Múa rom vong, món ăn tinh thần của dân tộc Khmer Độc đáo các chùa của đồng bào dân tộc Khmer tại Sóc Trăng |
Nghệ thuật Dù kê mang tính triết lý giáo dục sâu sắc
Nghệ thuật Dù kê ra đời dựa trên trí tuệ, tình yêu cái đẹp, hướng thiện của bà con lao động dân tộc Khmer, là di sản văn hóa của cả dân tộc bởi tính đa dạng, giao thoa văn hóa giữa các dân tộc trong cộng đồng.
Nghệ thuật Dù kê món ăn tinh thần của đồng bào Khmer |
Nghệ nhân ưu tú Lâm Thị Hương, xã Tài Văn, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng cho biết: Dù kê của người Khmer thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, được cộng đồng người Khmer Nam bộ gọi với tên khác là Lakhôn Bassắc, nghĩa là kịch hát của người Khmer. Dù có khá nhiều kiến giải về nguồn gốc ra đời nhưng tựu chung, các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Nghệ thuật Dù kê ra đời trên cơ sở kế thừa những loại hình nghệ thuật đã có trước đó như Rô băm và chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai loại hình sân khấu là tuồng cổ của người Hoa và cải lương của người Kinh. Vì vậy, nghệ thuật Dù kê là tổng hòa các loại hình nghệ thuật, như: Ca, múa, âm nhạc, vũ thuật, phục trang, hóa trang, hội họa...
Trong đó, nghệ thuật Dù kê là loại hình sân khấu ca kịch có cốt truyện rõ ràng, được kết cấu theo chương hồi. Một vở Dù kê được phát triển trên nền nhạc ca hát, đối thoại và động tác diễn. Điểm đặc biệt là mỗi lời hát đều kèm theo các điệu múa, sự kết hợp giữa tay và chân. Vì vậy, người không biết tiếng Khmer khi theo dõi diễn biến của vở Dù kê vẫn có thể hiểu được cốt truyện. Các nhạc cụ Khmer cổ truyền thường sử dụng trên nghệ thuật Dù kê là đàn khưm, giàn nhạc ngũ âm và nhiều nhạc cụ dân tộc khác. Trung bình, thời gian biểu diễn một vở tuồng Dù kê dài khoảng vài giờ đồng hồ.
Tích tuồng các vở Dù kê thường thể hiện lại các truyền thuyết, huyền thoại của dân tộc Khmer như: “Linh-thôn”, “Sac-kinh-ni”… được rút ra từ các trường ca của Ấn Độ: “Ramayana” và “Mahabharada”; những điển tích, truyền thuyết của các dân tộc anh em như: “Thạch Sanh chém chằn”, “Tấm Cám”... của người Kinh, “Trụ vương mê Đắc Kỷ”, “Tam Tạng thỉnh kinh”, “Phàn Lê Huê - Tiết Đinh San”... của người Hoa. Điều này cho thấy sự đa dạng, giao thoa văn hóa trong nghệ thuật Dù kê. Những nhân vật điển hình được khắc họa bằng hình tượng nghệ thuật thông qua cách thể hiện, diễn xuất của các nghệ nhân, nghệ sĩ phản ánh bức tranh xã hội, cuốn hút người xem, làm cho khán giả có lúc như đang hòa mình cùng nhân vật trên sân khấu...
Không những thế, đề tài và nội dung kịch bản của nghệ thuật Dù kê rất phong phú và mang tính giáo dục cao. Dù kê luôn có mặt trong các hoạt động lễ hội và sinh hoạt của người Khmer. Hằng năm, đồng bào Khmer ở Nam bộ có nhiều lễ hội đặc trưng, có thể kể đến một số lễ hội chính như Tết Chol Chnam Thmay, lễ hội Sene-dolta (lễ hội cúng ông bà tổ tiên, vào dịp cuối tháng 8 âm lịch), lễ hội Ok Om Bok (lễ hội cúng trăng, tổ chức vào trung tuần tháng 10 âm lịch)… với nghi lễ và hoạt động biểu diễn văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống. Vào dịp này, các vở diễn của nghệ thuật Dù kê đặc sắc nhất thường được biểu diễn tại ngôi chùa ở các phum, sóc của người Khmer, trở thành một trong những điểm nhấn, hoạt động thu hút sự quan tâm của đồng bào Khmer và cả cộng đồng các dân tộc sinh sống tại mỗi địa phương.
Nghệ thuật Dù kê góp phần giáo dục lòng nhân ái vị tha |
Có thể thấy, nghệ thuật dù kê không đơn thuần là để phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của người dân sau những ngày lao động vất vả. Nghệ thuật Dù kê giúp người xem cảm nhận được điều hay lẽ phải, nhận thức được thiện - ác, chính - tà, định hướng cho con người tự hoàn thiện mình và tiến tới xã hội lành mạnh, tiến bộ. Nghệ thuật Dù kê mang tính triết lý và giáo dục sâu sắc, do đó nghệ thuật sân khấu Dù kê đối với cộng đồng người Khmer Nam bộ là món ăn tinh thần không thể thiếu.
Bảo tồn nghệ thuật Dù kê
Những năm gần đây, do sự chi phối của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, sự lấn át của các loại hình truyền thông giải trí hiện đại mà nghệ thuật Dù kê đang bị mai một dần. Do đó, nhiệm vụ bảo tồn gắn liền với phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật Dù kê được đặt lên hàng đầu.
Theo các nhà nghiên cứu, để bảo tồn nghệ thuật Dù kê, một mặt cần tiến hành điều tra, sưu tầm, thu thập và bảo vệ chúng bằng hình thức sách vở, hình ảnh, băng hình, băng tiếng… được lưu giữ ở các kho lưu trữ, viện bảo tàng. Bên cạnh đó, quan trọng hơn, cần bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể này ngay chính trong cộng đồng bằng cách nuôi dưỡng và phát huy nó trong đời sống xã hội.
Để bảo tồn Dù kê trong chính cộng đồng, việc gắn liền biểu diễn Dù kê với hoạt động du lịch tại các tỉnh có nghệ thuật Dù kê phát triển như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, An Giang thông qua việc tổ chức biểu diễn cho khách du lịch trong và ngoài nước, là một cách làm tốt.
Được biết biểu diễn nghệ thuật Dù kê không hề dễ, người thể hiện phải có năng khiếu cả về ca, múa, cảm thụ văn học, cảm thụ âm nhạc và diễn xuất. Muốn theo nghề, người nghệ sĩ phải có tình yêu và niềm đam mê mãnh liệt với sân khấu truyền thống của dân tộc mình. Do đó, cần có cơ chế đãi ngộ hợp lý để chăm lo tốt hơn đời sống của đội ngũ văn nghệ sĩ, nghệ nhân, đặc biệt là những nghệ nhân có tuổi, có chuyên môn và tâm huyết. Bên cạnh đãi ngộ văn nghệ sĩ lão thành, đồng thời phải có sự tìm tòi, phát hiện, chăm lo bồi dưỡng cho đội ngũ trẻ.
Có thể thấy, nghệ thuật Dù kê đã và đang được các ngành chức năng quan tâm, tạo điều kiện bảo tồn và phát triển. Vấn đề còn lại là sự chung tay lan toả tình yêu môn nghệ thuật Dù kê từ mỗi người dân Khmer trong cộng đồng. Hy vọng trong tương lai không xa nghệ thuật Dù kê sẽ phát huy nâng tầm giá trị và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng.