Lo ngại phát sinh giấy phép “con” trong quản lý dịch vụ phát thanh, truyền hình
Nhiều quy định mới
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, VCCI cho biết, mục tiêu của VCCI khi tổ chức hội thảo này là nhằm tạo ra một diễn đàn thảo luận chính sách rộng rãi, công khai để giúp các cơ quan nhà nước lựa chọn ra phương hướng chính sách phù hợp nhất, đạt được lợi ích lớn nhất. VCCI mong muốn góp phần xây dựng một văn bản chính sách phù hợp, đảm bảo lợi ích của quốc gia, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế theo đúng chủ trương của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam.
Ông Michael DiGregorio, đại diện Amcham Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn Chính phủ Việt Nam cân nhắc kỹ lưỡng các tác động lên sự phát triển kinh tế và chủ trương đổi mới sáng tạo trước khi ban hành các quy định, chính sách mới nói chung và Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 06/2016/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình nói riêng. “Chúng tôi mong muốn có một môi trường đầu tư công bằng, minh bạch giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số, từ đó góp phần phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam” - ông Michael DiGregorio nói.
Hội thảo thu hút rất đông đại biểu tham dự |
Theo các chuyên gia tại hội thảo, một thay đổi cơ bản đáng chú ý của Dự thảo Nghị định là mở rộng định nghĩa “dịch vụ phát thanh truyền hình” bao gồm cả dịch vụ cung cấp nội dung theo yêu cầu trên Internet, bao gồm các chương trình trong nước, chương trình nước ngoài, phim và các nội dung có hình ảnh hoặc âm thanh khác.
Dự thảo yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này theo hình thức thu phí phải thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam và xin giấy phép tại Bộ Thông tin và Truyền thông trước khi hoạt động. Các nội dung số như video, nhạc trực tuyến phải được biên tập, biên dịch theo quy định của Luật Báo chí, và nhà cung cấp phải đảm bảo tỷ lệ số lượng chương trình trong nước trong tổng số chương trình cung cấp trên dịch vụ theo yêu cầu trên mạng Internet không thấp hơn 30%.
Dự thảo cũng yêu cầu kênh chương trình nước ngoài cung cấp trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền tại Việt Nam phải không bao gồm nội dung quảng cáo được cài đặt sẵn từ nước ngoài. Các nội dung quảng cáo (nếu có) phải được cài đặt tại Việt Nam và do các cơ quan báo chí được cấp giấy phép biên tập là đầu mối thực hiện cài đặt quảng cáo, chịu trách nhiệm về thời lượng, nội dung quảng cáo bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật về quảng cáo như đối với kênh truyền hình trả tiền (có nghĩa là không vượt quá 5% thời lượng nội dung).
Lo ngại gây cản trở doanh nghiệp
Bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) phát biểu, Bộ Thông tin và Truyền thông giải trình mục đích sửa đổi Nghị định này nhằm đảm bảo cạnh tranh và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường, nhưng trong Dự thảo Nghị định lại quy định thêm việc cấp phép, đi ngược lại với mục tiêu đã giải trình. Bộ Thông tin và Truyền thông không bổ sung thêm điều kiện kinh doanh nhưng lại bổ sung danh mục ngành nghề, dịch vụ phát thanh truyền hình trả tiền.
“Trong dự thảo này đã mở rộng phạm vi lĩnh vực quản lý sẽ có tác động lớn hơn việc bổ sung điều kiện kinh doanh. Phạm vi điều chỉnh của dự thảo mở rộng đến tất cả các nội dung có hình ảnh hoặc âm thanh, như vậy sẽ bao phủ một khối lượng rất lớn nội dung trên online, đặt ra câu hỏi về khả năng quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông” - bà Nguyễn Minh Thảo nhấn mạnh.
Đồng tình với ý kiến của đại diện CIEM, ông Nguyễn Văn Nhiêm, Chủ tịch Hiệp hội Phát hành và Phổ biến phim Việt Nam cho rằng, nội dung Dự thảo Nghị định phức tạp và mở rộng quá nhiều, gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động, thậm chí đề cập đến các lĩnh vực ngoài phạm vi của Bộ Thông tin và Truyền thông như lĩnh vực phim điện ảnh hay yêu cầu tỷ lệ tối thiểu 30% các chương trình trong nước... khiến các doanh nghiệp không rõ Bộ Thông tin và Truyền thông hay Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch sẽ quản lý vấn đề này.
“Tôn chỉ của Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra là giảm thủ tục hành chính nhưng trong Dự thảo Nghị định lại tạo giấy phép con, tăng điều kiện sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Vì vậy những điều khoản này cần phải được xem xét cân nhắc kỹ lưỡng” - ông Nguyễn Văn Nhiêm bày tỏ.
Trước vấn đề này, Luật sư Đặng Thanh Sơn, chuyên gia về luật và chính sách từ Công ty Baker McKenzie cũng bày tỏ lo ngại về một số thay đổi trong Dự thảo Nghị định sẽ tạo thêm các gánh nặng về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và là rào cản cho hoạt động đầu tư vào lĩnh vực nội dung số tại Việt Nam. Các doanh nghiệp muốn gia nhập thị trường sẽ cần huy động một nguồn lực lớn để đảm bảo công tác quản lý và triển khai các quy định, đặc biệt là quy định yêu cầu đăng ký thêm giấy phép cung cấp dịch vụ phát thanh - truyền hình trả tiền và biên tập, biên dịch. Bên cạnh đó, quy định không được phép bao gồm nội dung quảng cáo được cài đặt sẵn từ nước ngoài, các nội dung quảng cáo (nếu có) phải được cài đặt tại Việt Nam cũng có thể vi phạm cam kết của Việt Nam theo WTO.
Còn theo ông Vũ Tú Thành, đại diện Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN tại Việt Nam và Hiệp hội Truyền hình đa kênh Châu Á cũng lưu ý tính khả thi trong một số quy định của Dự thảo như việc yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp nội dung phải nộp hồ sơ xin cấp phép cho Bộ Thông tin và Truyền thông bao gồm danh mục nội dung dự kiến và thỏa thuận bản quyền đối với chủ sở hữu bản quyền. Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ OTT, danh mục nội dung có thể lên đến hàng nghìn bộ phim, việc cung cấp danh mục và thỏa thuận bản quyền của toàn bộ các nội dung này là khó khả thi. Cũng như vậy, do số lượng nội dung trong danh mục có thể rât lớn nên việc Dự thảo quy định tỷ lệ nội dung trong nước tối thiểu 30% là rất khó đáp ứng.
Từ góc độ của doanh nghiệp, ông Nguyễn Trinh Thiết, đại diện VNG đặt câu hỏi phạm vi Nghị định có áp dụng đối với các nền tảng trung gian cung cấp nội dung của người dùng đưa lên như mạng xã hội hay không, vì vấn đề này chưa được Dự thảo làm rõ.