Cơ hội phát triển lĩnh vực logistics từ thực thi EVFTA
Là hiệp định thương mại tự do (FTA) tham vọng nhất mà EU từng ký kết với một quốc gia đang phát triển, Hiệp định EVFTA sẽ cùng nhau dỡ bỏ 99% thuế quan trong vòng 10 năm. Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, 65% hàng hóa xuất khẩu của EU sang Việt Nam và 71% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU đã được dỡ bỏ.
Ví dụ, tất cả hàng dệt may xuất khẩu của EU sang Việt Nam hiện được áp thuế bằng 0. Tương tự, tôm Việt Nam được miễn thuế và gạo được cấp hạn ngạch thuế quan miễn thuế. Tuy nhiên, thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng thương mại hàng đầu của cả hai bên sẽ được dỡ bỏ dần chỉ sau 5 - 7 năm. Ví dụ, đây là trường hợp đối với các phương tiện và phụ tùng ô tô của EU và giày dép của Việt Nam thâm nhập thị trường của nhau.
Do đó, thay đổi thương mại quan trọng hơn có nhiều khả năng được quan sát thấy ở giai đoạn sau của quá trình thực thi EVFTA. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam ước tính xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ tăng 42,7% vào năm 2025. Ủy ban châu Âu dự báo xuất khẩu của EU sang Việt Nam sẽ tăng trưởng 29% vào năm 2035.
Do hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam là sản phẩm tiêu dùng, nhu cầu bán lẻ dần ấm lên cùng với sự phục hồi kinh tế đồng nghĩa với việc nhập khẩu từ Việt Nam sẽ tăng. Thuế quan đối với phần lớn các sản phẩm tiêu dùng được sản xuất tại Việt Nam và dành cho châu Âu sẽ chỉ được tự do hóa dần dần trong vòng 3 - 7 năm tới. Nhưng việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, chẳng hạn như đơn giản hóa quy trình thông quan của Việt Nam, sẽ cải thiện thuận lợi hóa thương mại và vận chuyển.
Hơn nữa, việc đẩy nhanh quá trình số hóa do đại dịch gây ra cũng đang tạo ra nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) do Việt Nam sản xuất. Chẳng hạn, Việt Nam là nhà cung cấp lớn thứ 7 thế giới về các sản phẩm này vào năm 2019. Đây cũng là nhà cung cấp chính cho EU, chiếm 13% tổng nhập khẩu điện thoại của EU vào năm 2020.
Về lâu dài, EVFTA sẽ giúp các công ty EU chuẩn bị tốt hơn cho hai thay đổi cơ cấu lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là sự đa dạng hóa và khu vực hóa, mà trong bối cảnh đại dịch có thể tăng tốc. Ví dụ về lĩnh vực dệt may. Về đa dạng hóa, quy tắc xuất xứ được đưa ra trong EVFTA có thể sẽ thúc đẩy Việt Nam tái cấu trúc ngành sản xuất dệt may, nhằm giảm sự phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu thô của Trung Quốc (58%) và từ đó hưởng lợi nhiều hơn từ hiệp định.
Các mức thuế ưu đãi theo EVFTA không chỉ áp dụng cho nguyên liệu dệt may từ EU và Việt Nam, mà còn từ ASEAN và Hàn Quốc, do có hiệp định thương mại với EU. Do đó, điều này cũng có nghĩa là có thể tăng cường liên kết thương mại giữa Hàn Quốc và EU thông qua Việt Nam trong lĩnh vực dệt may, đặc biệt khi Hàn Quốc là nhà cung cấp dệt may lớn thứ hai của Việt Nam. Hàn Quốc chiếm khoảng 16% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, EVFTA và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa EU và Việt Nam hiện đang được các nước EU phê chuẩn sẽ giúp các công ty EU tiếp cận tốt hơn với thị trường Việt Nam, một trong những thị trường hứa hẹn nhất cho các công ty muốn đa dạng hóa nguồn cung ứng của họ.
Liên quan đến khu vực hóa chuỗi cung ứng, EVFTA và các FTA khác mà EU đã ký kết với các nền kinh tế lớn của châu Á, cụ thể là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, cùng nhau mang lại cho EU sự tham gia vào quá trình hội nhập nội khối ngày càng tăng của thị trường châu Á.
Trong lĩnh vực dệt may, việc EU tự do hóa hoàn toàn xuất khẩu sang Việt Nam theo EVFTA, cho phép Việt Nam có được vị thế thuận lợi trong việc xuất khẩu các nguyên liệu dệt may kỹ thuật và cao cấp để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh từ thị trường châu Á.
Tiềm năng to lớn trong thương mại EU - Việt Nam cũng đồng nghĩa với cơ hội đầu tư ngày càng lớn trong lĩnh vực logistics của Việt Nam, phù hợp với tham vọng của Việt Nam trở thành trung tâm hậu cần khu vực vào năm 2025. FTA và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU cho phép EU tham gia cung cấp các dịch vụ vận tải biển, bao gồm dịch vụ đại lý tàu biển, xếp dỡ hàng hóa/container, lưu kho bãi, v.v.
Hơn nữa, triển vọng tích cực đối với thương mại EU - Việt Nam có khả năng tạo ra nhu cầu mới trong vận tải đa phương thức (vận tải hàng hóa đường sắt - đường biển). Giải pháp đa phương thức Đông Nam Á - châu Âu chủ yếu mang tính khái niệm trước đây thông qua Trung Quốc giờ đây dường như có nhiều khả năng trở thành một đề nghị thực sự trên thị trường.
Chẳng hạn, DHL đã cung cấp kết nối vận chuyển đa phương thức từ Hà Nội qua Trung Quốc (Thành Đô/Thâm Quyến) đến Ba Lan và Đức. Tương tự, Nippon Express đã cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa đường sắt Trung Quốc - châu Âu từ Tô Châu đến Hamburg và Duisburg, và vận tải hàng hóa đường sắt Trung Quốc - Đông Nam Á từ Tô Châu đến Hà Nội, kể từ năm 2021. Giải pháp đa phương thức vẫn còn khiêm tốn, nhưng từ năm 2021, khối lượng vận chuyển hàng hóa đường sắt - đường biển giữa Trung Quốc và Đông Nam Á cho thấy tốc độ tăng trưởng 88,5% so với cùng kỳ năm trước, đạt 66.292 tấn trọng tải (TEU). Khối lượng giữa Trung Quốc và châu Âu cũng tiếp tục tăng ở mức hai con số, với mức tăng 84% trong cùng kỳ.