Luật hóa để làm tan cục ‘máu đông’ nợ xấu
Nợ xấu tăng nhanh
Ngày 18/4, tại Hà Nội, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức tọa đàm Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024.
Toạ đàm Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024. Ảnh: Ngô Hải |
Phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 chính thức có hiệu lực từ 1/7/2024 đã đưa ra những điều chỉnh để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp lý của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã không luật hóa một số quy định trong Nghị quyết 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) của Quốc hội về xử lý nợ xấu như: Quyền thu giữ, kê biên tài sản đảm bảo, hoàn trả tài sản đảm bảo sau vụ án… làm ảnh hưởng tới khả năng xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Nêu số liệu về thực trạng tình hình nợ xấu để thấy sự cần thiết của việc luật hoá nợ xấu, ông Nguyễn Quốc Hùng cho hay, tính đến cuối năm 2024, tỉ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng khoảng 1.030.000 tỷ đồng bao gồm cả năm ngân hàng tái cấu trúc. Nếu loại trừ 5 ngân hàng phải tái cấu trúc thì tỉ lệ nợ xấu khoảng 1,93%, tăng khoảng 0,2% so với năm 2023.
Phân tích cụ thể hơn, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng nhấn mạnh, thời điểm đầu năm 2024, Nghị quyết 42 hết hiệu lực, tiếp đó Thông tư 02 của Ngân hàng Nhà nước về cơ cấu nợ từ thời Covid-19 cũng hết hiệu lực làm cho nợ xấu ngày càng tăng. “Nếu tính tỉ lệ nợ xấu tổng thể là khoảng 5,36%, trong đó nợ nội bảng khoảng 780.000 tỷ, nợ bán cho VAMC khoảng 101.000 tỷ, nợ tiềm ẩn rủi ro 150.000 tỷ. Như vậy, tổng nợ xấu khoảng hơn 1 triệu tỷ đồng vào thời điểm cuối năm 2024”, ông Nguyễn Quốc Hùng chỉ rõ.
Trong khi đó, tốc độ xử lý nợ xấu năm 2024 chủ yếu liên quan đến trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng, xử lý tài sản bảo đảm chiếm 46%; nợ khách hàng tự trả hơn 100.000 tỷ, chiếm tỉ lệ 36%; còn lại là nợ bán cho VAMC. “Nợ được thu hồi thông qua bán tài sản bảo đảm qua thi hành án chỉ 7.000 tỷ, chiếm tỷ lệ rất thấp”, ông Hùng nói.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam phát biểu tại tọa đàm. Ảnh: Ngô Hải |
Đặc biệt, theo Lãnh đạo Hiệp hội Ngân hàng, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2025, tốc độ tăng trưởng nợ xấu rất nhanh đến 34.000 tỷ, nếu tính cả các ngân hàng tái cơ cấu là 1.000.064 tỷ. Trong khi đó, tốc độ xử lý nợ xấu trong 2 tháng đầu năm khoảng 14.000 - 15.000 tỷ, vẫn chủ yếu do các tổ chức tín dụng trích lập dự phòng rủi ro, còn khách hàng tự trả nợ 10.000 tỷ, chiếm 36%, bằng so với năm 2024; tỉ lệ xử lý của ngân hàng trong 2 tháng tăng thêm 2%, lên 48%.
“Như vậy, nguồn xử lý nợ xấu chủ yếu là nguồn từ các tổ chức tín dụng trích lập dự phòng rủi ro. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng, cũng như giảm nguồn lực hỗ trợ ngược lại các doanh nghiệp, dòng tiền không luân chuyển được, ảnh hưởng đến thanh khoản nếu không xử lý kịp thời” - ông Hùng nêu vấn đề.
Điều đáng chú ý, kể cả các bản án đã có hiệu lực thi hành cũng rất vướng mắc, khó khăn. Ông Hùng nêu ví dụ, có bản án đã có hiệu lực thi hành, nhưng qua 27 - 28 lần thi hành án, đấu giá, phát mại tài sản vẫn không xử lý được vì vướng Luật Đất đai. Trong số hơn 40.000 các vụ việc có hiệu lực thi hành, chuyển sang thi hành án, năm 2024, chỉ giải quyết được 15% vụ án với số tiền rất nhỏ so với bản án có hiệu lực.
“Chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân nhưng không có nghĩa bảo vệ những cái sai, khi vay đã cam kết với ngân hàng sẽ trả nợ nhưng sau đó tìm cách dây dưa, tìm mọi biện pháp để trốn nợ, hoặc trả gốc không trả lãi, thậm chí có hội nhóm bùng nợ” - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng nhấn mạnh.
Thức tỉnh ý thức trả nợ
Từ thực tiễn, vướng mắc của các tổ chức tín dụng ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024 không chỉ tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ mà là tiếng chuông cảnh tỉnh để người đi vay phải có ý thức và trách nhiệm trả nợ, xóa bỏ tư duy tìm mọi cách không trả nợ, tìm mọi cách để không bàn giao tài sản, tìm mọi cách để xin miễn lãi, thậm chí vay để trả gốc và cũng không muốn trả lãi trong khi đó tài sản bảo đảm rất lớn.
Cùng với đó, từ những quan điểm đã dự thảo để đưa vào Luật Các tổ chức tín dụng trước đây, Hiệp hội Ngân hàng đã tổng hợp 3 nội dung chính gồm: Luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm; luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án; luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để các tổ chức tín dụng đưa ra thảo luận.
“Về quy định thu giữ tài sản bảo đảm, nội dung quan trọng nhất là cần truyền thông để người dân hiểu, ý thức trách nhiệm đã vay vốn ngân hàng là phải trả nợ, nếu không trả được nợ thì phải tự nguyện bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng hoặc tự xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ ngân hàng. Cùng với đó, cần đưa vào luật trách nhiệm của cơ quan cấp xã gắn liền với nơi có tài sản bảo đảm để có thể phối hợp hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật” - ông Hùng nhấn mạnh.
Trong khi đó, về quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án, tổ chức tín dụng sẽ chỉ được kê biên với những trường hợp ảnh hưởng tới sức khoẻ của người vay hoặc có sự đồng ý của tổ chức tín dụng. Như vậy, đã có tài sản bảo đảm mà tài sản bảo đảm đã bảo đảm khoản nợ thì ngay cả khi kê biên cũng được xem xét đối với những bản án có hiệu lực khác nhằm đảm bảo quyền của các tổ chức tín dụng.
Còn về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vụ việc vi phạm hành chính. Theo ông Hùng, đã có nhiều bản án liên quan đến hình sự, dân sự, hành chính; trong quá trình xét xử, điều tra, xem xét, các tài sản bảo đảm này gần như đóng băng, thậm chí có tài sản sau khi bản án có hiệu lực thì có giá trị bằng 0 vì xuống cấp, tài sản hỏng như hàng hoá... “Đây là một trong những điểm mở của dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi lần này khi những tài sản không ảnh hưởng đến quá trình xét xử, xử lý sau xét xử thì sẽ được hoàn trả” - ông Hùng nói.
TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV góp ý vào dự thảo luật. Ảnh: Ngô Hải |
Đồng quan điểm góp ý về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho rằng, luật hóa các quy định trong Nghị quyết 42 sẽ giải quyết các vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu; đồng thời hài hòa hóa giữa việc bảo vệ quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng với việc thực thi các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. “Những thay đổi này sẽ đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu và giảm chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng, từ đó hỗ trợ việc giảm lãi suất cũng như tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế; đồng thời tăng ý thức trách nhiệm của bên đi vay” - TS. Cấn Văn Lực khẳng định,
Theo vị chuyên gia, quan trọng hơn là tháo gỡ vướng mắc, rào cản, khơi thông nguồn lực, nâng cao hiệu quả, chất lượng pháp luật và đúng tinh thần của Tổng Bí thư, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo “kiến tạo phát triển, song vẫn kiểm soát được rủi ro, chống lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, bất động sản, tiếp cận vốn, thực thi pháp luật... Nhất là trong bối cảnh nợ xấu gia tăng; rủi ro chiến tranh thương mại công nghệ ở mức cao, tác động lớn đến nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam.
Tại Tờ trình số 169/TTr-CP ngày 5/4/2025, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh bổ sung vào Chương trình Quốc hội (Kỳ họp thứ 9, tháng 5/2025) xem xét, thông qua theo quy trình 1 kỳ họp, soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn đối với 13 dự án luật, trong đó bao gồm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. |