Bước chuyển mình mạnh mẽ của kinh tế biển Quảng Ninh
Mạnh giàu từ biển
Với lợi thế sở hữu 250km bờ biển, trên 6.000km2 mặt nước, tỉnh Quảng Ninh xác định kinh tế biển là mũi nhọn quan trọng của nền kinh tế năng động, phát triển.
Ngày 23/4/2019, Nghị quyết 15-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ra đời, khẳng định quyết tâm của tỉnh trong việc thực hiện mục tiêu trở thành địa phương mạnh từ biển, giàu từ biển.
Sau 5 năm triển khai nghị quyết, kinh tế biển của tỉnh phát triển đúng hướng, từng bước được định hình rõ nét.
Tàu du lịch quốc tế đưa khách đến Hạ Long qua Cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai. Ảnh: Đỗ Phương |
Theo kết quả rà soát của /chu-de/ubnd-tinh-quang-ninh.topic, nhiều chỉ tiêu, mục tiêu được đánh giá đạt so với kế hoạch đề ra. Rõ nét nhất là tổng doanh thu dịch vụ cảng biển trong giai đoạn 2019-2023 đạt trên 14.840 tỷ đồng. Tỷ trọng đóng góp của dịch vụ cảng biển đạt khoảng 0,49% trong GRDP của tỉnh, tăng 0,07% so với năm 2018.
Từ năm 2019 đến tháng 6/2024, tổng lượng khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 64,75 triệu lượt. Bình quân mỗi năm đạt 12,95 triệu lượt khách. Tổng lượng khách du lịch biển đảo đạt 43,3 triệu lượt, bằng 184% so với kế hoạch, vượt mục tiêu đến 2025 của Nghị quyết.
Nhiều khách sạn tiêu chuẩn 4-5 sao và các loại hình du lịch chất lượng, đặc sắc, đa dạng, có giá trị gia tăng cao về du lịch biển đảo gắn với việc phát huy giá trị di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long đã hoàn thành, đưa vào vận hành khai thác.
Quy mô ngành kinh tế hàng hải đã thể hiện rõ được vai trò của mình khi chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị gia tăng của kinh tế biển. Theo thống kê, trong giai đoạn 2019 - 2023, tổng công suất khai thác hệ thống cảng biển Quảng Ninh đạt khoảng 170 triệu tấn/năm.
Tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu qua cảng biển trên địa bàn đạt 38,6 tỷ USD, bình quân 7,72 tỷ USD/năm Tổng doanh thu dịch vụ cảng biển trong giai đoạn 2019 - 2023 đạt trên 14.840 tỷ đồng. Tỷ trọng đóng góp của dịch vụ cảng biển chiếm 0,49% GRDP của tỉnh, tăng 0,07% so với năm 2018.
Ngành thủy sản phát triển toàn diện cả về nuôi trồng, khai thác và chế biến. Công nghiệp của Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, nâng cao hiệu suất, bảo vệ môi trường.
Tại hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU, bà Trịnh Thị Minh Thanh - Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Quảng Ninh khẳng định, sau 5 năm thực hiện nghị quyết, kinh tế cảng biển và dịch vụ cảng biển của Quảng Ninh đã cơ bản phát triển đúng hướng, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Đây là tiền đề quan trọng để tới đây, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục thực hiện mục tiêu về phát triển kinh tế biển.
Gỡ được "nút thắt" về hạ tầng, cơ chế
Nhận thức về vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển từng bước được nâng lên rõ rệt. Công tác rà soát, đề xuất xây dựng quy hoạch hệ thống cảng biển Quảng Ninh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 về Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030. Công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin để giảm thời gian giải quyết các thủ tục hải quan, quản lý hoạt động cảng vụ đã cơ bản hoàn thành theo yêu cầu.
Quảng Ninh đã hình thành và đưa vào quy hoạch các khu chức năng, khu dịch vụ nhà hàng, trung tâm mua sắm hiện đại tại các cảng khách quốc tế như Tuần Châu; khu vực cảng Hòn Gai và sân bay quốc tế Vân Đồn; đã và đang triển khai thu hút các dự án đầu tư phát triển cảng biển, dịch vụ cảng biển, khu vực hậu cần sau cảng và logistics tại khu kinh tế ven biển Quảng Yên với diện tích khoảng 6.282,27 ha vượt hơn so với mục tiêu của Nghị quyết...
Để tiếp tục đánh thức tiềm năng, thế mạnh của biển, hiện tỉnh Quảng Ninh đang tập trung rà soát, hiện thực hóa các quy hoạch và có định hướng dài hơi cho phát triển - Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Quảng Ninh |
Tỉnh hiện có 8 khu bến cảng và 2 khu neo đậu, chuyển tải. Để phát huy tiềm năng, lợi thế, Quảng Ninh ưu tiên dành nguồn lực, khuyến khích, huy động mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển, bến bãi và hạ tầng kết nối cảng biển theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Từ nguồn lực xã hội hóa, Quảng Ninh đã huy động được nguồn vốn rất lớn để đầu tư phát triển dịch vụ cảng, như Cảng khách quốc tế Hòn Gai, Cảng khách quốc tế Tuần Châu, Bến cảng cao cấp quốc tế Ao Tiên…
Quảng Ninh cũng đang dành nguồn lực đầu tư tuyến đường ven sông kết nối một loạt cảng biển tại Khu kinh tế ven biển Quảng Yên với các trung tâm phát triển trong tỉnh và các tỉnh, thành phố lân cận. Đó là mở các nút giao trên tuyến cao tốc Hạ Long - Hải Phòng với các khu công nghiệp, cảng biển tại Quảng Yên; tuyến đường kết nối cảng Vạn Ninh với cao tốc Vân Đồn - Móng Cái.
Đặc biệt, nhờ đẩy mạnh đầu tư hệ thống đường giao thông kết nối các khu công nghiệp, khu kinh tế, các vùng sản xuất lớn và những khu vực có tiềm năng về phát triển cảng biển, dịch vụ cảng biển, du lịch (đường nối Khu công nghiệp Cái Lân đến cao tốc Hạ Long - Vân Đồn; đường kết nối đường tỉnh 331 với đường tỉnh 338 - thị xã Quảng Yên; đường trục chính thứ 2 của Khu công nghiệp Hải Hà và đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả…); hệ thống giao thông liên vùng và quốc tế (cao tốc Hải Phòng - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái; sân bay Vân Đồn)… Quảng Ninh tạo ra hệ thống kết cấu hạ tầng liên thông, đồng bộ, hiện đại, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển.
Quy mô ngành kinh tế hàng hải của tỉnh ngày càng gia tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị gia tăng của kinh tế biển. Đến nay nhiều ngành kinh tế biển và ven biển đã trở thành động lực tăng trưởng. Trong đó ngành du lịch và dịch vụ biển vượt qua khó khăn trong dịch bệnh, tiếp tục phát triển, khẳng định thương hiệu, vị thế của tỉnh là một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước.
Theo ông Hoàng Quang Hải, Giám đốc Sở Giao thông - Vận tải tỉnh Quảng Ninh, việc đầu tư các tuyến giao thông kết nối sẽ giúp thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các cảng biển, tạo thuận lợi hơn trong việc chuyên chở hàng hóa từ sâu trong nội địa ra các cảng và ngược lại, góp phần giảm chi phí logistics.