Chú trọng đến tính hiệu lực, hiệu quả
Chính sách nhiều, hiệu quả chưa cao
Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu chính sách cần thúc đẩy được tinh thần tự lực, tự cường trong đồng bào DTTS |
Đề cập đến vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi cùng những chính sách dành cho khu vực này, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hoà Bình khẳng định: Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, phát triển vùng DTTS và miền núi - coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát triển bền vững. Với tinh thần đó, trong nhiều năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật về dân tộc, miền núi không ngừng được hoàn thiện và ưu tiên bố trí, huy động nguồn lực để thực hiện.
Tính đến nay, có 54 chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS, miền núi và đồng bào DTTS rất ít người, đang còn có hiệu lực. Với hệ thống chính sách này, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội vùng DTTS và miền núi đang ngày càng phát triển (98,4% xã có đường đến trung tâm, 98% hộ được sử dụng điện lưới quốc gia); tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, cuối năm 2017, ở các huyện nghèo còn dưới 40%, ở các xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4%/năm. Lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế tiếp tục được quan tâm đầu tư, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập, khám chữa bệnh của đồng bào, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (100% xã có trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở; 99,3% xã có trạm y tế). Công tác bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa của các dân tộc được chú trọng. Thông tin tuyên truyền phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng được nhu cầu thông tin, liên lạc của nhân dân (trên 90% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình)…
Hội thảo có sự tham gia của đại diện các Ban, Bộ, ngành Trung ương, địa phương, các nhà khoa học và nhiều chuyên gia |
Đánh giá cao những thành tựu đạt được do hệ thống chính sách mang lại, nhưng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cũng thẳng thắn chỉ ra những thách thức lớn đang đặt ra đối với vùng DTTS và miền núi, đó là tình trạng thiếu việc làm, đói nghèo, thiên tai, bệnh tật… “Tỷ lệ dân số DTTS chiếm 14,6% nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước; thu nhập bình quân của hộ DTTS, nhiều nơi chỉ bằng 40-50% bình quân thu nhập trong khu vực; vẫn còn khoảng 21% người DTTS trên 15 tuổi chưa đọc thông, viết thạo tiếng Việt; còn hơn 54.000 hộ thiếu đất sản xuất, hơn 58.000 hộ thiếu đất ở, hơn 223.000 hộ thiếu nước sinh hoạt cần được hỗ trợ chưa được giải quyết thấu đáo” – Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh.
“Hiến kế” để bứt phá
Trẻ em người dân tộc Xê Đăng (xã Trà Nam, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam) được thụ hưởng nhiều ưu tiên từ chính sách giáo dục dành cho vùng DTTS và miền núi |
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế của hệ thống CSDT hiện hành, đồng thời xây dựng chính sách giai đoạn 2021 – 2025 có hiệu lực và hiệu quả cao, Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến cho biết, trên cơ sở báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng DTTS và miền núi, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 74/2018/QH14 giao Chính phủ xây dựng “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn”. Trong đó, dự kiến đề án sẽ đề cập đến 6 nhóm chính sách chủ yếu: Nhóm chính sách phân bổ ngân sách quốc gia cho các địa phương vùng DTTS và miền núi; Chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào vùng DTTS và miền núi, ưu tiên vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh; Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển giao thông nông thôn, các cơ sở dạy nghề, giáo dục, y tế....; Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trước hết là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS; Chính sách đặc thù hỗ trợ hộ DTTS khó khăn về đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ DTTS tạo sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
Cụ thể, đặt mục tiêu đến năm 2030 thu hẹp một bước chênh lệch giữa vùng DTTS và miền núi so với vùng phát triển; không còn huyện đặc biệt khó khăn, giảm 50% số xã đặc biệt khó khăn, giảm 60% hộ nghèo DTTS hiện nay; 100% các xã vùng DTTS và miền núi có đủ hạ tầng thiết yếu như đường ô tô cứng hoá đến trung tâm xã, trường học các cấp được kiên cố hoá, 100% trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, nâng cáo chất lượng tiếp cận các dịch vụ phúc lợi cơ bản của người dân; không còn tình trạng hộ DTTS nghèo cùng cực; không còn hộ DTTS thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt mà chưa được hỗ trợ.
Đời sống đồng bào Dao Thanh phán (huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh) đã có những thay đổi tích cực nhờ tác động của chính sách dân tộc |
Để thực hiện được các mục tiêu này, tại hội thảo, các đại biểu đến từ các Ban, Bộ, ngành Trung ương, địa phương; các nhà khoa học, chuyên gia…đã đóng góp nhiều ý kiến về việc xây dựng và thực hiện CSDT trong giai đoạn tới. Cụ thể như chính sách đào tạo nghề phải làm sao gắn với giải quyết việc làm cho bà con? Hay phát triển giáo dục đào tạo nâng cao dân trí cần được xem là “chìa khóa” để mở ra cánh cửa của ấm no, hạnh phúc? Làm gì để bà con tiếp cận được dịch vụ y tế có chất lượng thay vì “Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cao nhưng tỉ lệ khám, chữa bệnh còn thấp” như hiện nay?…
Đặc biệt, đa phần các đại biểu đều thống nhất với những phương châm hướng tới khi xây dựng chính sách mà Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến nêu ra. Đó là: Lượng hóa chính sách bằng “con số” để có thể đánh giá, phân tích được tác động của chính sách. Tăng cho vay ưu đãi, giảm cho không, hỗ trợ có điều kiện. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm (tăng mức đầu tư, giảm đối tượng thụ hướng chính sách). Thu gọn đầu mối theo dõi, quản lý chính sách, phân cấp triệt để đến đối tượng thụ hưởng chính sách (loại bỏ tất cả các khâu trung gian). Trung ương ban hành chính sách khung, phân bổ nguồn lực, hướng dẫn đôn đốc kiểm tra; cấp tỉnh quản lý và tổ chức thực hiện chính sách.
Kết luận hội thảo, Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh: rất trân trọng những ý kiến tâm huyết mà các đại biểu nêu ra, Ban tổ chức hội thảo và Ủy ban Dân tộc sẽ tiếp thu, tổng hợp, phân tích, chắt lọc những ý kiến xác đáng để đưa vào “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn” báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thức 8 (tháng 10/2019) để thực hiện từ năm 2021.