Gia hạn thông tư 02 - cổ phiếu ngân hàng "nổi sóng"
Tuần qua, cổ phiếu ngân hàng đã có nhiều phiên bật tăng mạnh sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố Dự thảo Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2023/TT-NHNN (Thông tư 02) về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn.
Cụ thể, ngày 15/5, Ngân hàng Nhà nước cho biết, Chính phủ đã đồng ý với đề xuất của Ngân hàng Nhà nước tại Tờ trình số 53/TTr-NHNN ngày 03/5/2024 cho phép thời hạn thực hiện giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn theo Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2023, Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 23/4/2023 của Chính phủ được kéo dài thêm 06 tháng, đến hết ngày 31/12/2024 và giao Ngân hàng Nhà nước khẩn trương phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xem xét, quyết định và hướng dẫn tổ chức tín dụng triển khai thực hiện, bảo đảm tính liên tục của chính sách.
Theo Ngân hàng Nhà nước, mặc dù kinh tế vĩ mô 2 tháng đầu năm 2024 cơ bản ổn định, nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, dự báo tiếp tục kéo dài trong năm 2024. Chủ trương của Quốc hội và Chính phủ là tiếp tục hỗ trợ tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2024. Do vậy, việc kéo dài thời gian cơ cấu nợ theo Thông tư 02 sẽ góp phần hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn, góp phần hỗ trợ phục hồi phát triển nền kinh tế.
Thông tư 02 quy định tổ chức tín dụng phải xác định số tiền dự phòng cụ thể phải trích đối với toàn bộ dư nợ của khách hàng như trong trường hợp không áp dụng quy định giữ nguyên nhóm nợ và phải thực hiện trích lập bổ sung đầy đủ vào 31/12/2024. Do vậy, đến 31/12/2024, tổ chức tín dụng đã có đủ nguồn tài chính để xử lý rủi ro như trong trường hợp tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định hiện hành (Thông tư 11/2021/TT-NHNN).
Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn |
Vì vậy, trường hợp kéo dài thời gian cơ cấu nợ theo Thông tư đến hết 31/12/2024 sẽ không ảnh hưởng đến cơ chế trích lập dự phòng rủi ro do kéo dài thời gian cơ cấu nợ và giữ nguyên nhóm nợ đối với hệ thống. Ngoài ra, việc kéo dài thời gian cơ cấu nợ theo Thông tư 02 đến 31/12/2024 sẽ góp phần làm giảm mức độ gia tăng nợ xấu nội bảng của tổ chức tín dụng và tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng thực hiện hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, góp phần hỗ trợ phục hồi nền kinh tế.
Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố thông tin trên, trong phiên giao dịch ngày 16/5, nhóm cổ phiếu ngân hàng đã có diễn biến đầy tích cực với 24/27 mã niêm yết và giao dịch trên thị trường UPCoM tăng giá.
Trong đó, LPB tăng trần 6,8% lên mức cao kỷ lục 22.000 đồng/cp (giá đã điều chỉnh) với thanh khoản gấp hơn 3 lần khối lượng giao dịch khớp lệnh trung bình 10 phiên gần nhất; OCB cũng bật tăng gần 4,7% lên 14.500 đồng/cp với thanh khoản đạt mức cao nhất trong 1 tháng trở lại đây.
Tương tự cổ phiếu HDB của HDBank bật tăng mạnh mẽ gần 3% lên sát đỉnh lịch sử khi đạt 24.200 đồng/cp… Cùng với các mã nêu trên, một loạt cổ phiếu ngân hàng trong nhóm VN-30 cũng có được mức tăng tốt như TCB (+3,7%), CTG (+2,6%), MBB (+2,2%), TPB (+2,2%), SHB (2,2%), STB (+2,2%), BID (2,1%), VIB (+2,2%), ACB (+2%), VPB (+1,8%), VCB (+1,8%), SSB (+1,6%).
Với diễn biến trên, toàn bộ 13 mã cổ phiếu tăng mạnh nhất trong nhóm VN-30 đều thuộc về ngành ngân hàng. Đồng thời, nhóm ngân hàng đóng góp 9 trong 10 mã có ảnh hưởng tích cực nhất tới chỉ số VN-Index trong phiên 16/5.
Đến phiên ngày 17/5, nhóm cổ phiếu vua vẫn có nhiều mã tăng như: HDB, LPB, NAB, NVB, PGB, SGB, SHB, STB, TPB. Trong đó, LPB vẫn cho hiệu suất vượt trội với mức tăng 5,5%.
Tuần qua, cổ phiếu ngân hàng đã có nhiều phiên bật tăng mạnh |
Nói về cổ phiếu ngân hàng, ông Lê Hoài Ân, CFA - Founder IFSS, chuyên gia đào tạo và tư vấn hoạt động ngân hàng, Công ty cổ phần Giải pháp tài chính nhận định, chính sách tiền tệ nới lỏng đã hỗ trợ tăng trưởng tín dụng, khiến cho nhóm cổ phiếu ngân hàng nói chung cũng ghi nhận mức sinh lời tích lũy cao so với các ngành khác. Dù khối ngoại vẫn duy trì bán ròng, dòng tiền nội địa đã giúp duy trì đà tăng trưởng của cổ phiếu ngân hàng.
“Chỉ số ngành ngân hàng đã tăng 13% so với mức 7% của chỉ số VN-Index. Tính đến hiện tại, ngành ngân hàng thuộc nhóm ngành có mức sinh lời cao, dao động từ 15 - 20% so với đầu năm”, ông Ân nói.
Tuy nhiên, cũng theo ông Ân, vào tháng 4, diễn biến chỉ số ngân hàng đã kém lạc quan hơn so với ba tháng trước. Triển vọng tăng trưởng thấp và rủi ro gia tăng đã làm cho thị trường đánh giá tiêu cực hơn đối với cổ phiếu ngân hàng. Các ngân hàng cũng cho thấy, sự phân hóa rõ rệt về mức sinh lời, phản ánh đánh giá của thị trường và khả năng tăng trưởng trong tương lai, dựa trên chiến lược khác nhau của từng ngân hàng. Thêm vào đó, trong các cuộc họp đại hội cổ đông, các ngân hàng đã đưa ra những kế hoạch lợi nhuận khiêm tốn hơn so với các năm trước, điều này đã khiến cổ phiếu ngân hàng điều chỉnh đáng kể trong tháng 4.
Ông Ân chỉ rõ, nhóm cổ phiếu ngân hàng quốc doanh đã có mức tăng giá tốt. Trong bối cảnh nợ xấu chưa được phản ánh đầy đủ do việc gia hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN, các ngân hàng quốc doanh với tỷ lệ nợ xấu thấp và tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhận được đánh giá cao từ thị trường. So với các nhóm ngân hàng khác, nhóm ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp ghi nhận mức sinh lời cao nhất nhưng cũng có sự phân hóa lớn trong nhóm này, dựa trên định hướng chiến lược khác nhau của các ngân hàng trong việc lựa chọn phân khúc tăng trưởng tín dụng.
Bên cạnh đó, theo ông Ân, trong nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân, ACB cũng duy trì mức tăng giá tốt hơn so với các ngân hàng khác nhờ duy trì được mức tăng trưởng tín dụng tốt, trong khi các ngân hàng chuyên cho vay bán lẻ khác gặp khó khăn trong việc tăng trưởng do sức cầu yếu từ thị trường. Đối với nhóm ngân hàng khác, mức sinh lời của cổ phiếu kém hấp dẫn hơn nhiều. Vấn đề của các ngân hàng này là tăng trưởng tín dụng nhưng vẫn đảm bảo được tỷ lệ nợ xấu hợp lý. Đặc biệt là khi nhóm này không có lợi thế về chi phí vốn và điều này hạn chế khả năng lựa chọn tệp khách hàng tốt.
“Dài hạn, ngành ngân hàng vẫn chứng minh là một trong những ngành có tiềm năng tăng giá hấp dẫn. Tuy nhiên, sự phân hóa về chiến lược tăng trưởng và khả năng quản trị giữa các nhóm ngân hàng dẫn đến sự khác biệt trong mức sinh lời. Dù chỉ số kinh tế vĩ mô cho thấy sự phục hồi, niềm tin vào khả năng tăng trưởng của ngành ngân hàng vẫn còn rất thận trọng. Do đó, các phân tích cơ bản vẫn đóng vai trò then chốt để có thể lựa chọn ra cơ hội đầu tư tốt”, ông Ân nhấn mạnh.