Nghị quyết số 29-NQ/TW: Đến năm 2030 Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp |
9 kết quả nổi bật sau 10 năm công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Đánh giá tình hình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong 10 năm qua, đồng chí Trần Tuấn Anh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương tại buổi truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 6/12 nêu rõ, Nghị quyết số 29 đã khái quát thành 9 kết quả đạt được rất quan trọng.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm trong 10 năm qua, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỉ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020. Cơ cấu kinh tế vùng chuyển đổi theo hướng tích cực, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng và theo hướng tăng cường liên kết, kết nối vùng, các tiểu vùng, bước đầu gắn kết với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỉ trọng của ngành khai khoáng, tăng nhanh tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy tăng trưởng ngành nông nghiệp ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại.
Thứ năm, ngành dịch vụ phát triển mạnh, theo hướng hiện đại, đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Các phương thức, mô hình kinh doanh trên thị trường xuất hiện, được đổi mới theo hướng văn minh hiện đại, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu, đứng vị trí thứ 6 trong nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu.
Thứ sáu, đô thị hóa tăng nhanh, không gian đô thị được mở rộng, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ bảy, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ, hiệu quả hơn, chất lượng được nâng cao, tạo không gian phát triển, thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tám, phát triển văn hóa, xã hội, con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Thứ chín, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Việt Nam đã và đang trở thành thành viên có trách nhiệm, nỗ lực tham gia góp phần tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
Phân tích những quan điểm chỉ đạo nêu trong Nghị quyết 29-NQ/TW, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, điểm mới của Nghị quyết 29 là nhận thức rõ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một quốc gia và trong bối cảnh kỷ nguyên số, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh giới thiệu nội dung Nghị quyết 29 |
Đồng thời, gắn quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá với xây dựng nền kinh tế, quốc gia độc lập tự chủ, dựa trên nội lực của đất nước, coi nội lực là quyết định. Từ chỗ xuất phát coi công nghiệp hóa là mục tiêu phát triển, thì nay đã chuyển sang coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phương thức để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
“Việc đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là tất yếu khách quan trong tình hình mới”- đồng chí Trần Tuấn Anh nói.
Cũng theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, cùng với việc xác định coi “chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá”, sự đổi mới trong tư duy thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá lần này đó là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sẽ không thể tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu, với lợi thế của nền kinh tế đi sau, cùng với việc chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số, Việt Nam hoàn toàn có thể “kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu” và rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hai giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Nghị quyết 29 xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo 2 giai đoạn.
Giai đoạn 2021 - 2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để tạo ra sự bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước; chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao.
Giai đoạn 2031 - 2045, tập trung nâng cao chất lượng công nghiệp hoá và đẩy mạnh hiện đại hoá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội.
Cũng theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, Trung ương đã phân tích, đánh giá và thống nhất cao cần tập trung xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045 (Make in Vietnam 2045); Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2030.
Nghị quyết cũng đã chỉ rõ các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên nguồn lực và có các cơ chế, chính sách khuyến khích và ưu đãi đủ mạnh để phát triển, tránh dàn trài như: Đối với các ngành công nghiệp nền tảng bao gồm: 1- Luyện kim (ưu tiên phát triển thép hợp kim, thép đặc chủng phục vụ công nghiệp chế tạo máy thế hệ mới, nhất là cho quốc phòng, an ninh). 2- Cơ khí chế tạo (ưu tiên phát triển cơ khí chế tạo cho sản xuất máy nông nghiệp, ô tô, tàu biển, thiết bị công trình, thiết bị năng lượng, thiết bị điện, thiết bị y tế). 3- Hoá chất (ưu tiên phát triển các loại hoá chất cơ bản, hoá dầu, hoá dược, phân bón). 4- Công nghiệp năng lượng (ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, năng lượng mới). 5- Vật liệu (ưu tiên phát triển vật liệu mới). 6- Công nghệ số (ưu tiên phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, Internet vạn vật, thiết bị điện tử - viễn thông, thiết kế và sản xuất chíp bán dẫn).
Đối với ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn là: Công nghiệp sản xuất rô bốt, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp; công nghiệp sinh học (tập trung vào gen, dược phẩm và các chế phẩm sinh học); công nghiệp dệt may, da giày ở các khâu tạo giá trị gia tăng cao dựa trên quy trình sản xuất thông minh, tự động hoá; công nghiệp văn hoá... Đồng thời, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.
10 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu bao phủ những vấn đề lớn
Để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra, Nghị quyết 29 đã đề ra 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu bao phủ những vấn đề lớn từ đổi mới tư duy, nhận thức cho đến hoàn thiện thể chế, chính sách và giải quyết những điểm nghẽn, khắc phục những hạn chế trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua.
Cụ thể, 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu là: Thứ nhất, đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng.
Thứ tư, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Thứ năm, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ sáu, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hoá nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ bảy, phát triển các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ tám, đổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh, bền vững.
Thứ chín, quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển thị trường trong nước.
Cuối cùng, phát huy giá trị văn hoá, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo đảm tốt an sinh xã hội.