của tờ McClue’s. Tarbell sẽ không dừng lại. Là một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi và luôn suy nghĩ thấu đáo, bà trở thành một thám tử say mê và bị cuốn hút vào vụ việc của mình, với niềm tin mình sẽ có được một câu chuyện tuyệt vời. Người trợ lý Tarbell cử xuống những khu phố nhỏ ở Cleveland tìm gặp những người có trí nhớ tốt đã viết về cho bà: "Tôi muốn nói với bà điều này, John D. Rockefeller là nhân vật kỳ lạ nhất, kín miệng nhất, bí hiểm nhất và thú vị nhất ở Mỹ. Người dân vùng này không biết gì về ông ta cả. Một nghiên cứu về nhân vật khác thường này sẽ là con át chủ bài cho McClue’s". Và Tarbell muốn chơi con bài đó. Nhưng làm thế nào Tarbell tiếp cận trực tiếp được Standard?
Một người mà Tarbell không ngờ tới đã hỗ trợ bà − đó là H. H. Rogers. Sau John Archbold, Rogers là giám đốc thâm niên lâu nhất và quyền lực nhất của Standard Oil, đồng thời cũng là một nhà đầu cơ độc lập xuất chúng. Ông phụ trách lĩnh vực đường ống và khí tự nhiên của Standard. Tuy nhiên, Rogers không chỉ quan tâm đến kinh doanh. Ông còn có đóng góp đáng kể cho nền văn học Mỹ. Trước đó một thập kỷ, ông từng giúp Mark Twain thoát khỏi khó khăn tài chính suýt dẫn tới vỡ nợ. Sau đó, ông trở thành bạn thân của Mark Twain, quản lý tài sản và đầu tư tiền cho Mark Twain để nhà văn nổi tiếng này, như lời ông nói, "không còn phải lo lắng về tài chính nữa". Rogers yêu thích các tác phẩm của Mark Twain và thường đọc chúng cho vợ con nghe. Tuy nhiên, trong kinh doanh, Rogers là một người rất cứng rắn và lạnh lùng.
Trong cuốn Who’s Who (Ai là ai), ông tự liệt mình vào hàng "tư bản". Những người khác gọi ông là "Rogers, kẻ đê tiện" vì những vụ đầu cơ vào phố Wall của ông. Rogers cho rằng Rockefeller không ủng hộ ông vì, theo như ông nói, ông là "một con bạc bẩm sinh". Và quả thực, mỗi khi thị trường chứng khoán đóng cửa vào cuối tuần, không có việc gì để làm, Rogers lại chơi bài poker. Chính Mark Twain đề nghị Rogers hỗ trợ chi phí học tập cho Helen Keller, một cô gái bị mù và điếc, để cô có thể tới Radcliffe. Bản thân Mark Twain luôn biết ơn Rogers, và gọi Rogers không chỉ là "người bạn tốt nhất mà tôi từng có", mà còn là "người tốt nhất tôi từng biết". Trớ trêu thay, trong thời kỳ làm nghề xuất bản sách, Mark Twain từng được đề nghị xuất bản cuốn sách Wealth against common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) của Demarest Lloyd.
Trong lá thư gửi vợ, ông viết: "Anh muốn nói rằng, người đàn ông duy nhất mà anh quan tâm trên thế giới này, người đàn ông duy nhất đã hào phóng đổ cả mồ hôi và máu của mình để cứu anh và người thân của anh khỏi chết đói và sự hổ thẹn, lại là một con quỷ của Standard Oil… Nhưng anh đã không nói như vậy. Anh chỉ nói rằng anh không muốn làm bất kỳ cuốn sách nào nữa; anh muốn từ bỏ việc xuất bản sách". Mark Twain tùy thích ra vào văn phòng của Rogers tại số 26 Broadway và thỉnh thoảng, ông còn dùng bữa trưa với "các quý ông tầng trên" trong phòng ăn riêng của họ.
Một ngày nọ, Rogers đề cập đến chuyện ông có nghe về việc McClue’s đang chuẩn bị xuất bản một cuốn sách về Standard Oil và đề nghị Mark Twain tìm hiểu thực hư việc đó ra sao. Vì cũng quen biết với McClue, Mark Twain đã nhận lời. Cuối cùng, Mark Twain sắp xếp cho Ida Tarbell gặp Rogers vào tháng 1 năm 1902. Tarbell cảm thấy e dè khi phải đối mặt trực tiếp với ông trùm quyền lực của Standard Oil. Tuy nhiên, Rogers đã dành cho bà sự tiếp đón nồng hậu. Ngay lập tức, Tarbell khẳng định, "trên mọi phương diện" Rogers chính là "nhân vật đẹp trai nhất và đạo mạo nhất ở phố Wall". Họ nhanh chóng thiết lập một mối quan hệ đặc biệt, vì hóa ra, khi Tarbell còn nhỏ, hai người không chỉ sống cùng thị trấn tại Vùng đất dầu, mà nhà máy lọc dầu nhỏ của Rogers khi đó còn nằm ở triền đồi ngay bên dưới nhà Tarbell.
Rogers kể với Tarbell rằng, hồi ấy ông sống trong một ngôi nhà thuê, mà vào thời điểm đó, việc thuê nhà để ở đồng nghĩa với "sự thú nhận thất bại trong làm ăn" để có thể có thêm tiền mua cổ phiếu của Standard Oil. Rogers nói ông vẫn còn nhớ rõ về cha Tarbell và tấm biển "Cửa hàng thùng Tarbell". Ông còn nói đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất của ông. Có thể Rogers đã thể hiện cảm xúc chân thành song cũng có thể ông là một nhà tâm lý giỏi. Ông mê hoặc được Ida Tarbell. Nhiều năm sau, Tarbell vẫn thân mật gọi ông là "tên cướp biển đẹp trai với lá cờ mãi tung bay trên phố Wall".
Hai năm sau đó, Tarbell và Rogers thường xuyên gặp gỡ. Bà thường được đưa vào gặp ông qua một cửa và đi ra bằng một cửa khác, vì chính sách của công ty là cấm khách tới thăm chạm mặt nhau. Thỉnh thoảng, Tarbell thậm chí còn được sắp xếp một bàn làm việc ở số 26 Broadway. Bà vẫn đem các hồ sơ tới cho Rogers và ông lại cung cấp cho bà các tài liệu, số liệu, những điều chỉnh và giải thích. Rogers tỏ ra thật thà với Tarbell tới mức đáng ngạc nhiên.
Chẳng hạn, vào một ngày mùa đông, Tarbell mạnh dạn hỏi ông, Standard đã "thao túng pháp luật" bằng cách nào. "Ồ, dĩ nhiên là chúng tôi phải chăm sóc các cơ quan pháp luật rồi!" ông trả lời. "Họ tới đây và đề nghị chúng tôi đóng góp vào các quỹ phục vụ chiến dịch bầu cử của họ. Và chúng tôi làm điều này – Đó là, với tư cách cá nhân… chúng tôi cho tay vào túi và đưa cho họ vài món tiền lớn cho mục đích vận động tranh cử, rồi đến khi một đạo luật chống lại lợi ích của chúng tôi sắp ra đời, chúng tôi tới gặp nhà quản lý và nói: "Có một đạo luật như thế, như thế sắp sửa được ban hành đấy. Chúng tôi không thích thế và muốn ông quan tâm đến lợi ích của chúng tôi". Đó là cách mà mọi người vẫn làm".
Tại sao Rogers lại sẵn lòng giúp đỡ Tarbell như vậy? Một vài người cho rằng, đó là cách ông trả thù Rockefeller, người có mối quan hệ bất hòa với ông. Bản thân Rogers lại có cách giải thích thực tế hơn. Ông nói, tác phẩm của Tarbell "sẽ được coi là tác phẩm cuối cùng về Standard Oil," và dù thế nào Tarbell cũng sẽ viết tác phẩm này nên ông muốn làm mọi thứ có thể để câu chuyện về công ty được "hiểu đúng". Thậm chí, Rogers còn sắp xếp cho Tarbell gặp Henry Flagler, người đang chìm đắm trong hoạt động khai thác dầu quy mô lớn do chính ông làm chủ tại Florida. Tarbell phát cáu khi Flagler chỉ nói với giọng đạo đức giả rằng: "Chúng tôi giàu lên được là nhờ Chúa". Rogers cũng nói chung chung rằng ông có thể sẽ sắp xếp một cuộc phỏng vấn với Rockefeller, nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra. Rogers cũng không giải thích nguyên nhân.
Tarbell nói với một đồng nghiệp rằng, mục tiêu của bà là viết được "một câu chuyện lịch sử về Standard Oil". Bà "không có dự định" viết một câu chuyện "gây tranh cãi, mà là một bản tường thuật đi thẳng vào công ty độc quyền khổng lồ này, với sự sinh động và kịch tính mà tôi có thể tạo ra". Tự hào về những thành tựu của bản thân cũng như về công ty của mình, chắc hẳn Rogers cũng có cảm tưởng như vậy. Cho dù dự định ban đầu của Tarbell là gì đi nữa, thì loạt bài viết bắt đầu xuất hiện trên tờ McClue’s vào tháng 11 năm 1902 thực sự là một quả bom tấn.
Tháng này sang tháng khác, bà tung ra câu chuyện về những mưu đồ và hành vi thao túng, về việc hạ giá và sự cạnh tranh tàn bạo, về một Standard chỉ mỗi một ý đồ duy nhất và cuộc chiến bất tận mà công ty này giáng xuống đầu những công ty độc lập vốn đã mang đầy thương tích. Những bài báo này trở thành chủ đề bàn luận trên khắp cả nước và mở ra cánh cửa cho những nhà cung cấp tin tức mới. Sau một vài tháng đầu, Tarbell trở về Titusville thăm gia đình. Bà nói: "Thật thú vị khi thấy mọi việc đang diễn ra tốt đẹp và con vẫn chưa bị bắt cóc hay kiện ra tòa vì tội phỉ báng như một vài người bạn dự đoán. Mọi người sẵn sàng nói chuyện thoải mái với con". Ngay cả Rogers, bất chấp tất cả, vẫn dành cho Tarbell sự tiếp đón thân mật.
Nhưng sau đó, khi bà công bố một bài viết tiết lộ thông tin về cách thức hoạt động của hệ thống tình báo của Standard Oil thì Rogers nổi giận. Ông cắt đứt quan hệ và từ chối gặp bà. Tarbell vẫn không hề hối hận về những gì đã viết. Sau này, bà có nói, chính "sự sáng tỏ của những hoạt động gián điệp này… khiến tôi căm ghét Standard". Vì "có một sự đê hèn dường như vô cùng đáng khinh bỉ khi đem so sánh với những tài năng lớn gia nhập tổ chức này. Không một điều gì khác về Standard lại khiến tôi có cảm giác như vậy". Và chính cảm giác đó tạo cho các bài viết vạch trần những hành vi của Standard của Tarbell sức công phá mạnh mẽ.
Loạt bài của Tarbell được đăng liên tục trong 24 tháng và sau đó, vào tháng 11 năm 1904, được xuất bản thành một cuốn sách có tựa đề The History of Standard Oil Company (Lịch sử Công ty Standard Oil), với 64 phụ lục. Tác phẩm này có nội dung rất rõ ràng và có sức thuyết phục lớn. Tuy nhiên, ẩn dưới một văn phong được kiềm chế chính là sự giận dữ mãnh liệt và lời buộc tội sâu sắc đối với Rockefeller và những hành vi tàn bạo của tờ-rớt này.
Theo Tarbell, mặc dù có nhiều cống hiến thể hiện rõ những nguyên tắc xử thế của người Cơ đốc giáo, Rockefeller vẫn là một nhân vật tàn bạo, phi nhân tính. Bà viết: "Rockefeller đã chơi có hệ thống bằng một con xúc xắc gài bẫy, và từ năm 1872 chưa lần nào ông ta xuất phát công bằng trong cuộc đua với một đối thủ". Việc xuất bản cuốn sách của Ida Tarbell là một sự kiện lớn. Một nhà báo miêu tả cuốn sách lịch sử này là "tác phẩm xuất sắc nhất nước Mỹ về đề tài này". Samuel McClue nói với Tarbell: "Nói chung, bây giờ bà đã là người phụ nữ nổi tiếng ở Mỹ rồi… Đâu đâu người ta cũng nói về bà với sự sùng kính đến nỗi tôi đang cảm thấy e sợ bà đấy". Sau đó, từ châu Âu, McClue cho hay, thậm chí ngay cả những tờ báo ở đại lục này cũng "liên tục nhắc đến tác phẩm của bà".
Mãi tới thập niên 1950, các nhà sử học nghiên cứu về Standard Oil, những người vốn có thái độ không mấy thân thiện với cuốn sách của Tarbell, mới tuyên bố: "có lẽ cuốn sách này được nhiều người mua và nội dung của nó phổ biến rộng rãi trong công chúng hơn bất kỳ tác phẩm nào về lịch sử kinh tế và kinh doanh của nước Mỹ". Rõ ràng, đây là cuốn sách có ảnh hưởng nhất về chủ đề kinh doanh từng được xuất bản ở Mỹ. Tarbell giải thích: "Tôi không bao giờ phản đối quy mô và sự thịnh vượng của Standard, cũng như không bao giờ phản đối hình thức doanh nghiệp của họ. Tôi cũng cho rằng họ nên hợp nhất, phát triển lớn mạnh và giàu có ở mức họ có thể, nhưng chỉ bằng những cách thức hợp pháp. Tuy nhiên, họ chưa bao giờ chơi công bằng và điều đó đã hủy hoại sự vĩ đại của họ trong tôi". Tuy vậy, Ida Tarbell vẫn chưa thỏa mãn.
Năm 1905, bà tiếp tục theo đuổi đề tài này bằng cuộc tấn công cuối cùng – dựng lên một bức chân dung của Rockefeller. Người viết tiểu sử của Tarbell viết: "Bà phát hiện ông ta bị rụng tóc, có những cục u và là con trai của một người buôn dầu lửa xảo quyệt". Quả thực, Tarbell đã lấy hình dáng bên ngoài, bao gồm cả chứng rụng tóc do sức khỏe kém gây ra của Rockefeller để mô tả sự xuống cấp về đạo đức trong con người ông. Có lẽ, đó là sự báo thù cuối cùng của một người con gái thật sự của Vùng đất dầu. Vì khi Tarbell đang hoàn thành bài báo cuối cùng, cha bà, một nhà kinh doanh dầu lửa độc lập từng chống lại Rockefeller và bị đánh bại, qua đời ở Titusville.
Ngay khi kết thúc bài báo, bà vội vã trở về nhà, đến bên giường người cha quá cố. Vậy Rockefeller phản ứng thế nào? Khi những bài báo của Tarbell được xuất bản, một người hàng xóm già ghé thăm ông trùm dầu lửa đã đề cập tới nhân vật mà ông gọi là "bà bạn" của Rockefeller – Ida Tarbell. Rockefeller trả lời: "Tôi nói cho ông biết nhé, mọi thứ đã thay đổi kể từ khi ông và tôi còn là những đứa trẻ. Thế giới đầy những người xã hội chủ nghĩa và những người theo chủ trương vô chính phủ. Bất kỳ ai có được thành công lớn trong một lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ bị họ nhảy bổ vào chê bai".
Sau đó, người hàng xóm trên đã gọi quan điểm của Rockefeller là quan điểm "của một chiến binh trong trận chiến, biết rằng thỉnh thoảng mình sẽ bị đánh vào đầu. Ông ấy không phải là người ít chịu đau đớn nhất vì bất kỳ đòn tấn công nào. Ông ấy vẫn cho rằng Standard làm được nhiều việc tốt hơn là những việc xấu". Vào dịp khác, có người tình cờ nghe thấy Rockefeller nói về "bà bạn" với cái tên thân mật – "Cô Thùng nhựa đường".
Bom phá tờ-rớt
Tarbell hoàn toàn không phải là một người xã hội chủ nghĩa. Nếu có một cương lĩnh cho cuộc tấn công của bà vào Standard Oil thì đó chính là lời kêu gọi tìm kiếm một lực lượng đối kháng để chống lại sức mạnh của doanh nghiệp này. Đối với Theodore Roosevelt, người trở thành Tổng thống Mỹ năm 1901, lực lượng đối kháng này chỉ có thể là Chính phủ. Theodore Roosevelt là hiện thân của phong trào tiến bộ. Ông là Tổng thống Mỹ trẻ tuổi nhất tính đến thời điểm đó, một con người luôn tràn đầy sinh lực và lòng nhiệt tình. Người ta gọi ông là "ngôi sao băng của thời đại". Sau cuộc gặp gỡ với Roosevelt, một nhà báo viết: "Anh hãy bộc lộ cá tính của mình".
Roosevelt theo đuổi sự nghiệp cải cách trên mọi phương diện, từ việc làm trung gian cho cuộc chiến tranh Nga – Nhật tới việc thúc đẩy cách viết chính tả đơn giản. Với việc thứ nhất, ông được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1906. Còn với việc thứ hai, cũng trong năm 1906, ông vận động Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ thích nghi với 300 cách viết giản tiện của những từ quen thuộc – ví dụ, viết "dropt" thay vì viết "dropped". Tòa án tối cao không chấp nhận những cách viết như vậy trong các văn bản luật, nhưng Roosevelt vẫn kiên quyết sử dụng cách viết này trong thư từ cá nhân của ông.
Chính Roosevelt là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "người cào bùn" để chỉ các nhà báo và phong trào tiến bộ. Ông dùng từ này với nghĩa chế giễu vì cho rằng, những cuộc tấn công của họ vào các chính trị gia và các công ty là quá tiêu cực và quá tập trung vào "mặt xấu xa và việc hạ thấp" những đối tượng đó. Ông lo ngại những bài viết của các nhà báo này sẽ làm bùng lên ngọn lửa cách mạng và cuốn mọi người vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa vô chính phủ. Tuy nhiên, ông đã sớm lấy chương trình hành động của họ làm chương trình của mình – bao gồm việc chỉnh đốn các công ty đường sắt và ngành công nghiệp đóng gói thịt đang trong tình trạng khủng khiếp, cũng như bảo vệ các nhà sản xuất thực phẩm và dược phẩm.
Trọng tâm trong chương trình của Roosevelt là kiểm soát sức mạnh của các doanh nghiệp và mục tiêu này khiến ông có biệt danh là "Bom phá tờ-rớt". Ông không phản đối bản thân các tờ-rớt. Thực tế, ông coi việc hợp nhất là đặc điểm tất yếu và logic của sự tiến bộ kinh tế. Roosevelt từng cho rằng, việc dùng pháp luật để chống lại xu thế hợp nhất khó hơn cả việc chống đỡ những trận lụt vào mùa xuân trên sông Missisippi. Tuy nhiên, vị tổng thống này cũng nói: "Chúng ta có thể điều chỉnh và kiểm soát chúng bằng những con đê," có nghĩa là, bằng các quy định và giám sát của dư luận. Theo ông, việc cải cách như vậy rất quan trọng để tránh chủ nghĩa cấp tiến và cách mạng và duy trì hệ thống hiện tại của nước Mỹ. Roosevelt có sự phân biệt giữa tờ-rớt "tốt" và tờ-rớt "xấu", và chỉ những tờ-rớt "xấu" mới đáng bị giải thể. Trong sự nghiệp này, ông không bao giờ chịu dừng lại. Dưới thời Roosevelt có ít nhất 45 vụ kiện chống độc quyền.
Những trận chiến tiếp theo chĩa mũi nhọn chính vào, ông tổ của các tờ-rớt - Standard Oil. Công ty của Rockefeller trở thành con rồng mà hiệp sĩ dũng mãnh Roosevelt thích tấn công vì không có đối thủ nào tuyệt vời hơn cho trận đấu. Mặc dù vậy, Roosevelt vẫn tìm kiếm sự ủng hộ của khu vực doanh nghiệp lớn trong chiến dịch bầu cử của ông năm 1904, và ban lãnh đạo của Standard Oil đã cố gắng chìa tay ra với ông. Khi một nghị sĩ có quan hệ thân thiện với Standard Oil, đồng thời cũng là chủ tịch một công ty con của Standard, cho Archbold biết, Roosevelt nghĩ rằng công ty của Rockefeller đối lập với ông, Archbold đã trả lời: "Tôi luôn ngưỡng mộ ngài tổng thống và đã đọc mọi cuốn sách ông ấy viết." Vị nghị sĩ này có một ý tưởng rất hay.
Một tác giả là tổng thống, đặc biệt là một người sáng tác nhiều như Roosevelt, chắc chắn sẽ là đối tượng của những lời tâng bốc. Ông truyền đạt những lời nói trên của Archbold tới tổng thống và sử dụng cách mào đầu đó để sắp xếp một cuộc gặp gỡ. Đắc thắng, nghị sĩ này viết thư cho Archbold, nói: "Lĩnh vực sách" đã đem lại thành công trong trò chơi ngay từ phát bắn đầu tiên". Nhưng ông này cũng cảnh báo: "Ít nhất, ông nên đọc tựa đề của các cuốn sách đó để nhớ lại nội dung của chúng trước khi tiến hành bước tiếp theo". Sự tâng bốc có thể đưa Archbold tới được cánh cửa trước, nhưng không thể giúp ông tiến xa thêm.
Một vài năm sau, ông giận dữ nói: "Vùng Abyssinia (tên cũ của Ethiopia) cũng chưa từng chứng kiến bất kỳ điều gì giống như cách chính phủ đối xử với chúng tôi sau khi Roosevelt thắng cử năm 1904". Trước ngày bầu cử, Đảng Dân chủ đã đem chuyện những doanh nghiệp lớn đóng góp cho chiến dịch tranh cử của phe Cộng hòa, bao gồm 100 nghìn đô-la của Archbold và H. H. Rogers trở thành một chủ đề gây tranh cãi lớn. Roosevelt liền ra lệnh trả lại số tiền 100 ngàn đô-la kia và ngay sau đó, đột nhiên công khai hứa với mọi người Mỹ điều đã trở thành khẩu hiệu của ông, một "thỏa thuận sòng phẳng".
Liệu số tiền trên có thật sự được trả lại hay không là một vấn đề khác. Bộ trưởng Tư pháp Philander Knox kể với William Howard Taft[4], người kế nhiệm Roosevelt rằng, khi ông bước vào văn phòng Roosevelt vào tháng 10 năm 1904, ông nghe thấy tổng thống đang đọc cho thư ký viết một bức thư chỉ đạo việc trả lại số tiền 100 nghìn đô-la cho Standard Oil. "Tại sao vậy, thưa Tổng thống, số tiền đó đã bị tiêu hết rồi. Họ không thể trả lại số tiền đó được, họ không có số tiền đó". Knox nói. Roosevelt trả lời: "Ồ, nhưng dù sao, lá thư này cũng sẽ được lịch sử ghi nhận".
Ngay sau khi Roosevelt trúng cử năm 1904, chính quyền của vị tổng thống này mở một cuộc điều tra Standard Oil và ngành công nghiệp dầu lửa. Kết quả là một bản chỉ trích gay gắt việc tờ-rớt này kiểm soát lĩnh vực vận tải, được thổi phồng thêm bởi những lời tố cáo Standard của chính Roosevelt. Áp lực bất lợi cho Standard ngày càng tăng đến mức Archbold và H. H. Rogers phải vội vã tới Washington vào tháng 3 năm 1906 để gặp Roosevelt và xin tổng thống không cho tiến hành kiện Standard.
Sau cuộc gặp với Roosevelt, Archbold viết thư gửi cho một giám đốc khác của Standard là Henry Flagler, nói rằng: "Chúng tôi nói với ông ấy rằng chúng ta đã bị điều tra đi điều tra lại rồi, báo cáo đi báo cáo lại rồi. Nhưng chúng ta có thể chịu đựng được điều đó. Ông ấy kiên nhẫn lắng nghe tất cả những gì chúng tôi nói và tôi nghĩ là ông ấy cũng khá bị ấn tượng…. Không thể nào buổi làm việc với tổng thống lại không có kết quả tốt đẹp".
Vụ kiện
Archbold đang lừa dối bản thân và đồng nghiệp. Vì vào tháng 11 năm 1906, điều phải đến cuối cùng đã đến: Tại tòa án lưu động liên bang ở St. Louis, chính quyền Roosevelt đã tiến hành vụ kiện chống Standard Oil. Theo Đạo luật Chống độc quyền Sherman năm 1890, Standard bị buộc tội có âm mưu cản trở thương mại. Trong thời gian diễn ra vụ kiện này, Roosevelt thổi bùng ngọn lửa căm hận trong dư luận.
Tổng thống công khai tuyên bố: "Trong sáu năm qua, những con người này không hề trung thực trong kinh doanh". Ông còn nói riêng với Bộ trưởng Tư pháp rằng, các giám đốc của Standard là "những tên tội phạm lớn nhất của đất nước này". Bộ Chiến tranh (tên gọi cũ của Bộ Quốc phòng) thông báo sẽ ngừng mua các sản phẩm dầu của Standard Oil. Không muốn bị qua mặt, ứng cử viên lâu năm cho chức tổng thống của phe Dân chủ, William Jennings Bryan, cũng tuyên bố rằng điều tốt đẹp nhất có thể xảy ra cho nước Mỹ là việc đưa Rockefeller ra tòa. Standard Oil nhận ra rằng mình đang ở trong một cuộc chiến một mất một còn. Cục diện đã thay đổi và giờ đây, Chính phủ Mỹ đang đưa Standard vào tình huống "toát mồ hôi hột".
Một lãnh đạo của Standard viết cho Rockefeller: "Chính phủ đã bắt đầu một chiến dịch có tính toán nhằm hủy diệt Standard và tất cả những người có dính líu đến tờ-rớt này, cũng như sử dụng mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu đó". Để phòng vệ, Standard huy động những luật sư tài năng nhất. Đứng đầu vụ kiện của Chính phủ Mỹ là luật sư Frank Kellogg, người 20 năm sau trở thành Ngoại trưởng Mỹ. Trong hơn 2 năm, 444 nhân chứng đã cung cấp lời khai và 1.371 vật chứng được đưa ra trước tòa. Hồ sơ đầy đủ của vụ kiện này dày tới 14.495 trang và được đóng thành 21 tập. Sau này, thẩm phán Tòa án tối cao đã miêu tả bộ hồ sơ này là "quá đồ sộ… chứa đựng một khối lượng lớn những lời khai trái ngược nhau có liên quan đến những giao dịch đa dạng, phức tạp, trải rộng trong một thời kỳ dài gần 40 năm".
Trong khi đó, các vụ kiện khác chống lại Standard cũng đang diễn ra. Thỉnh thoảng, Archbold lại cố gắng không chú ý tới cuộc tấn công ác liệt từ phía tòa án và chính quyền đó. Trong một bữa tiệc lớn có đông người tham gia, ông phát biểu: "Suốt gần 44 năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, tôi đã tham gia một nỗ lực có phần khó khăn để cản trở hoạt động thương mại của dầu lửa và các sản phẩm từ dầu, tại nước Mỹ, tại quận Columbia, và ở nước ngoài. Lời thú nhận tôi đưa ra với các bạn là một thông tin mật, và tôi tin chắc các bạn sẽ không giao tôi cho chính phủ". Tuy nhiên, dù có đùa tếu như vậy, Archbold và các đồng nghiệp vẫn vô cùng lo lắng.
Năm 1907, ông bí mật viết: "Chính quyền liên bang đang nỗ lực hết sức để chống lại chúng tôi. Tổng thống đã chỉ định các quan tòa, đồng thời cũng là ban hội thẩm xử những vụ kiện công ty này… Tôi không cho rằng họ có thể ăn thịt chúng tôi, cho dù họ có thể thành công trong việc xúi bẩy dân chúng thực hiện việc phá hoại. Chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để bảo vệ các cổ đông. Còn xa hơn nữa thì cả tôi hay bất kỳ ai cũng chưa thể nói được điều gì". Cùng năm đó, trong một vụ kiện khác, Kenesaw Mountain Landis, một quan tòa liên bang đã phạt Standard Oil một khoản tiền lớn vì nhận những khoản chiết khấu trái pháp luật. Quan tòa này cũng lên án "thái độ xấc xược cố ý" của các luật sư bào chữa cho Standard Oil và lấy làm tiếc vì "chưa có sự trừng phạt đích đáng".
Khi Rockefeller đang chơi golf với vài người bạn ở Cleveland thì một cậu bé đưa tin xuất hiện, mang theo quyết định của tòa án. Rockefeller xé chiếc phong bì, đọc nội dung bên trong, rồi bỏ vào trong ví. Sau đó, ông cất lời, phá vỡ sự im lặng: "Ồ, các bạn, chúng ta tiếp tục chứ?" Một người có mặt khi đó không kiềm chế được và hỏi ông phán quyết đó ở mức độ nào. Rockefeller trả lời: "Tôi nghĩ không thể có hình phạt nào cao hơn được nữa – 29 triệu đô-la". Sau đó, ông nghĩ lại và nói thêm: "Còn rất lâu sau khi quan tòa Landis chết, khoản tiền phạt này mới được nộp". Rockefeller chỉ buông mấy lời như vậy rồi lại tiếp tục đánh golf, với thái độ dường như bình thản, và chơi một trong những trận golf hay nhất trong đời. Quả thực, phán quyết của Landis cuối cùng đã bị đảo lộn.
Nhưng sau đó, năm 1909, trong một vụ kiện chống độc quyền lớn, tòa án liên bang, với sự ủng hộ của chính phủ, đã ra lệnh giải thể Standard Oil. Lúc này, Theodore Roosevelt không có mặt tại Văn phòng tổng thống và đang trên đường trở về sau một chuyến đi săn thú lớn ở châu Phi. Ông nghe được tin này khi đang ở trên sông Nile Trắng và rất đắc chí. Ông nói, quyết định này "là một trong những chiến thắng nổi bật nhất dành cho sự khuôn phép từng thiết lập được trên đất nước này". Về phần mình, Standard Oil không bỏ phí thời gian kháng cáo lên Tòa án tối cao. Vụ kiện này được xử lại ở Tòa án tối cao tới hai lần do hai thẩm phán qua đời. Cả ngành công nghiệp dầu lửa và giới tài chính cùng bồn chồn chờ đợi kết quả vụ kiện.
Cuối cùng, vào tháng 5 năm 1911, cuối một buổi chiều hết sức buồn tẻ, Thẩm phán Edward White tuyên bố: "Tôi tuyên bố quan điểm của Tòa án tối cao, nước Mỹ phản đối Công ty Standard Oil". Những con người trong bầu không khí nóng bức, ngột ngạt và ảm đạm của phòng xử án đột nhiên bừng tỉnh và căng tai lắng nghe. Rồi các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ lao vào phòng. Trong 45 phút sau đó, Thẩm phán White phát biểu, nhưng ông nói khó nghe đến nỗi vị thẩm phán ngay bên trái ông nhiều lần phải ngả người về phía trước và đề nghị ông nói to hơn để mọi người có thể nghe thấy những từ ngữ quan trọng.
Thẩm phán White giới thiệu một nguyên tắc mới, trong đó việc đánh giá của cơ quan pháp luật về hành vi hạn chế thương mại theo đạo luật Sherman sẽ dựa trên phương pháp phán xét trên cơ sở giải trình

Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
“Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là nhan đề bài viết của PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc - nguyên Viện truởng Viện Lịch Sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng là: "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "để đi tới xã hội cộng sản". Đó cũng chính là sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tộc từ đó tới nay và là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn bảo đảm cho cách mạng và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và có được cơ đồ như ngày nay.
![]() |
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. (Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). |
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, Đảng Cộng sản cầm quyền có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Kháng chiến chống xâm lược để giành lấy độc lập, thống nhất hoàn toàn với chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sự nghiệp đấu tranh kiên cường đó kéo dài 30 năm mới đến ngày toàn thắng 30/4/1975. Công cuộc kiến quốc đồng thời diễn ra để tạo dựng một xã hội mới tốt đẹp, vì ấm no, hạnh phúc của đồng bào, đất nước giàu mạnh, với khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng từ sau Cách mạng tháng Tám đã gần 80 năm. Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa, phong kiến nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá.
Nhớ lại thời miền Bắc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, vốn liếng chỉ có 3 sào ruộng một đầu người (hơn 1.000 m2) với mấy mỏ than ở Quảng Ninh. "Năm hai mùa chua mặn. Gian nan. Hai tay trắng với giang sơn một nửa" (Tố Hữu). Vậy mà miền Bắc đã vươn mình, mạnh mẽ từ đường lối Đại hội III của Đảng (9/1960), nhiều chính sách và các cuộc vận động lớn. Năm 1964 đã đủ lương thực cho toàn xã hội, tự túc 90% hàng tiêu dùng với số dân 17 triệu người. Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.
Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, cả dân tộc đứng trước vận hội mới để phát triển nhưng lại phải đương đầu với những thách thức nặng nề. Hậu quả của 30 năm chiến tranh, cả nước vẫn là nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu với 45 triệu dân. Các nước và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận và phá hoại. Thiên tai và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ác liệt ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc và phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. "Lụt Bắc, lụt Nam, máu đầm biên giới. Tay chống trời, tay giữ đất căng gân" (Tố Hữu). Tình hình khắc nghiệt đó đã dẫn tới đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979.
Đảng cũng thẳng thắn tự nhận thấy khuyết điểm yếu kém của chính mình trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) khởi đầu quá trình tìm đường đổi mới. Tiếp đó là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán trong hợp tác xã nông nghiệp (13/1/1981); Quyết định 25CP, 26 CP (21/1/1981) của Chính phủ trong quản lý công nghiệp; Đại hội V của Đảng (3/1982); Hội nghị Đà Lạt (7/1983); Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6/1985) và Kết luận của Bộ Chính trị (8/1986). Đó là những bước đột phá của quá trình đổi mới từng phần để đi tới đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng (12/1986).
Đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI là kết quả của đổi mới tư duy lý luận, khắc phục nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, bệnh giáo điều, nóng vội và chủ quan duy ý chí. Nhận thức rõ hơn đặc điểm của Việt Nam, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI nhấn mạnh bài học: "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Đại hội VI của Đảng là cột mốc lịch sử đặc biệt mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng và đất nước Việt Nam và cũng thể hiện trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng trước đất nước và nhân dân.
Quá trình đổi mới gần 40 năm qua, Đảng và dân tộc Việt Nam đã lập nên kỳ tích, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện đất nước và mỗi gia đình, mỗi con người. Chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nhưng Đảng và dân ta cũng phải vượt qua nhiều thử thách, nguy cơ. Thử thách rất lớn là ảnh hưởng tiêu cực của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự tồn tại 4 nguy cơ lớn cản trở sự phát triển và đổi mới. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Nguy cơ "diễn biến hòa bình", sự chống phá của các thế lực thù địch. Quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo có một đặc điểm là luôn luôn tranh thủ cơ hội để phát triển và chủ động đẩy lùi nguy cơ, vượt qua mọi cản trở để đi tới.
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên là khái niệm khoa học để chỉ một thời kỳ, một thời đại lịch sử với những nội dung, đặc điểm, đặc trưng nổi bật dẫn dắt một dân tộc hoặc nhân loại đi tới mục tiêu cao cả và hiện thực. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam để đi tới một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hiện đại, văn minh và hạnh phúc. Thực hiện sứ mệnh lãnh đạo trong kỷ nguyên mới đòi hỏi Đảng phải kế thừa thành công trong sự lãnh đạo ở các thời kỳ trước, xử lý những vấn đề mới đặt ra một cách khách quan, khoa học cả về lý luận và thực tiễn, tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn.
Một là, tiếp tục làm rõ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những đặc trưng, hình thức, bước đi phù hợp với thực tiễn của đất nước và sự biến đổi của thời đại. Sự phát triển đó dựa trên 8 đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI thông qua. Đại hội XI đã nêu rõ:
"Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội XIII của Đảng (1/2021) chủ trương: "Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"6 năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
![]() |
Đoàn Chủ tịch điều hành Đại hội. Ảnh: TTXVN |
Đảng trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với điều kiện mới. Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng đổi mới nhận thức và hành động. Với tinh thần đó, năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng công bố tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn và có sự phát triển mới trong nhận thức.
"Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé", vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Tổng Bí thư Tô Lâm, trong bài viết Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh: "Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - "phương thức sản xuất số", trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”.
Đó là những định hướng căn bản cho sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong thời đại và điều kiện mới và cũng là sứ mệnh lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Với sứ mệnh là đội tiên phong lãnh đạo cách mạng và Đảng cầm quyền, bước vào kỷ nguyên mới, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối. Cương lĩnh, đường lối dựa trên lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước và thế giới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng tập trung lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật. Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Quán triệt chỉ dẫn của Bác Hồ: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng bộ máy tổ chức tinh, gọn, mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực, đạo đức, trách nhiệm và chuyên nghiệp và với khả năng ứng dụng khoa học công nghệ. Chú trọng những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám vượt qua thách thức, vì lợi ích chung.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm. Kinh tế phát triển thì đất nước phát triển. Đảng lãnh đạo đất nước có nền kinh tế phát triển cao, quy mô lớn dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại tạo năng suất cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh. Xây dựng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, thương mại, dịch vụ phát triển cao. Không ngừng hội nhập kinh tế quốc tế. Định hình phương thức sản xuất mới, "phương thức sản xuất số". Phát triển kinh tế gắn với chiến lược phát triển khoa học, công nghệ.
Xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc phải bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách xã hội về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập, nhà ở, chữa bệnh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Xây dựng hệ thống tiêu chí quốc gia hạnh phúc phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiếp tục phát triển 3 Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt hơn chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực để phát triển kinh tế. Đặt văn hóa ngang với chính trị và kinh tế. Phát triển văn hóa gắn với giáo dục, đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trí tuệ, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng tăng cường lãnh đạo quốc phòng, an ninh, bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang (quân đội, công an) tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, 4 không. Không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với các nước. Không tham gia liên minh quân sự. Không đi với nước này để chống nước kia. Không để nước ngoài lập căn cứ quân sự, đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, là bạn, là đối tác tin cậy, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tăng cường ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao quốc phòng an ninh. Không ngừng mở rộng hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Lãnh đạo tốt các lĩnh vực trọng yếu trên đây, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng và dân tộc Việt Nam, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng là một hệ thống các phương pháp, hình thức mà chủ thể lãnh đạo tác động vào đối tượng lãnh đạo, xử lý các mối quan hệ và dự báo chiến lược và sự chuyển biến cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến cách lãnh đạo và nhấn mạnh một số điểm. Đảng cần phải ra quyết định cho đúng. Tổ chức thực hiện cho tốt. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, giám sát. Coi trọng dự báo, thấy trước. Lắng nghe ý kiến của nhân dân. Chủ trương nào mà dân chúng cho là không đúng, không phù hợp thì cần nghiên cứu, xem xét để sửa chữa.
Trong lãnh đạo rất cần sự phát triển để thấy được cơ hội, thời cơ đồng thời thấy rõ những khó khăn, thách thức, nguy cơ. Chẳng hạn 4 nguy cơ mà Đảng nêu ra từ năm 1994 đến nay vẫn còn hiện hữu, có mặt còn phức tạp, nhất là nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nguy cơ "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khoa học lãnh đạo và quản lý đòi hỏi nhận thức và xử lý đúng đắn các mối quan hệ và những khả năng diễn biến và phát triển. Cần thiết phải nắm vững quan điểm, phương pháp duy vật biện chứng với sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, phát triển. Khắc phục phương pháp chủ quan, nóng vội, duy ý chí, áp đặt, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm.
Để thực hiện tốt những mục tiêu định hướng quan trọng, Đại hội XIII nhấn mạnh: "Chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện".
Sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ lịch sử và toàn bộ tiến trình cách mạng. Từ xác định đúng mục tiêu, nội dung nhiệm vụ đền cách thức, phương thức lãnh đạo là những vấn đề căn bản gắn liền khoa học lãnh đạo, quản lý và lý luận xây dựng Đảng được kiểm định từ chính thực tiễn của cách mạng. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng phải đặt ra và xử lý đúng đắn hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn đất nước đang đặt ra.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Chuyện Bác Hồ với sinh nhật Đảng
“Chuyện Bác Hồ với sinh nhật Đảng” là nhan đề bài Podcast của tác giả Ngọc Diệp được đăng tải trên báo Quân đội nhân dân tại trang web nhandan.vn mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị và các bạn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Ngày 3/2/1930, Bác Hồ chủ trì Hội nghị thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó đến tháng 9/1969, khi về cõi vĩnh hằng, Bác đã trải qua 39 lần kỷ niệm sinh nhật Ðảng, và lần nào cũng để lại dấu ấn sâu sắc. Sau đây, xin nêu lên vài mẩu chuyện tiêu biểu.
Bác kể lại:
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng anh em cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Hội này đưa thanh niên trong nước ra Quảng Châu, huấn luyện họ, rồi phái họ trở về tuyên truyền và tổ chức khắp cả nước.
Năm 1929, trong khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội khai mạc toàn quốc Ðại hội ở Hương Cảng. Ðại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức Ðảng Cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội nghị ra về.
Sau đó, trong nước dần dần thành lập ba nhóm cộng sản: Ðông Dương Cộng sản Ðảng, An Nam Cộng sản Ðảng và Ðông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Một nước mà ba đảng cộng sản. Cả ba nhóm đều ngầm hiểu như thế là sai. Quần chúng đều hiểu rằng như thế là không đúng. Cả ba nhóm đều tìm cách để đi đến thống nhất. Nhưng bệnh hẹp hòi và cách làm không khéo, cho nên càng muốn gần nhau, lại càng xa nhau.
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Ðể giữ bí mật, các đại biểu khai hội bên sân đá banh của người Trung Quốc. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Ðảng.
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng.
Thế là Ðảng ta chân chính thành lập.
Bác Hồ và bài báo "Ðảng ta"
Tháng 1/1949, nhân kỷ niệm lần thứ 19 Ngày thành lập Ðảng, dưới bút danh Trần Thắng Lợi, Bác viết bài báo có nhan đề "Ðảng ta" đăng trên Tập san Sinh hoạt nội bộ, tức Tạp chí Cộng sản ngày nay.
Bác viết: "Ðảng ta tuy trẻ trung, nhưng đã lập được những công trạng rất to tát... Năm nay, Ðảng ta mới 19 tuổi. Nhưng suốt 19 năm ấy, năm nào cũng là một năm đấu tranh dũng cảm. Kinh qua bao nhiêu cơn sóng gió, bao nhiêu bước khó khăn, càng nhiều gian nan, Ðảng ta càng nhiều rèn luyện, càng thêm vững chắc và rộng lớn. Nhờ chính sách đúng, lãnh đạo chắc, kỷ luật nghiêm, nhờ tư tưởng thống nhất, mà Ðảng ta và dân tộc ta được những thắng lợi vẻ vang ngày nay".
Kinh qua bao nhiêu cơn sóng gió, bao nhiêu bước khó khăn, càng nhiều gian nan, Ðảng ta càng nhiều rèn luyện, càng thêm vững chắc và rộng lớn.
Bác không quên nhắc nhở: "Tuy vậy, chúng ta tuyệt đối không được tự kiêu, tự đại. Chúng ta có nhiều thành công, nhưng chúng ta cũng còn nhiều khuyết điểm. Mỗi đồng chí ta cần phải mạnh dạn và thành thật kiểm điểm mình, kiểm điểm đồng chí mình".
Ðáng chú ý là, hai từ "Ðảng ta" trong bài báo của Bác, từ ấy đã đi vào lòng cán bộ, đảng viên và mỗi người dân nước ta như một biểu hiện sâu đậm của tình cảm trìu mến, thân thương, nói lên nhiều điều mà đến tận ngày nay giá trị vẫn còn nguyên vẹn.
Trước hết, đó là vinh dự và trách nhiệm của người chiến sĩ cách mạng được đứng trong hàng ngũ Ðảng tiên phong chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Ðó là mối quan hệ máu thịt giữa Ðảng với nhân dân; Ðảng coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, ngược lại, nhân dân coi Ðảng là chính đảng của chính mình.
Bác Hồ với lời khẳng định: Ðảng ta thật là vĩ đại
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Ðảng (1960), Bác Hồ nói:
"Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Ðảng ta thật là vĩ đại!".
Ðảng ta vĩ đại thật. Vì Ðảng ta là con nòi xuất thân từ giai cấp lao động... Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Ðảng, tình hình đen tối như không có đường ra.
![]() |
Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, ngày 5/9/1960. (Ảnh: Tư liệu/Báo QĐND) |
Từ ngày mới ra đời, Ðảng ta liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Mầu cờ đỏ của Ðảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong.
Ðảng ta vĩ đại thật... Nhưng thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều. Ngày nay ở miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Ðảng đoàn kết và lãnh đạo nhân dân ta thi đua kiến thiết chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống vui tươi, no ấm và mỹ tục, thuần phong.
Ðảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Ðảng ta không có lợi ích gì khác.
Có lẽ đây là lần đầu tiên, Bác khẳng định Ðảng ta thật là vĩ đại! nhưng cũng sẽ không thừa khi nhắc lại lời Bác trong Báo cáo Chính trị tại Ðại hội II của Ðảng (1951): Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
Bác Hồ với việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Ðảng, Báo Nhân Dân đã đăng trang trọng trên trang nhất bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Bác Hồ, ký tên TL. Nội dung của bài báo chính là ở vấn đề mà Bác thường xuyên quan tâm trong suốt mấy chục năm qua.
Chuyện kể lại: Lần này, sau một thời gian suy nghĩ, ngày 25/1/1969, Bác cho mời đồng chí phụ trách Tuyên huấn của Ðảng đến giao nhiệm vụ chuẩn bị bài viết quan trọng này. Bác nói rõ mục đích, nội dung và nhấn mạnh yêu cầu: Ngắn gọn, tập trung vào chủ đề: "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng". Và đó cũng là tên của bài báo.
Ngày 28/1/1969, Bác sửa lại bài viết rồi cho đánh máy thành nhiều bản gửi đến từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đề nghị tham gia ý kiến.
Chiều 30 tháng Giêng, Bác cùng Văn phòng đọc lại từng ý kiến đóng góp của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, bổ sung vào bản thảo rồi cho đưa đi đánh máy.
Ba giờ rưỡi chiều ngày 1-2, đồng chí phụ trách Tuyên huấn sang gặp Bác xin bản thảo chính thức để kịp gửi đăng báo. Cầm bản thảo cuối cùng do Bác tự đánh máy, liếc sang bản thảo đầu do Ban Tuyên huấn chuẩn bị, đồng chí cán bộ Tuyên huấn gượng cười thưa với Bác:
- Bác chữa hết cả rồi còn gì nữa đâu ạ!
Bác mỉm cười độ lượng:
- Bác chữa nhưng vẫn còn giữ nguyên ý chính của bài là: "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng". Cái đó là quan trọng nhất.
Ðồng chí phụ trách Tuyên huấn đề nghị với Bác xin sửa lại đầu đề. Ðưa vế "nâng cao đạo đức cách mạng" lên trước, chuyển vế "quét sạch chủ nghĩa cá nhân" ra sau, với lý do là cán bộ, đảng viên ta nói chung là tốt, ưu điểm là cơ bản. Ðồng chí cán bộ Văn phòng cũng nhất trí với ý kiến đó.
Bác Hồ im lặng suy nghĩ, cuối cùng Bác nói:
- Ý kiến của các chú, Bác thấy cũng có lý. Nhưng Bác vẫn còn phân vân điều này: gia đình các chú tiết kiệm mua sắm bàn ghế, giường tủ mới. Vậy trước khi kê vào, các chú có quét dọn hay cứ để rác rưởi bẩn thỉu mà khiêng giường ghế bàn tủ vào.
Hai cán bộ Tuyên huấn và Văn phòng thật sự bất ngờ trước cách đặt vấn đề của Bác, đang lúng túng chưa biết trả lời thế nào thì Bác đã nói:
- Vì cả hai chú đã đề nghị, là đa số. Bác đồng ý nhượng bộ, đổi lại tên đầu bài: "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Nhưng ở trong bài thì dứt khoát phải để nguyên ý của Bác "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng".
Bác Hồ là thế đấy. Luôn cẩn trọng trong từng ý, từng lời, từng câu chữ. Chẳng vậy mà gần nửa thế kỷ đã qua, bài báo ấy của Bác vẫn có giá trị để đời cho sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Ðảng của chúng ta .
Kính thưa quý vị, nội dung Podcast của chúng tôi đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Thổi hồn 'Nét Việt' trong bộ sưu tập áo dài của Hoa hậu Ngọc Hân trong mùa Xuân Ất Tỵ 2025
“Thổi hồn “Nét Việt” trong bộ sưu tập áo dài của Hoa hậu Ngọc Hân trong mùa Xuân Ất Tỵ 2025” là nhan đề bài viết của tác giả Thanh Thảo trong chuyên mục Podcast ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Hà Nội vào những ngày cuối năm, ánh nắng dịu dàng phủ lên từng mái nhà, từng góc phố cổ kính. Trong không gian ấy, một buổi chiều đẹp trời tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hoa hậu Ngọc Hân đã đến nơi đây để tìm kiếm nguồn cảm hứng cho bộ sưu tập áo dài mừng xuân mới. Từng bước chân chậm rãi đưa cô qua những tấm bia đá khắc tên các bậc hiền tài, nơi chứa đựng tinh hoa của dân tộc Việt. Từ trong sự tĩnh lặng của thời gian, một hành trình sáng tạo đã được khơi nguồn, mang theo cả tâm huyết của Ngọc Hân dành cho tà áo dài Việt.
Hoa hậu Ngọc Hân - một cái tên không còn xa lạ với công chúng. Từ ngày đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2010 (dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội) đến nay, Ngọc Hân vẫn luôn gắn bó với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại, duyên dáng nhưng cũng đầy thông minh, bản lĩnh và trí tuệ. Đặc biệt, trong vai trò nhà thiết kế áo dài, Ngọc Hân không chỉ mang hình ảnh tà áo dài Việt ra thế giới mà còn góp phần gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa dân tộc qua từng đường kim, mũi chỉ, qua từng câu chuyện được kể lại qua mỗi tà áo dài Việt Nam.
Hành trình từ Văn Miếu đến “nét Việt” trong tà áo dài
Ngọc Hân chia sẻ rằng một lần tình cờ đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào cuối năm 2024, hôm ấy đã trở thành khởi nguồn cho ý tưởng bộ sưu tập áo dài Xuân Ất Tỵ 2025 của nàng hậu. Trong không gian thanh tịnh, cổ kính ấy, Ngọc Hân dường như bị xao động, cuốn hút bởi những đường nét chạm khắc tinh xảo trên những tấm bia tiến sĩ - biểu tượng của truyền thống hiếu học và trí tuệ dân tộc người Việt tự bao đời.
Tại đây, Ngọc Hân lặng lẽ dừng chân trước từng tấm bia, đọc từng dòng chữ khắc sâu trên đá, như thể phần nào cảm nhận được hơi thở của những thế hệ đã qua với bao thăng trầm xưa cổ. Mỗi tấm bia đá hiện hữu như thoáng xa xôi mà lại vô cùng gần gũi ấy chính là một câu chuyện về quá trình người Việt mạnh mẽ, hùng cường vượt qua khó khăn, thử thách để đạt đến đỉnh cao tri thức. Trong khoảnh khắc sâu sắc cháy bỏng ấy, Ngọc Hân như cảm nhận rõ hơn bao giờ hết trách nhiệm riêng có của bản thân mình với vai trò không chỉ là nhà thiết kế, một Hoa Hậu của mảnh đất Hà thành, mà còn là người con gái Việt tài trí, giàu đam mê sẽ thêm một lần dệt lên câu chuyện kết nối quá khứ - hiện tại, qua những tà áo dài mang hồn cốt và những câu chuyện ý nghĩa của dân tộc.
![]() |
Hoa hậu Ngọc Hân trong tà áo dài. |
Chuyến đi ấy cũng đã mang cơ duyên và may mắn kết nối nàng hậu Ngọc Hân đến với cuốn sách “Nét Việt trên bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám” của hai tác giả Trần Hậu Yên Thế và Trần Trung Hiếu. Những nghiên cứu công phu, tỉ mỉ của hai tác giả với khối kiến thức giàu có trong cuốn sách ấy đã mở ra cho Ngọc Hân cánh cửa tri thức, giúp cô nhìn thấy vẻ đẹp sâu lắng vượt thời gian trong từng họa tiết, từng nét khắc trên văn bia tiến sĩ.
“Tôi bị ấn tượng bởi sự tinh tế và ý nghĩa sâu xa của từng hoa văn trên bia tiến sĩ. Những họa tiết rồng phượng, hoa sen hay mây trời đều mang trong mình câu chuyện về khát vọng vươn lên của dân tộc. Chính từ đó, tôi quyết định đưa những nét đẹp ấy vào từng chiếc áo dài trong bộ sưu tập lần này, đặc biệt là phải cảm ơn những cảm hứng và hình ảnh được lấy từ cuốn sách của hai tác giả giàu tri thức và am hiểu về truyền thống văn hoá dân tộc - Trần Hậu Yên Thế và Trần Trung Hiếu. Hai tác giả dường như đã phục dựng rất rõ nét hồn cốt của nét Việt quan những nghiên cứu và hình ảnh của mình qua cuốn sách đầy giá trị đó”, Ngọc Hân xúc động chia sẻ.
Bộ sưu tập Áo dài Xuân Ất Tỵ 2025 của Hoa hậu Ngọc Hân được đặt tên là “Nét Việt” - một cách trân trọng đặc biệt để tri ân và tái hiện giá trị truyền thống người Việt, đặc biệt là mảnh đất Hà thành ngàn năm Văn Hiến - nơi mà cũng như một kỳ duyên tâm ngộ đã đăng quanh một hoa hậu Ngọc Hân, một cô gái gốc Hà thành sinh ra, lớn lên và gắn bó máu thịt với mảnh đất hùng thiêng này. Các thiết kế trong bộ sưu tập của Ngọc Hân đã được nàng hậu lựa chọn và sử dụng chất liệu tơ tằm tự nhiên, kết hợp kỹ thuật thêu tay tinh xảo để tạo nên những tà áo vừa cổ điển vừa hiện đại. Từng chiếc áo dài qua niềm đam mê, trí tưởng tượng, niềm yêu riêng có của Ngọc Hân thiết kế bỗng chốc như một bức tranh huyền mặc thu nhỏ, kể lại câu chuyện ngàn đời về lịch sử của Văn Miếu - nơi lưu giữ đậm nét văn hoá tinh thần dân tộc qua nhiều thế kỷ.
Áo dài - Hồn cốt của phụ nữ Việt
Đối với Ngọc Hân, áo dài không chỉ đơn giản là một bộ trang phục, mà còn là biểu tượng văn hóa, là “hồn cốt” của phụ nữ Việt Nam mà cô vẫn luôn yêu mến và trân trọng gọi tên là Việt phục. Từ những ngày đầu chập chững bước vào thế giới thời trang, Ngọc Hân đã xác định áo dài sẽ là con đường dài hơi đầy đam mê mà nàng hậu xinh đẹp và đa tài muốn gắn bó lâu dài.
Tình yêu với tà áo dài Việt của Ngọc Hân không chỉ dừng lại ở thiết kế mà còn ở việc đưa tà áo dài ấy ra khắp thế giới. Trong các chuyến công tác nước ngoài, từ châu Âu đến châu Á, Ngọc Hân luôn cố gắng quảng bá hình ảnh người phụ nữ Việt qua những bộ sưu tập áo dài bởi những thiết kế tỉ mỉ, tinh xảo và đầy trân trọng qua từng tấm áo của mình. Các mẫu áo dài do Hoa hậu Ngọc Hân thiết kế đã nhận được sự yêu thích của bạn bè quốc tế nhờ sự tinh tế, thanh lịch và đậm chất truyền thống.
Ngọc Hân tâm sự: “Khi nhìn thấy bất kỳ người nước ngoài của quốc gia nào khoác lên mình chiếc áo dài Việt Nam, tôi cảm thấy tự hào vô cùng. Và cũng khi khoác lên mình tà áo dài Việt trên từng đất nước bạn, tôi lại càng trân trọng và tự hào về đất nước và con người Việt Nam thân yêu của mình nhiều hơn. Đó là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của tà áo dài, cho thấy văn hóa Việt Nam đang dần được biết đến nhiều hơn và trân trọng hơn trên thế giới”.
Ngọc Hân kể về một kỉ niệm khó quên khoảnh khắc một nhà ngoại giao nước ngoài đã khóc vì xúc động khi khoác lên mình chiếc áo dài do chính tay cô thiết kế, những nét hoa văn loài hoa lan tím trên tà áo dài Việt Nam lại là loài hoa biểu trưng của dân tộc, của đất nước sở tại của ông. “Ông ấy nói rằng, trong chiếc áo dài, ông cảm nhận được sự ấm áp, gần gũi như chính tình yêu của người Việt dành cho quê hương, đất nước của mình” - Ngọc Hân nhớ lại với nụ cười ấm áp của ông Nicolas Maduro - Tổng thống Venezuela ngày hôm ấy khi đứng chụp ảnh cùng Ngọc Hân cùng tà áo dài truyền thống Việt Nam.
Văn hóa đọc sách - Ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo của Ngọc Hân
Không chỉ là một nhà thiết kế, Ngọc Hân còn là một người yêu sách và đam mê văn hoá đọc sách. Những cuốn sách nghiên cứu về lịch sử, văn hóa luôn là bạn đồng hành của cô trong mỗi dự án thiết kế, hay cả với những chuyến đi xa và dài ngày của Ngọc Hân. Đối với cô, sách không chỉ mở ra cánh cửa tri thức mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho những ý tưởng mới, sáng tác cho những thiết kế mới của mình.
“Đọc sách giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về cội nguồn dân tộc, về những giá trị văn hóa tưởng như đang dần mai một theo thời gian nhưng thật ra vẫn được lưu giữ vô cùng sâu đậm. Những kiến thức thu nhận được từ sách đã giúp tôi rất nhiều trong việc sáng tạo ra những thiết kế áo dài mang đậm dấu ấn Việt” - Ngọc Hân hạnh phúc chia sẻ.
Văn hóa đọc của người Việt Nam từ lâu đã là một phần không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển tư duy, nhân cách của mỗi cá nhân. Đặc biệt, đối với giới trẻ, việc đọc không chỉ giúp họ tiếp cận với tri thức mới mà còn là cầu nối giữa cánh cửa tri thức truyền thống và hiện tại, giữa các nền văn hóa khác nhau. “Trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện nay, việc duy trì thói quen đọc sách sẽ phần nào giúp giới trẻ rèn luyện khả năng tư duy phản biện, mở rộng hiểu biết và nuôi dưỡng tâm hồn. Đọc sách không chỉ mang lại sự hiểu biết về thế giới, mà còn giúp các bạn trẻ phát triển cảm xúc, xây dựng một thái độ sống tích cực, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn và tạo dựng những giá trị bền vững cho xã hội” - Ngọc Hân nói.
Hoa hậu Ngọc Hân đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích văn hóa đọc trong thế hệ trẻ. Theo Ngọc Hân, đọc sách không chỉ là phương thức để trau dồi kiến thức mà còn là cách để nuôi dưỡng tình yêu văn hóa, truyền thống và lịch sử. Điều mà bất cứ người Việt nào, đặc biệt là các bạn trẻ cũng nên cần để trang bị cho bản thân những kiến thức thiết yếu và nên có. “Khi bạn hiểu sâu sắc về lịch sử và văn hóa, bạn sẽ biết cách yêu và trân trọng nó hơn” - Ngọc Hân bộc bạch.
Năm Ất Tỵ trò chuyện cùng Hoa Hậu tuổi Kỷ Tỵ
Trong không khí xuân Ất Tỵ 2025, Hoa hậu Ngọc Hân đã vinh dự trở thành khách mời đặc biệt của chương trình Diễn đàn - Đối thoại của Báo Công Thương: Hoa hậu Việt Nam Ngọc Hân sinh năm 1989, nàng hậu xinh đẹp mang tuổi Kỷ Tỵ dường như là một hình ảnh kết nối đặc biệt với năm mới Ất Tỵ 2025.
Là khách mời của chương trình Diễn đàn - Đối thoại của Báo Công Thương, Ngọc Hân cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại đến việc quảng bá văn hoá áo dài Việt Nam đến với thế giới. Ngọc Hân cho rằng, một đất nước hội nhập phát triển không thể tách rời những giá trị đặc sắc của nét truyền văn hoá dân tộc được gìn giữ lâu đời, và áo dài chính là một trong những nét văn hoá giúp phụ nữ và hình ảnh người Việt Nam tỏa sáng và đẹp hơn trong mắt bạn bè quốc tế. Áo dài Việt Nam không chỉ là để làm đẹp hơn cho mỗi người, mà còn là cách để thể hiện tình yêu quê hương, tự hào về bản sắc dân tộc.
“Thương yêu và tự hào biết mấy khi mỗi lần được nhắc trên môi hai tiếng “Việt Nam” - Ngọc Hân chia sẻ.
Bài Podcast với nội dung “Thổi hồn “Nét Việt” trong bộ sưu tập áo dài của Hoa hậu Ngọc Hân trong mùa Xuân Ất Tỵ 2025” đến đây xin được tạm dừng, hi vọng những chia sẻ của Hoa hậu Ngọc Hân trong bài viết sẽ mang đến cho quý vị những câu chuyện sâu sắc, ý nghĩa. Thân ái chào tạm biệt quý vị!

Đi lễ chùa ngày Tết - một nét đẹp văn hóa tâm linh cần gìn giữ
“Đi lễ chùa ngày Tết của dân tộc Việt Nam - một nét đẹp văn hóa tâm linh cần gìn giữ” là nhan đề bài viết của PGS. TS. Phan Thị Hồng Xuân mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị khán thính giả. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa nói chung đi lễ chùa đầu năm nói riêng, hiểu được các giáo lý của Phật giáo sẽ giúp cho người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đô thị.
Trong văn hóa Việt Nam, "chùa" là hình ảnh gần gũi, thân quen với đại đa số người dân không kể già trẻ, lớn bé, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần dân tộc. Từ ca dao tục ngữ đến các tác phẩm văn học, các ca khúc, ngôn ngữ từ bình dân đến hàn lâm đều góp phần khẳng định vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam.
Ví như:
"Đồng đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh".
Hay:
"Em đi nhớ lũy tre làng
Nhớ ngôi chùa cổ, nhớ hàng cau xanh
Đêm rằm trẩy hội cùng anh,
Mãi vui quên tỏ cùng anh đôi lời!".
Tinh thần cầu nguyện của người Phật tử khi đi chùa
Hình ảnh ngôi chùa là hình ảnh gần gũi thân thương nhất của bao tâm hn, bao cảnh đời - mà thơ ca còn ghi dấu lại trong kho tàng văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có tác phẩm sân khấu truyền thống như "Quan Âm Thị Kính". Học sinh phổ thông trong chương trình ngữ văn lớp 7 được học, phân tích các nhân vật nữ trong tác phẩm này, trong đó có Thị Kính - một phụ nữ gặp nhiều nghịch duyên oan trái nhưng vẫn kiên tâm nhẫn nhục, giữ tròn đạo hạnh để tu hành theo Phật pháp cho đến khi đắc đạo, trở thành một vị Bồ Tát linh thiêng huyền nhiệm.
Không phải chỉ khi gặp oan trái thì phụ nữ mới lên chùa. Trong bài thơ "Em đi chùa Hương" của Nguyễn Nhược Pháp, Trung Đức phổ nhạc ta bắt gặp hình ảnh người con gái Việt Nam duyên dáng, ăn mặc chỉnh chu đi lễ chùa đầu năm với gia đình:
"Hôm nay em đi chùa Hương,
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
Cùng thầy me em vấn đầu soi gương
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
Quần lanh, áo the mới
Tay em cầm chiếc nón quai thao
Chân em đi đôi guốc cao cao...".
Ngoài hình ảnh ngôi chùa Việt trong kho tàng văn học dân gian, bước qua giai đoạn hiện đại nhiều nhạc sĩ Việt Nam mà tiêu biểu và rõ nét nhất là cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - với hơn 600 nhạc phẩm - đã xây dựng trong tâm trí người nghe một ngôi chùa bằng nhạc trong tâm để mỗi người đều biến thành những con người "hình đồng không xuất gia nhưng tâm niệm lại xuất gia". Những triết lý Phật giáo thấm nhuần trong từng nốt nhạc Trịnh Công Sơn đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn từ bi của nhiều thế hệ người
Việt Nam trong và ngoài nước, đặc biệt là những người yêu thích nhạc của ông. Ví như bài hát "Đợi có một ngày" có câu: "... Đợi xóa sân si dưới bóng bò đề"; "Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ" (Ru em). "Từ bi" có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà Phật giáo khuyên tín đồ của mình nên tu dưỡng.
Bên cạnh thế giới văn hóa nghệ thuật, thì thế giới đời thường của người Việt Nam cũng thật gần gũi với tư tưởng và tinh thần của Phật giáo nói chung, hình ảnh ngôi Chùa nói riêng thể hiện qua cách mà người Việt suy nghĩ và diễn đạt. Ví như "cúng Chùa"," vắng như chùa Bà Đanh"; "mượn hoa cúng Phật",...
Những lưu ý khi đi chùa để tránh mắc sai lầm
Trong sự hòa quyện văn hóa dân gian và giáo lý nhà Phật, vào những ngày mùng 1, ngày rằm trong năm, nhiều người dân Việt Nam thường có thói quen đi chùa, thắp nhang cầu an, cầu siêu.... Tuy nhiên, bên cạnh những người đến chùa lễ Phật, hành thiện tích đức, gìn giữ nét văn hóa thanh lịch khi đến cửa chùa thì cũng còn không ít người làm mai một bản sắc văn hóa, gây mất mỹ quan hay nói cách khác làm giảm giá trị văn hóa đích thực khi đi chùa lễ Phật. Qua bài viết dưới góc nhìn văn hóa xã hội, đối chiếu với yêu cầu phát triển của một đô thị văn minh chúng tôi xin được góp thêm một số ý kiến góp phần nâng cao văn hóa ứng xử trong lễ chùa đầu năm của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về văn hóa đi lễ chùa đầu năm của người Việt
Đi lễ chùa đầu năm mới là một nét đẹp trong đời sống tâm linh luôn được duy trì trong mỗi người dân Việt Nam. Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm là về nơi cửa Phật, không đơn giản chỉ để mong muốn và ước nguyện, mà còn là lòng tin và những khoảnh khắc để con người hòa minh vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau những lo toan vất vả trong cuộc sống mưu sinh.
![]() |
Tục lệ đi lễ chùa đầu năm của người Việt Nam. |
Việc đi lễ chùa không chỉ giúp cho người dân Việt Nam giữ gìn được bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, ghi nhớ công ơn ông bà tố tiên mà còn hướng con người tới chân - thiện - mỹ, làm những việc có ý nghĩa cho gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, chức năng tâm lý của tôn giáo cho chúng ta biết rằng khi cuộc sống ngày càng hối hả, tất bật, bon chen, nhiều áp lực... thì con người lại càng muốn tìm về chốn linh thiêng, thanh tịnh.
Đi chùa cầu nguyện để nhận lại điều gì?
Một hình ảnh dễ nhận thấy trong thời gian gần đây đó là vào các mùa lễ, Tết... người dân chen lấn kéo nhau đến chùa, rải tiền lẻ khắp nơi; có một số người đến chùa hái hoa, bẻ cành, lặt trụi hết các chậu hoa, đốt cả bó nhang to, xả rác... chưa kể những cô gái mặc váy ngắn, cười nói to tiếng nơi chốn thanh tịnh làm mất đi tính thiêng liêng của nơi tôn nghiêm.
Rõ ràng, không phải ai đến chùa cũng hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc đi chùa lễ
Phật, hay nói cách khác không phải ai cũng biết cách thực hành nghi lễ ở chùa sao cho đúng. Theo Thượng tọa Thích Thanh Lịch, quan niệm của người xưa, tiền lẻ đặt trong chùa là tiên đóng góp vào hương đăng, hoa quả và dầu đèn. Trải qua thời gian, hiện nay một số người đi chùa đã hiểu sai bản chất tiền dầu đèn, tiền công đức.
Tương tự như vậy hái lộc đầu xuân là một phong tục trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam, mang ý nghĩa, giá trị tinh thần với hy vọng một năm mới nhiều may mắn, tốt lành. Tuy nhiên, phong tục này ít nhiều đã bị biến tướng làm mất đi ý nghĩa nhân văn ban đầu.
"Hái lộc" chỉ mang tính tượng trưng nhưng nhận thức của một số người về hái lộc đầu xuân đã sai lệch, mang khía cạnh tiêu cực, lạm dụng và biến tập tục này trở thành hủ tục. Hình ảnh người đi hái lộc cố sức trèo lên cây bẻ cả cành to, chọn lộc to, lộc đẹp, thậm chí mang cả công cụ trợ giúp để "chặt lộc", "cưa lộc" ngày càng trở nên phổ biến.
Việc lạm dụng tục hái lộc đầu xuân phải được lên án vì không những không phù hợp với tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam mà còn góp phần tàn phá, hủy hoại môi trường sinh thái.
Ăn mặc là quyền tự do của mỗi người nhưng ăn mặc sao cho thanh lịch phù hợp với bối cảnh và nơi chốn chính là văn hóa. Khi đến đền, chùa, miếu, phủ phần lớn mọi người đều ăn mặc chỉnh tề, lịch sự. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người, nhất là giới trẻ vẫn "vô tư" trinh diễn những bộ trang phục thiếu vải, phản cảm. Hành vi này đến nay tuy chưa bị chế tài nhưng bị điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức hay nói cách khác bị xã hội lên án vì sự bất kính với thần Phật, không phù hợp thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Một số ý kiến góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa đi lễ chùa ngày tết của dân tộc Việt Nam
Hiểu và thực hành các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa sẽ góp phần nâng cao các giá trị đời sống tâm linh của người dân Việt Nam nói chung, người dân đô thị nói riêng, trong bối cảnh xây dựng văn hóa, nếp sống văn minh đô thị. Mục đích của việc đi chùa là trải nghiệm đời sống văn hóa và tâm linh để thăng hoa nhận thức, sám hối những việc làm chưa đúng, tu tâm tích đức và thông qua đó cải thiện đời sống xã hội. Nếu không hiểu và làm không đúng thì ranh giới giữa văn hóa và phản văn hóa liên quan đến câu chuyện đi lễ chùa rất mong manh. Theo đó, để gìn giữ nét đẹp văn hóa đi lễ chùa ngày Tết của dân tộc Việt Nam, chúng tôi cho rằng:
Về phía người đi lễ chùa
Chỉn chu từ trang phục, lời ăn tiếng nói đến cử chỉ, hành vi nơi chốn tôn nghiêm. Theo đó, việc chọn và khoác lên mình bộ trang phục truyền thống kín đáo vừa thể hiện sự trân trọng văn hóa dân tộc vừa bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với các vị thân Phật, các anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và giữ nước. Bên cạnh đó, không nói lớn tiếng, văng tục, chửi thề; không chen lấn, xô đẩy tranh nhau xin lộc; không xả rác; không nhét tiền vào tay Phật, không đặt tiền lẻ lên các mãm cúng; thắp vừa đủ số nhang theo quy định và hướng dẫn của nhà chùa,…
Đối với ban quản trị nhà chùa
Cần có bảng hướng dẫn khách thập phương về văn hóa đi lễ chùa; công bố chương trình các lễ hội do chùa tổ chức trong những ngày đầu xuân cùng ý nghĩa giáo lý tốt đẹp của Phật giáo. Không cổ súy cho khách thập phương cúng đốt giấy tiền vàng bạc vì điều này không phải là tinh thần của Phật giáo. Thay vì các thầy chỉ lì xì tiền may mắn (mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng,...) nên thêm vào những câu kinh, kệ có ý nghĩa khuyên răn con người hành thiện, làm những việc có ý nghĩa cho gia đình và xã hội, tránh xa cái ác hướng đến giá trị chân - thiện - mỹ của cuộc sống. Bên cạnh đó việc thiết kế không gian văn hóa tâm linh trong khuôn viên chùa cũng có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao tính thẩm mỹ, giáo dục văn hóa truyền thống và thực hành nếp sống văn minh đô thị đối với Phật tử và du khách.
Cơ quan quản lý văn hóa
Cũng cần phải quyết liệt hơn nữa trong việc quản lý các ấn phẩm mang màu sắc mê tín dị đoan; có biện pháp chế tài các trang web đi ngược lại với tinh thần tư tưởng của Phật giáo. Tuyên truyền giáo dục người dân thực hành nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.
Tóm lại, hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa nói chung đi lễ chùa đầu năm nói riêng, hiểu được các giáo lý của Phật giáo sẽ giúp cho người dân nãng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đô thị.
Bài Podcast đến đây xin tạm dừng, thân ái chào tạm biệt quý vị!

Đầu xuân trò chuyện cùng Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
Nhà máy Z111, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng (CNQP) là một trong những đơn vị quan trọng của ngành quân giới Việt Nam, nhiệm vụ chính là sản xuất và sửa chữa các loại vũ khí bộ binh. Nhà máy đã chế tạo thành công nhiều loại súng mới, công nghệ cao, khẳng định CNQP nước ta tự lực sản xuất được toàn bộ vũ khí bộ binh cho sư đoàn đủ quân. Có được thành công đó phải kể đến việc dám nghĩ, dám làm, tận tâm, tận tụy của tập thể lãnh đạo, chỉ huy, trong đó có Đại tá, TS Phan Thị Hoài Vân - Bí thư Đảng ủy Nhà máy.
![]() |
Đại tá, TS Phan Thị Hoài Vân |
Trưởng thành từ một cán bộ làm nhiệm vụ thương mại quân sự nên công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, được chị Hoài Vân chú trọng. Từ khi về Nhà máy Z111 thì công tác này được chị theo dõi và có những hướng đi hiệu quả. Với cương vị lãnh đạo, Chủ tịch Công ty ở một đơn vị lớn và có bề dày lịch sử, Đại tá, TS Phan Thị Hoài Vân nhận thức rõ trọng trách của mình là vinh dự và là trách nhiệm lớn lao, vì vậy, nó cũng đặt ra cho chị nhiều áp lực. Tận dụng các mối quan hệ truyền thống, Nhà máy nhận được nhiều đơn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường; đời sống cho cán bộ, công nhân viên được nâng lên.

Văn hóa lì xì và những giá trị truyền thống cần gìn giữ
“Văn hóa lì xì và những giá trị truyền thống cần gìn giữ” là nhan đề bài Podcast mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị và các bạn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Văn hoá Lì xì là nét chấm phá ngọt ngào không thể thiếu của Tết Việt, nơi tình thân được trao đi và những giá trị truyền thống mãi được gìn giữ. Những chiếc phong bao đỏ thắm ấy không chỉ gói ghém lời chúc may mắn đầu năm mà còn là sợi dây gắn kết yêu thương giữa các thế hệ.
Khi những tia nắng đầu tiên của mùa xuân lấp lánh trên cành lộc biếc, khi hương trầm dìu dịu hòa cùng tiếng cười rộn rã của những ngày đầu năm, phong bao lì xì đỏ thắm lại xuất hiện như một phần không thể thiếu trong bức tranh ngày Tết của người Việt. Đó không chỉ là món quà nhỏ gửi trao, mà còn là một biểu tượng của sự may mắn, yêu thương và gắn kết.
Những chiếc phong bao ấy chứa đựng nhiều hơn là vài đồng tiền lẻ. Chúng gói ghém lời chúc phúc từ thế hệ này đến thế hệ khác, là cách để người lớn dặn dò con trẻ chăm ngoan, để con cháu tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, để mỗi người thân trao nhau niềm tin và hy vọng cho một năm mới an lành. Phong tục lì xì giản dị nhưng sâu sắc ấy đã theo người Việt qua biết bao mùa xuân, giữ cho ngày Tết luôn ngập tràn hơi ấm gia đình và tình nghĩa.
Ý nghĩa văn hóa sâu sắc của lì xì
Nhắc đến văn hóa truyền thống ngày Tết của người Việt, của Tết Việt, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội chia sẻ: “Tết là một dịp vô cùng đặc biệt đối với văn hóa dân tộc và đặc biệt là đối với từng gia đình. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà cuộc sống vô cùng hối hả, thì Tết là một thời điểm lắng đọng không gian và thời gian lại để cho chúng ta tìm về với gia đình. Vì thế chúng ta vẫn hay gọi Tết là Tết đoàn viên để mọi người cùng về với nhau, chia sẻ những vui buồn, đặc biệt là thực hành những giá trị văn hóa truyền thống.
![]() |
Lì xì đầu năm - một văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. |
Chính vì thế nên những người làm văn hóa như chúng tôi luôn luôn mong muốn rằng chúng ta giữ được cái tinh thần, những cái hồn cốt của giá trị ngày Tết. Từ đó thì chúng ta giữ được văn hóa dân tộc, chúng ta giữ được chủ quyền văn hóa của quốc gia. Rõ ràng rằng khi chúng ta nghĩ về ngày Tết hoặc chúng ta thực hành ngày Tết, chúng ta sẽ thấy rất nhiều những giá trị ý nghĩa trong ngày Tết.
Không chỉ là những giá trị hướng về tổ tiên, nhớ về công lao của bố mẹ, của ông bà, những người đang sống và kể cả những người đã khuất. Khi chúng ta thực hành đạo hiếu như thế, chúng ta sẽ lan tỏa những tinh thần đạo đức quan trọng trong xã hội, xây dựng một xã hội đạo đức. Tạo nên nền tảng cho những giá trị tốt đẹp trong xã hội phát triển.”
Nhắc tới một trong những nét văn hóa ngày Tết - “phong tục lì xì”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng: “Lì xì là một phần văn hóa đẹp của Tết Việt Nam, vừa giản dị, vừa sâu sắc, chúng ta cần trân trọng điều đó như một sợi dây gắn kết giữa các thế hệ. Tuy nhiên, tục lì xì không chỉ dừng lại ở việc trao nhau tiền mừng, mà sâu xa hơn là gửi gắm những hy vọng tốt lành, sự động viên tinh thần và lòng yêu thương, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ và người lớn tuổi.” Ông nhận định.
Không dừng lại ở việc trao tặng, phong tục lì xì còn là cách thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Người lớn lì xì cho con cháu, con cháu lại mừng tuổi cho ông bà, cha mẹ - vòng quay ấy gói trọn sự tôn kính và lòng tri ân, tạo nên một nét đẹp bền vững trong văn hóa ngày Tết Việt Nam.
Những ‘màu xám’ của văn hóa lì xì trong nếp sống hiện đại
Dẫu đẹp đẽ là vậy, văn hóa lì xì trong xã hội hiện đại đôi lúc đã bị biến tướng bởi những giá trị thực dụng đã vô tình len lỏi. Không ít câu chuyện buồn xảy ra khi giá trị của phong bao lì xì bị đánh đồng với số tiền bên trong, dẫn đến áp lực tài chính cho người trao và kỳ vọng không đáng có từ người nhận.
Chia sẻ với Báo Công Thương về nội dung này, danh hài, NSƯT Chí Trung bày tỏ sự trăn trở: “Ngày xưa, những đồng tiền lẻ trong phong bao mang ý nghĩa là lời chúc may mắn, bình an. Nhưng giờ đây, có những người lại coi trọng giá trị vật chất hơn là giá trị tinh thần. Điều đó vô tình làm mất đi cái hồn của phong tục này. Tôi nghĩ, chúng ta cần quay lại những giá trị cốt lõi - trao lì xì để trao yêu thương, may mắn, chứ không phải để so đo nhiều ít hoặc chạy theo hình thức.”
NSƯT Chí Trung cũng nhắc đến câu chuyện giáo dục trẻ em về văn hóa lì xì khi nhiều bậc phụ huynh vô tình gieo vào con trẻ suy nghĩ rằng lì xì chỉ là tiền bạc. Điều đó rất nguy hiểm. “Lì xì phải đi kèm với lời dạy bảo, để các con hiểu rằng mỗi phong bao là một lời chúc, một tấm lòng, chứ không chỉ là con số”, NSƯT Chí Trung bộc bạch.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn thẳng thắn chỉ ra rằng: “Xã hội hiện đại đã vô tình khiến phong tục lì xì bị méo mó trong một số trường hợp. Khi lì xì không còn mang ý nghĩa tinh thần, mà trở thành sự so đo vật chất hoặc công cụ để phô trương địa vị, thì đó là lúc chúng ta phải nhìn nhận lại một cách nghiêm túc”, ông nhấn mạnh. Ông đặc biệt lo ngại khi việc lì xì bị áp lực hóa, khiến nhiều người cảm thấy căng thẳng thay vì vui vẻ. Theo ông, việc chấn chỉnh cần bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức trong từng gia đình, từng cá nhân, để trả lì xì về đúng ý nghĩa vốn có của nó trong ngày Tết đón Xuân của mỗi người.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng cho rằng nét tích cực của văn hóa lì xì là một hình thức giáo dục ý nghĩa: “Trong chiếc phong bao đỏ là cả một thế giới của yêu thương, của mối liên kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại. Nó là minh chứng cho sức sống bền bỉ của văn hóa Việt Nam, ngay cả trong bối cảnh hội nhập toàn cầu”, ông khẳng định.
Ngoài ra, việc sáng tạo trong cách lì xì cũng giúp phong tục này trở nên ý nghĩa hơn. Thay vì chỉ trao tiền, nhiều gia đình đã kèm theo những tấm thiệp nhỏ ghi lời chúc, hay chọn những món quà tinh thần như sách, tranh vẽ, hoặc các vật phẩm mang giá trị giáo dục.
Danh hài, NSƯT Chí Trung cũng đề xuất một ý tưởng đầy cảm hứng: “Tại sao chúng ta không tạo thêm câu chuyện cho những phong bao lì xì? Hãy viết một lời chúc thật chân thành, kể một câu chuyện Tết để người nhận cảm thấy rằng món quà này không chỉ đơn thuần là vật chất mà là cả một tấm lòng”.
Phong bao lì xì - Sợi dây kết nối tình thân
NSƯT Chí Trung tiếp tục câu chuyện đầu năm mới và chia sẻ rằng: “Phong bao lì xì không chỉ mang theo lời chúc đầu năm mà còn là sợi dây kết nối tình thân. Khi bạn cầm phong bao trên tay, đó không chỉ là vật chất, mà là cả một nền văn hóa, một phần ký ức tuổi thơ, một món quà gửi gắm từ thế hệ này sang thế hệ khác.”
“Cùng nhau dọn dẹp nhà cửa trang trí đón Tết, tục cúng ông Công ông Táo, bữa ăn Tất niên bên gia đình cuối năm, tục lệ “mùng 1 Tết cha, mùng 2 Tết mẹ, mùng 3 Tết thầy”, hay văn hóa lì xì nhân dịp đầu năm mới lấy may… tất cả những giá trị đó đều có ý nghĩa giáo dục nhân sinh, giáo dục đạo đức, tuyến giáo con người những điều tốt đẹp, cao cả. Đó cũng là một cơ hội để chúng ta tĩnh tại lại. Đặc biệt, cần phải giữ gìn những nét đẹp truyền thống tốt đẹp đúng như ý nghĩa nhân văn ban đầu của nó”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn chia sẻ.
Hãy để phong tục lì xì tiếp tục là ngọn lửa giữ ấm cho ngày Tết, là niềm hân hoan trong ánh mắt trẻ thơ, là sự an nhiên trong nụ cười của người già, và là khoảnh khắc yêu thương trong mỗi gia đình. Đừng để Tết chỉ còn là những phong bao lạnh lùng trao đi cho xong, mà hãy để từng chiếc lì xì là một câu chuyện, một kỷ niệm đẹp trong lòng người nhận.
Tết là dịp để trở về. Dẫu cho guồng quay của đời sống xã hội hiện đại vẫn đang hối hả, vội vã, giữa những đổi thay của xã hội chuyển mình, thì xin hãy vẫn cứ giữ cho những chiếc phong bao đỏ vẻ đẹp nguyên sơ, ý nghĩa như vốn có. Vì sau cùng, ý nghĩa thực sự của Tết không nằm ở những món quà to lớn, mà ở những điều giản dị nhất - một lời chúc đầu xuân, một nụ cười chân thành, một phong bao lì xì nhỏ nhắn, một trái tim đong đầy, của tình thân yêu thương./.
Nội dung Podcast của chúng tôi đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!